Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Skkn tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học địa lí đị...

Tài liệu Skkn tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học địa lí địa phương lớp 12

.PDF
118
156
57

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, làm thay đổi tất cả các lĩnh vực, trong đó đặc biệt là khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo…dẫn đến sự chuyển biến nhanh chóng về cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực của nhiều quốc gia. Điều này đòi hỏi giáo dục và đào tạo phải có những thay đổi một cách căn bản, toàn diện từ triết lí, mục tiêu đến nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy – học…nhằm phát triển cho người học hệ thống năng lực cần thiết để có thể tham gia hiệu quả vào thị trường lao động trong nước và quốc tế. Vì vậy, phát triển chương trình giáo dục phổ thông dựa trên tiếp cận năng lực là một lựa chọn tất yếu khách quan và phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội. Theo đó, việc dạy học không phải là “tạo ra kiến thức”, “truyền đạt kiến thức” hay “chuyển giao kiến thức” mà phải làm cho người học học cách đáp ứng hiệu quả các đòi hỏi cơ bản liên quan đến môn học và có khả năng vượt ra ngoài phạm vi môn học để chủ động thích ứng với cuộc sống lao động sau này. Quan điểm dạy học tích hợp, dạy học trải nghiệm sáng tạo với mục tiêu phát triển các năng lực ở người học, giúp họ có khả năng giải quyết và đáp ứng sự biến đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại để đem lại thành công cao nhất trong cuộc sống. Theo Dự thảo Đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015 đã nêu: “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo (HĐ TNST) bản chất là những hoạt động giáo dục (HĐGD) nhằm hình thành và phát triển cho HS những phẩm chất tư tưởng, ý chí tình cảm, giá trị, kỹ năng (KN) sống và những năng lực cần có của con người trong xã hội hiện đại. Nội dung của HĐ TNST được thiết kế theo hướng tích hợp nhiều lĩnh vực, môn học thành các chủ điểm mang tính chất mở. Hình thức và phương pháp tổ chức đa dạng, phong phú, mềm dẻo, linh hoạt, mở về không gian, thời gian, quy mô, đối tượng và số lượng,… để HS có nhiều cơ hội tự trải nghiệm”. 1 Từ quan niệm này cho thấy, HĐ TNST coi trọng các hoạt động thực tiễn mang tính tự chủ của HS, về cơ bản là hoạt động mang tính tập thể trên tinh thần tự chủ cá nhân, với sự nỗ lực giáo dục giúp phát triển sáng tạo và cá tính riêng của mỗi cá nhân trong tập thể. Đây là những HĐGD được tổ chức gắn liền với kinh nghiệm, cuộc sống để HS trải nghiệm và sáng tạo. Điều đó đòi hỏi các hình thức và phương pháp tổ chức HĐ TNST phải đa dạng, linh hoạt, HS tự hoạt động, trải nghiệm là chính. Dạy học thông qua tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động khác nhau của đời sống nhà trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của cá nhân mình. Trong chương trình địa lí THPT, số lượng kiến thức địa lí địa phương là một tiết thực hành tìm hiểu về môi trường xung quanh nơi HS đang sống đối với lớp 10, chương trình nâng cao và hai tiết thực hành về tìm hiểu địa lí địa phương tỉnh Vĩnh Phúc đối với lớp 12, chương trình cơ bản. Xuất phát từ thực tế, nội dung chương trình kiến thức địa lí địa phương lớp 12 là các bài thực hành về tìm hiểu tự nhiên, dân cư, các ngành kinh tế của các tỉnh, thành phố. Đây là kiến thức thực tế của mỗi địa phương liên quan tới những vấn đề cụ thể thực tế địa phương các em sinh sống, nó không phải là kiến thức lí thuyết cụ thể như các nội dung khác đòi hỏi giáo viên và học sinh phải tìm hiểu qua các tài liệu ở địa phương, qua tham quan thực tế…Vì vậy để học sinh có hiểu biết và vận dụng kiến thức lí thuyết đã học vào tìm hiểu thực tiễn địa phương mình thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo các em có thế tiếp cận, làm chủ kiến thức, dễ dàng vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết tình huống thực tiễn. Chính qua đó, tạo điều kiện phát triển các phương pháp và kĩ năng cơ bản ở người học như: lập kế hoạch, phân tích, tổng hợp thông tin, đề xuất các giải pháp một cách sáng tạo …tạo cơ hội kích thích động cơ, lợi ích và 2 sự tham gia vào các hoạt động học, thậm chí với cả học sinh trung bình và yếu về năng lực học đồng thời giáo dục tình yêu quê hương đất nước, ý thức trách nhiệm với địa phương. Qua thực tế giảng dạy ở trường phổ thông nhiều năm, tác giả nhận thấy nếu vận dụng phương pháp dạy học truyền thống trong địa lí địa phương sẽ không gây hứng thú từ phía học sinh, các em hiểu biết về địa phương mình rất hời hợt mang tính lí thuyết, thiếu thực tế. Vì vậy, để học sinh hiểu rõ hơn vấn đề môi trường ở địa phương mình và các vấn đề về tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc, tác giả đã tổ chức một số hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong quá trình thiết kế và dạy học địa lí địa phương nhằm nâng cao hứng thú của học sinh trong quá trình tiếp thu kiến thức. Với tất cả những lí do trên, tác giả đã chọn đề tài: Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học địa lí địa phương lớp 12 THPT tỉnh Vĩnh Phúc. 2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài Vấn đề hoạt động học tập qua trải nghiệm sáng tạo không phải là vấn đề mới với nhiều nước trên thế giới, nhưng với Việt Nam vấn đề này còn khá mới mẻ. Đặc biệt chưa có tài liệu nghiên cứu, tác phẩm, luận văn, luận án nào trình bày cụ thể chi tiết đến tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Địa lí địa phương. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã tham khảo, tiếp cận các loại tài liệu đề cập đến những vấn đề chung của hoạt động trải nghiệm sáng tạo như sau: 2.1. Tài liệu nước ngoài Lý luận về giáo dục đã được nhiều các nhà tâm lí học, giáo dục học quan tâm nghiên cứu và hoàn thiện từ khá sớm. Hệ thống lý luận về hoạt động trải nghiệm sáng tạo tuy có nhiều nghiên cứu khác nhau song được trình bày thống nhất với hệ thống lý luận về hoạt động dạy học. Đầu tiên phải kể đến Lý thuyết Hoạt động nghiên cứu về bản chất quá trình hình thành con người. Luận điểm 3 cơ bản của Lý thuyết Hoạt động, đã trở thành nguyên tắc nghiên cứu bản chất người và quá trình hình thành con người, đó là “Tâm lí hình thành thông qua hoạt động”. Theo tác giả Phạm Minh Hạc trong bài viết “Phương pháp tiếp cận hoạt động nhân cách và lý luận chung về phương pháp dạy học” đăng trong tạp chí nghiên cứu giáo dục thì điều này có nghĩa là, chỉ thông qua hoạt động của chính bản thân con người, thì bản chất người, nhân cách người đó mới được hình thành và phát triển. Hoạt động là phương thức tồn tại của con người. Không có hoạt động, không có con người, do vậy cũng không có xã hội loài người. Nguyên tắc “Tâm lí hình thành thông qua hoạt động” có ý nghĩa chỉ đạo, tổ chức các hoạt động giáo dục con người trong nhà trường trong học tập và giáo dục, rèn luyện, việc lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo…là hoạt động của chính người học. Con người có tự lực hoạt động mới biến kiến thức, kinh nghiệm mà xã hội tích lũy được thành tri thức của bản thân. Một trong những lý thuyết nghiên cứu trực tiếp đến hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học là Lý thuyết Học từ trải nghiệm của David A Kolb. Trong Lý thuyết học từ trải nghiệm, Kolb cũng chỉ ra rằng “Học từ trải nghiệm là quá trình học theo đó kiến thức, năng lực được tạo ra thông qua việc chuyển hóa kinh nghiệm. Học từ trải nghiệm gần giống với học thông qua làm nhưng khác ở chỗ là nó gắn với kinh nghiệm và cảm xúc cá nhân” . Lý thuyết “Học từ trải nghiệm” là cách tiếp cận về phương pháp học đối với các lĩnh vực nhận thức. Nếu như mục đích của việc dạy học chủ yếu là hình thành và phát triển hệ thống tri thức khoa học, năng lực và hành động khoa học cho mỗi cá nhân thì mục đích hoạt động giáo dục là hình thành và phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, sự đam mê, các giá trị, kĩ năng sống và những năng lực chung khác cần có ở con người trong xã hội hiện đại. Để phát triển sự hiểu biết khoa học, chúng ta có thể tác động vào nhận thức của người học; nhưng để phát triển và hình thành phẩm chất thì người học phải được trải nghiệm. Như vậy, trong lý thuyết của Kolb, trải nghiệm sẽ làm cho việc học trở 4 nên hiệu quả bởi trải nghiệm ở đây là sự trải nghiệm có định hướng, có dẫn dắt chứ không phải sự trải nghiệm tự do, thiếu định hướng. Từ giữa thế kỉ XX, nhà khoa học giáo dục nổi tiếng người Mĩ, John Dewey, đã chỉ ra hạn chế của giáo dục nhà trường và đưa ra quan điểm về vai trò của kinh nghiệm trong giáo dục. Với triết lí giáo dục đề cao vai trò của kinh nghiệm, Dewey cũng chỉ ra rằng, những kinh nghiệm có ý nghĩa giáo dục giúp nâng cao hiệu quả giáo dục bằng cách kết nối người học và những kiến thức được học với thực tiễn. Theo ông học qua trải nghiệm xảy ra khi một người sau khi tham gia trải nghiệm nhìn lại và đánh giá, xác định cái gì là hữu ích hoặc quan trọng cần nhớ và sử dụng những điều này để thực hiện các hoạt động khác trong tương lai. Những quan điểm này chính là cơ sở lý thuyết cho việc xây dựng hoạt động trải nghiệm trong giáo dục.Vận dụng quan điểm học tập trải nghiệm sáng tạo, rất nhiều các quốc gia trên thế giới đã đưa học tập trải nghiệm sáng tạo vào chương trình giáo dục từ rất sớm và đạt được hiệu quả cao trong giáo dục.Tại Hàn Quốc (một trong những quốc gia có nền giáo dục phát triển nhất của khu vực), trong cuốn “ Hoạt động trải nghiệm sáng tạo” – Bộ KH - KT và GD Hàn Quốc, 2009, đã nói tới một trong những chương trình đổi mới của giáo dục Hàn Quốc là hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là những hoạt động nằm ngoài các hệ thống các môn học trong nhà trường, đó là những hoạt động tự chủ, hoạt động câu lạc bộ, hoạt động từ thiện và hoạt động định hướng. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo Hàn Quốc không tách rời hệ thống các môn học trong nhà trường mà có quan hệ tương tác, bổ trợ nhau để hình thành và phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, kĩ năng sống và năng lực cần có trong xã hội hiện đại. Hoạt động này mang tính thực tiễn rất cao, gắn bó với đời sống và cộng đồng, có tính tổng hợp nhiều lĩnh vực giáo dục. Ở nước Anh, việc học được chia sẻ bởi nhà trường và nhiều tổ chức, cá nhân, xã hội cùng chung tay gánh vác. Trong “Chương trình giáo dục phổ 5 thông Anh Quốc” ( 2013). Trung tâm Widehorizon thành lập năm 2004 (Chân trời rộng mở) như là niềm hi vọng của giáo dục ngoài trời trong đó có dạy học phiêu lưu - mạo hiểm - một hình thức của hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Tầm nhìn sứ mạng của tổ chức này đơn giản là: “Chúng tôi tin rằng mỗi đứa trẻ đều có cơ hội trải nghiệm những tri thức về phiêu lưu mạo hiểm như là một phần được giáo dục trong cuộc đời chúng”. Tầm nhìn chiến lược ấy bắt đầu từ một hiện thực được cho là khó tin: Hơn 50% trẻ con nước Anh chưa từng biết đến nông thôn, miền quê là gì, riêng thủ đô London con số này là 35%. Việc nhiều trẻ em chưa biết đến nông thôn là gì, cùng với sự suy giảm đáng kể cơ hội giáo dục thông qua các tổ chức tham quan cho trẻ con ở các trường phổ thông là nguyên nhân lớn của sự lo lắng tương lai trẻ nhỏ,về quyền được kết nối với thiên nhiên giảm sút và vô số nhưng lợi ích liên quan đến “giáo dục ngoài trời” - một hình thức của tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Tóm lại, nghiên cứu của các nhà tâm lí học, các nhà giáo dục học, cũng như mô hình học tập trải nghiệm mà các nước trên thế giới đang tiến hành đều khẳng định rõ vai trò, tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong việc hình thành và phát triển năng lực học sinh. Đây chính là nội dung chúng tôi tiếp cận vận dụng trong dạy học Địa lí địa phương ở Việt Nam nhằm tiếp cận với nền giáo dục thế giới. 2.2. Trong nước Xác định tầm quan trọng của hoạt động TNST trong dạy học, Nghị quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo có đề cập đến vấn đề tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh như là một phương pháp dạy học tích cực trong quá trình dạy học. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo bản chất là những hoạt động giáo dục nhằm hình thành và phát triển cho học sinh phẩm chất tư tưởng, ý chí tình cảm, giá trị và kĩ năng sống và những năng lực cần có của con người trong xã hội hiện đại. Nội dung của hoạt động trải nghiệm sáng tạo được thiết kế theo hướng tích hợp nhiều 6 lĩnh vực, môn học thành các chủ điểm mang tính chất mở. Hình thức và phương pháp tổ chức đa dạng, phong phú, mềm dẻo, linh hoạt, mở về không gian thời gian, quy mô, đối tượng và số lượng…để học sinh có nhiều cơ hội tự trải nghiệm và phát huy tối đa khả năng sáng tạo của các em. Trong Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể Việt Nam sau 2015, cũng đề cập đến 8 lĩnh vực học tập chủ chốt và hoạt động giáo dục với tên gọi hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Trong đó, hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động mới với cả 3 cấp học, được phát triển từ các hoạt động tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp, ngoại khóa của chương trình hiện hành, được thiết kế thành các chuyên đề tự chọn nhằm giúp học sinh phát triển các năng lực, kỹ năng, niềm tin, đạo đức…nhờ vận dụng những tri thức, kiến thức, kỹ năng đã học được từ nhà trường và những kinh nghiệm của bản thân vào thực tiễn cuộc sống một cách sáng tạo thông qua các hình thức và phương pháp chủ yếu như: tham quan, thực địa, câu lạc bộ, hoạt động xã hội/tình nguyện, diễn đàn, giao lưu, hội thảo, trò chơi, cắm trại, thực hành lao động. Điều này cho thấy tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm sáng tạo cũng như định hướng đổi mới mạnh mẽ hoạt động này ở trường phổ thông trong giai đoạn tới [13] Ở Việt Nam, một số công trình nghiên cứu về lí luận dạy học cũng đề cập đến vấn đề tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo. Người đầu tiên nghiên cứu phát triển ứng dụng Lý thuyết Hoạt động vào nhà trường chính là GS.VS. Phạm Minh Hạc. Theo ông, thông qua hoạt động của chính cá nhân, bản thân mới được hình thành và phát triển. Như vậy, trong học tập và giáo dục, rèn luyện, việc lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, lĩnh hội các giá trị xã hội là hoạt động của người học. Con người có tự hoạt động mới biến kiến thức, kinh nghiệm mà xã hội tích lũy được thành tri thức của bản thân. Trong nước, thời gian qua cũng có nhiều bài báo, bài nghiên cứu khoa học về tình hình học tập trải nghiệm sáng tạo như: Kỉ yếu hội thảo: “Tổ chức hoạt đông trải nghiệm sáng tạo cho học sinh phổ thông và mô hình phổ thông 7 gắn với sản xuất kinh doanh tại địa phương” của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đã thu hút rất nhiều bài viết của các tác giả trong cả nước. Đã có 19 bài của 21 tác giả gửi đến hội thảo, trong số đó có một số bài viết hay, đã đề cập ở mức độ nóng vấn đề tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh như:Trong bài viết “Một số vấn đề về hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình giáo dục phổ thông mới”, PGS.TS Lê Huy Hoàng, trường Đại học Sư phạm Hà Nội có đề cập tới quan niệm về hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Tác giả cũng đề cập đến nội dung, đặc điểm của hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Bài viết của PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống nghiên cứu “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo – kinh nghiệm quốc tế và vấn đề của Việt Nam”. Trong đó, tác giả giới thiệu kinh nghiệm tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong giáo dục phổ thông nước Anh và Hàn Quốc. Đây đều là những nước đã đưa hoạt động trải nghiệm sáng tạo vào chương trình đào tạo từ sớm và đạt được những kết quả to lớn. Hoạt động trải nghiệm diễn ra với nhiều hình thức như: hoạt động câu lạc bộ, tổ chức trò chơi, diễn đàn, sân khấu tương tác, tham quan dã ngoại, hội thi, tổ chức sự kiện, hoạt động giao lưu hay hoạt động chiến dịch, hoạt động nhân đạo… Bài viết của PGS.TS Đinh Thị Kim Thoa, ĐHGD - ĐHQGHN “ Hoạt động trải nghiệm sáng tạo góc nhìn từ lí thuyết và học từ trải nghiệm” có đề cập đến sự khác biệt giữa học đi đôi với hành, học thông qua làm và học từ trải nghiệm. Trong đó, “học từ trải nghiệm gần giống với học thông qua làm nhưng khác ở chỗ là nó gắn với kinh nghiệm và cảm xúc cá nhân”. Tác giả cũng đưa ra mô hình và chu trình học từ trải nghiệm của David Kolb và vận dụng lý thuyết “Học từ trải nghiệm” của Kolb vào việc dạy học và giáo dục trong trường học. Theo tác giả, để phát triển sự hiểu biết khoa học, chúng ta có thể tác động vào nhận thức của người học; nhưng để phát triển và hình thành năng lực (phẩm chất) thì người học phải trải nghiệm. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục thông qua sự trải nghiệm và sáng tạo của cá nhân trong việc kết nối kinh nghiệm học được 8 trong nhà trường với thực tiễn cuộc sống, nhờ đó các kinh nghiệm được tích lũy thêm và dần chuyển hóa thành năng lực… Trong tài liệu tập huấn mới nhất của bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2015, “Kĩ năng xây dựng và tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong trường trung học”, đã tập hợp đầy đủ và hệ thống những nghiên cứu của các nhà giáo dục đầu ngành về hoạt động trải nghiệm sáng tạo như: PGS. TS. Nguyễn Thúy Hồng, PGS.TS. Đinh Thị Kim Thoa, TS. Ngô Thị Thu Dung, ThS. Bùi Ngọc Diệp, ThS. Nguyễn Thị Thu Anh. Tài liệu đề cập những vấn đề chung của hoạt động trải nghiệm như khái niệm, đặc điểm; xác định mục tiêu, yêu cầu, xây dựng nội dung và cách thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong trường phổ thông; đánh giá hoạt động trải nghiệm với phương pháp và công cụ cụ thể. Ở Việt Nam, trong những năm qua hầu hết các nhà trường đã triển khai các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, tự học, phát triển năng lực học sinh. Trong đó, nhiều trường đã triển khai các mô hình trường học gắn với cộng đồng, tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo. Mặc dù là một hình thức dạy học khá mới mẻ, song đã có một số trường ở nước ta đưa mô hình học tập này vào thực hiện và bước đầu đạt kết quả tốt: Trường phổ thông vùng cao Việt Bắc, trường THPT Tuyên Quang, trường THPT Thực Nghiệm, THPT Nguyễn Tất Thành…Ở mỗi trường với đặc thù ở địa phương và thực tiễn của nhà trường, mô hình học tập trải nghiệm được đưa ra phù hợp. Ở trường phổ thông Vùng caoViệt Bắc đã tổ chức yêu cầu tổ nhóm nghiên cứu tổng thể chương trình SGK THPT ba năm nhằm tìm ra điểm hạn chế cần khắc phục, xây dựng kế hoạch chi tiết cho từng môn theo định hướng phát triển năng lực học sinh dựa trên nguyên tắc: phù hợp, phát huy được năng lực học sinh. Đảm bảo tính logic, tính thống nhất giữa các môn học, đảm bảo thời lượng của các môn học. Còn trường THPT Nguyễn Tất Thành đã xây dựng và thực hiện đề án “Xây dựng trường phổ thông thực hành Nguyễn Tất Thành theo mô hình phát triển năng lực chung” của chương trình quốc gia, 9 lựa chọn hình thức phù hợp với thực tiễn nhà trường đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực học sinh. Hình thức tổ chức dạy học đa dạng gồm: dạy học dự án, dạy học trải nghiệm…Hình thức tổ chức dạy học này tạo điều kiện cho học sinh được trải nghiệm, được khám phá, qua đó góp phần hình thành năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, khả năng hợp tác và khát vọng học tập suốt đời. Nhà trường, ngoài hình thức học tập trên lớp, nhà trường còn tiến hành những hoạt động ngoài lớp giúp cho không gian lớp học được mở rộng thêm. Các hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh đã được nhà trường tổ chức như: - Các hoạt động tập thể “Chào học sinh lớp 10” dành cho khối THPT, “Vui tết trung thu” cho học sinh khối THCS, các chương trình tham quan, dã ngoại, học tập thực tế, chương trình dạy kĩ năng sống, Học kì quân đội…. - Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chủ đề: cuộc thi “Hùng biện tiếng Anh”, “Cuộc thi Sách và Tôi”, triển lãm tranh , cuộc thi “tạo hình bản đồ Việt Nam”… Các mô hình học tập trải nghiệm trên đây không chỉ là sợi dây gắn kết người học – người dạy, người học với nhà trường mà còn là cầu nối giúp học sinh phát triển năng lực, những kĩ năng sống cần thiết để có hành trang vững bước vào đời. Mô hình học tập trải nghiệm này cũng đã rút ra rất nhiều kinh nghiệm cho việc xây dựng chương trình trong thời gian tới đây. Đối với bộ môn địa lí, luận văn tốt nghiệp của Dương Thị Thùy Dung, trường ĐHSP Hà Nội đã nghiên cứu học tập thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình địa lí 10 – THPT. Như vây, các nguồn tài liệu trong nước và thế giới đều đề cập đến vai trò của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học nhằm phát triển năng lực học sinh. Các tài liệu này cũng làm rõ khái niệm, nội dung, hình thức tổ chức, …của hoạt động trải nghiệm nhưng chưa có tài liệu nào đề cập cụ thể đến hoạt động học tập trải nghiệm trong phần địa lí địa phương. Môn học Địa lí với những đặc trưng riêng, hình thành và phát triển năng lực chuyên biệt của học 10 sinh cần được nghiên cứu, tiếp cận theo những đặc trưng riêng biệt. Với việc kế thừa và phát huy các công trình đã công bố, luận văn sẽ đi sâu nghiên cứu về cơ sở lí luận và thực tiễn về tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học địa lí địa phương lớp 12 .Đây là hướng nghiên cứu mới chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu trước đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Khẳng định vai trò và ý nghĩa của hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo, từ đó đưa ra các hình thức và biện pháp tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm trong dạy học Địa lí địa phương tỉnh Vĩnh Phúc. Phân tích hiệu quả của việc nâng cao chất lượng và tăng hứng thú học tập địa lí địa phương thông qua việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Địa lí 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo như khái niệm, nội dung, yêu cầu, các hình thức tổ chức học tập trải nghiệm sáng tạo. - Nghiêm cứu cơ sở thực tiễn của hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo. - Nghiên cứu nội dung chương trình môn Địa lí THPT, phần Địa lí địa phương của Vĩnh Phúc để xác định nội dung tiến hành hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo. - Đề xuất một số hình thức và biện pháp tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học Địa lí địa phương ở trường THPT - Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng tính khả thi của đề tài. 4. Cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phương pháp luận Dựa trên lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đổi mới phương pháp dạy học Địa lí. 11 - Quan điểm thực tiễn: Thực tiễn giáo dục là nguồn gốc, là động lực, là tiêu chuẩn và là mục đích của quá trình nghiên cứu khoa học giáo dục, quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học giáo dục cho phép ta nhìn thấy sự xuất hiện, sự phát triển, diễn biến và kết thúc của các sự vật hiện tượng trong thực tiễn, phát hiện quy luật tất yếu của sự phát triển đối tượng, giúp các nhà khoa học kiểm tra kết quả nghiên cứu trong hoạt động thực tiễn giáo dục, cải tạo thực tiễn giáo dục. - Quan điểm hệ thống: Nghiên cứu theo quan điểm hệ thống cho phép nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về hiện tượng giáo dục, thấy được mối quan hệ của hệ thống với các đối tượng khác trong hệ thống lớn, từ đó xác định được các con đường tổng hợp, tối ưu để nâng cao chất lượng giáo dục. - Quan điểm tích hợp: Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học giáo dục, quan điểm tiếp cận tích hợp là chỉ một quan niệm GD toàn diện con người, chống lại hiện tượng làm cho con người phát triển thiếu hài hòa, cân đối. Tích hợp còn có nghĩa là thành lập một loại hình nhà trường mới, bao gồm các thuộc tính trội của các loại hình nhà trường vốn có. - Quan điểm lịch sử: Trong nghiên cứu cho phép ta nhìn thấy toàn cảnh sự xuất hiện, sự phát triển, diến biến và kết thúc của các sự vật hiện tượng, mặt khác giúp ta phát hiện qui luật tất yếu của sự phát triển đối tượng, giúp các nhà khoa học nghiên cứu và hoạt động thực tiễn giáo dục tránh được những sai lầm không đáng có. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp lí thuyết: Phương pháp nghiên cứu lý thuyết là phương pháp thu thập thông tin thông qua đọc sách báo, tài liệu nhằm mục đích tìm chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản là cơ sở cho lý luận của đề tài, hình thành giả thuyết khoa học, dự đoán những thuộc tính của đối tượng nghiên cứu xây dựng những mô hình lý thuyết hay thực nghiệm ban đầu. Trong đề tài này tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết trên cơ sở 12 thu thập, phân loại, tổng hợp các sách báo, tài liệu, luận văn, luận án có liên quan đến tâm lý học sinh THPT và một số phương pháp dạy học tích cực sử dụng trong dạy học tích hợp. Phương pháp điều tra: Điều tra là phương pháp khảo sát một nhóm đối tượng trên một diện rộng nhằm phát hiện các quy luật phân bố, trình độ phát triển, đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. Kết quả của phương pháp điều tra là những thông tin quan trọng về đối tượng nghiên cứu làm cơ sở thực tiễn để đề xuất các giải pháp. Trong đề tài này chúng tôi dùng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi với các câu hỏi đóng, mở khác nhau về mức độ để học sinh THPT trả lời. Các câu hỏi điều tra thực trạng về việc học sinh học tập Địa lí địa phương thông qua phương pháp dạy học tích hợp của giáo viên. Phương pháp thực nghiệm sư phạm :Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá kết quả của những giải pháp đề ra nhằm mục đích cho học sinh tích cực, chủ động hơn khi bày tỏ chính kiến của mình. Phương pháp xử lý số liệu thực nghiệm bằng toán thống kê: Sử dụng một số công thức toán học để xử lý thống kê và đánh giá kết quả điều tra, kết quả thực nghiệm. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là vấn đề cách thức tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo cho học sinh lớp 12 THPT trong dạy học Địa lí địa phương tỉnh Vĩnh Phúc 5.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nội dung: đi sâu nghiên cứu các hình thức và biện pháp tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo cho học sinh THPT trong dạy học Địa lí địa phương tỉnh Vĩnh Phúc Phạm vi thực nghiệm: chúng tôi tiến hành thực nghiệm tại một số trường THPT trên địa bàn huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc 13 6. Giả thuyết nghiên cứu Nếu vận dụng đúng cách thức tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo cho học sinh THPT trong dạy học Địa lí địa phương tỉnh Vính Phúc theo đúng đề tài thì sẽ góp phần nâng cao kết quả học tập và sự say mê học tập môn Địa lí của học sinh. 7. Đóng góp của đề tài Thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra, luận văn góp phần: Khẳng định vai trò, ý nghĩa của hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Địa lí. Phản ánh được thực trạng dạy và học Địa lí, thực trạng của việc tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo ở trường phổ thông. Đề xuất một số hình thức và biện pháp tổ chức hoạt động học tập trải nghiệm sáng tạo trong chương trình Địa lí địa phương ở trường trung học phổ thông. 8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 8.1. Ý nghĩa khoa học Làm phong phú thêm lí luận phương pháp dạy học Địa lí nói chung và phương pháp dạy học trải nghiệm sáng tạo trong dạy học Địa lí địa phương nói riêng 8.2. Ý nghĩa thực tiễn Là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên các trường Cao đẳng, Đại học Sư phạm, giáo viên môn Địa lí và bản thân tác giả luận văn vận dụng trong quá trình dạy học Địa lí ở trường phổ thông. 9. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn cấu trúc thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy học địa lí ở trường trung học phổ thông. Chương 2: Một số hình thức và biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh trong dạy học địa lí địa phương lớp 12 tỉnh Vĩnh Phúc Chương 3. Thực nghiệm sư phạm. 14 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG TRẢI NGHIỆM SÁNG TẠO TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÝ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.1.Cơ sở lí luận 1.1.1. Một số khái niệm thuật ngữ cơ bản * Trải nghiệm Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường xuyên nhắc đến thuật ngữ trải nghiệm, chính vì mức độ phổ biến của thuật ngữ này nên cũng có nhiều quan niệm khác nhau về trải nghiệm Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Trải có nghĩa là “đã từng qua, từng biết, từng chịu đựng”, còn nghiệm có nghĩa là “kinh qua thực tế nhận thấy điều đó đúng”. Như vậy, trải nghiệm có nghĩa là quá trình chủ thể được trực tiếp tham gia hoạt động và rút ra những kinh nghiệm cho bản thân . Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “trải nghiệm” được diễn dải theo hai nghĩa. Trải nghiệm theo nghĩa chung nhất “là bất kì một trạng thái có màu sắc xúc cảm nào được chủ thể cảm nhận, trải qua, đọng lại thành bộ phận (cùng với tri thức, ý thức…) trong đời sống tâm lí của từng người”. Theo nghĩa hẹp trải nghiệm “ là những tín hiệu bên trong, nhờ đó các sự kiện đang diễn ra đối với cá nhân được ý thức chuyển thành ý kiến cá nhân, góp phần lựa chọn tự giác các động cơ cần thiết, điều chỉnh hành vi của cá nhân”. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia định nghĩa Trải nghiệm hay kinh nghiệm là tổng quan khái niệm bao gồm tri thức, kĩ năng trong quan sát sự vật hoặc sự kiện đạt được thông qua tham gia vào hoặc tiếp xúc đến sự vật hoặc sự kiện đó. Lịch sử của từ “trải nghiệm” gần nghĩa với khái niệm “thử nghiệm”. Thực tiễn cho thấy trải nghiệm đạt được thường thông qua thử nghiệm. Trải nghiệm thường đi đến một tri thức về sự hiểu biết đến sự vật, hiện tượng, sự kiện. 15 * Sáng tạo Khái niệm sáng tạo được sử dụng đồng nghĩa với nhiều thuật ngữ khác như: sự sáng tạo, tư duy hay óc sáng tạo…Các thuật ngữ này đều có liên quan đến một thuật ngữ gốc Latin “Crear” và mang một nghĩa chung là “sự sản xuất, tạo ra, sinh ra một cái gì đó mà trước đây chưa hề có, chưa tồn tại” [11]. Ngoài ra, sáng tạo cũng được hiểu “là tạo ra những giá trị mới về vật chất hoặc tinh thần. Tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có. Có thể sáng tạo trong bất kì lĩnh vực nào: khoa học, nghệ thuật, sản xuất – kĩ thuật, kinh tế, chính trị v.v…” Như vậy, dù quan niệm như thế nào thì sáng tạo chính là việc tạo ra cái mới. Sáng tạo là tiềm năng có ở mọi người bình thường và được huy động trong từng hoàn cảnh sống cụ thể. Mỗi người khi tạo ra cái mới cho cá nhân, thì sáng tạo đó được xem xét trên bình diện cá nhân, còn tạo ra cái mới liên quan đến cả một nền văn hóa thì sáng tạo đó được xét trên bình diện xã hội. * Năng lực Năng lực là một phạm vi trung tâm của tâm lí học và đã được nhiều tác giả tiến hành nghiên cứu. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về năng lực. Nhưng rất nhiều tác giả có chung quan điểm về định nghĩa năng lực. Trong tài liệu tập huấn “Kỹ năng xây dựng và tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong trường trung học”, năng lực được hiểu “là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có hiệu quả; Hay nói cách khác, năng lực là khả năng vận dụng các kiến thức, kỹ năng, thái độ, niềm tin, giá trị… vào việc thực hiện các nhiệm vụ trong những hoàn cảnh cụ thể của thực tiễn”[11]. Trong cuốn “Dạy học tích hợp phát triển năng lực học sinh” của tác giả Đỗ Hương Trà (chủ biên), các tác giả đã định nghĩa năng lực là “khả năng huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính tâm lí cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí…để thực hiện thành công một loại công việc trong 16 một bối cảnh nhất định”[27]. * Hoạt động giáo dục, hoạt động dạy học và hoạt động TNST Theo nghĩa rộng hoạt động giáo dục là “những hoạt động có chủ đích, có kế hoạch hoặc có sự định hướng của nhà giáo dục, được thực hiện thông qua những cách thức phù hợp để chuyển tải nội dung giáo dục tới người học nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục” [8]. Hoạt động giáo dục này bao gồm: hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục theo nghĩa hẹp. Hoạt động giáo dục theo nghĩa hẹp được hiểu là những hoạt động có chủ đích, có kế hoạch, do nhà giáo dục định hướng, thiết kế, tổ chức trong và ngoài giờ học, trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục theo nghĩa hẹp, hình thành ý thức, phẩm chất, giá trị sống, hay các năng lực tâm lý xã hội…[8]. Hoạt động dạy học là quá trình người dạy tổ chức và hướng dẫn hoạt động học của người học nhằm giúp người học lĩnh hội tri thức khoa học, kinh nghiệm của xã hội loài người để phát triển trí tuệ và hoàn thiện nhân cách người học [8] Như vậy, hoạt động dạy học chủ yếu nhằm phát triển mặt trí tuệ, hoạt động giáo dục theo nghĩa hẹp chủ yếu nhằm phát triển mặt phẩm chất đạo đức, đời sống tình cảm. Trong chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, hoạt động giáo dục (nghĩa hẹp) thực hiện các mục tiêu giáo dục thông qua một loạt các hoạt động như hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập thể… Theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông mới, hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) bao gồm hoạt động dạy học và các mục tiêu của hoạt động giáo dục (nghĩa hẹp) nói trên sẽ được thực hiện chỉ trong một hoạt động có tên gọi là hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Như vậy, hoạt động TNST sẽ thực hiện tất cả các mục tiêu và nhiệm vụ của các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, hoạt động tập thể,... và thêm vào đó là những mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục của giai đoạn mới. Vậy khái niệm hoạt động học tập TNST trong nhà trường phổ thông có thể được hiểu là “các 17 hoạt động giáo dục thực tiễn được tiến hành song song với hoạt động dạy học trong nhà trường. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một bộ phận của quá trình giáo dục, được tổ chức ngoài giờ học các môn văn hóa trên lớp và có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động dạy học. Thông qua các hoạt động thực hành, những việc làm cụ thể và các hành động của học sinh, hoạt động trải nghiệm sáng tạo sẽ khai thác kinh nghiệm của mỗi cá nhân, tạo cơ hội cho các em vận dụng một cách tích cực những kiến thức đã học vào thực tế và đưa ra được những sáng kiến của mình, từ đó phát huy và nuôi dưỡng tính sáng tạo của mỗi cá nhân của học sinh”[13]. Từ khái niệm này cho thấy, so với các hoạt động ngoài giờ lên lớp đang được tiến hành hiện nay trong trường phổ thông thì hoạt động TNST sẽ phong phú hơn cả về nội dung, phương pháp và hình thức hoạt động. Đặc biệt mỗi hoạt động phải phù hợp với mục tiêu phát triển những phẩm chất, năng lực nhất định của học sinh. Hiệp hội “Giáo dục trải nghiệm” quốc tế định nghĩa về học qua trải nghiệm “là một phạm trù bao hàm nhiều phương pháp trong đó người dạy khuyến khích người học tham gia các trải nghiệm thực tế, sau đó phản ánh, tổng kết lại để tăng cường hiểu biết, phát triển kĩ năng, định hình các giá trị sống và phát triển các năng lực bản thân, tiến tới đóng góp tích cực cho cộng đồng và xã hội” [13] Hoạt động hoc tập trải nghiệm sáng tạo còn được hiểu là “hoạt động giáo dục, trong đó, từng cá nhân học sinh được trực tiếp hoạt động thực tiễn trong môi trường nhà trường cũng như môi trường gia đình và xã hội dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà giáo dục, qua đó phát triển tình cảm, đạo đức, phẩm chất nhân cách, các năng lực…, từ đó tích luỹ kinh nghiệm riêng cũng như phát huy tiềm năng năng sáng tạo của cá nhân mình” [11]. Các khái niệm này đều khẳng định vai trò định hướng, hướng dẫn của nhà giáo dục (không phải là hoạt động trải nghiệm tự phát). Nhà giáo dục không tổ chức, phân công học sinh một cách trực tiếp mà chỉ hỗ trợ, giám sát. 18 Học sinh được trực tiếp, chủ động tham gia các hoạt động. Phạm vi các chủ đề hay nội dung hoạt động và kết quả đầu ra là năng lực thực tiễn, phẩm chất và tiềm năng sáng tạo; và hoạt động là phương thức cơ bản của sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Từ những kết quả nghiên cứu các lí thuyết trên có thể thấy học tập trải nghiệm sáng tạo là phương thức hoạt động chỉ sự tương tác, sự tác động của chủ thể với đối tượng xung quanh và ngược lại. Hoạt động ở đây là hoạt động của chính bản thân chủ thể. Những hoạt động này vừa mạng tính trải nghiệm, thử và sai, vừa là cách thức nhận thức, tác động của riêng mỗi chủ thể. Qua hoạt động giải quyết vấn đề mà thu nhận những giá trị cần thiết cho bản thân đó chính là quá trình mang tính trải nghiệm. Học tập trải nghiệm sáng tạo nhấn mạnh đến sự trải nghiệm, thúc đẩy năng lực sáng tạo của người học. Trong đó “trải nghiệm” là phương thức giáo dục và “sáng tạo” là mục tiêu giáo dục. 1.1.2. Đặc điểm của hoạt động trải nghiệm sáng tạo Nội dung của hoạt động trải nghiệm sáng tạo rất đa dạng và mang tính tích hợp, tổng hợp kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực hoạt động và giáo dục như: giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, giáo dục kĩ năng sống, giáo dục giá trị sống, giáo dục thẩm mĩ, nghệ thuật, giáo dục lao động, giáo dục an toàn giao thông…..Nội dung giáo dục của hoạt động trải nghiệm sáng tạo thiết thực và gần gũi với cuộc sống thực tế, đáp ứng được nhu cầu hoạt động của học sinh, giúp các em vận dụng những hiểu biết của mình vào trong cuộc sống một cách dễ dàng, thuận lợi. Các nội dung của hoạt động trải nghiệm sáng tạo thường thuộc 4 nhóm sau đây: + Nhóm các hoạt động xã hội + Nhóm các hoạt động học thuật + Nhóm các hoạt động nghệ thuật và thể thao + Nhóm các hoạt động định hướng nghề nghiệp (tìm hiểu thông tin về hướng phát triển tương lai, tìm hiểu bản thân). 19 Cụ thể, học sinh sẽ được trải nghiệm: Khám phá định hướng nghề nghiệp: Khách mời là những chuyên gia trong các lĩnh vực nghề đa dạng, hoặc những người thành công trong một lĩnh vực nghề nào đó, họ sẽ có những lời chia sẻ và lời khuyên bổ ích cho các em học sinh. Các em có thể trực tiếp đến thăm cơ sở làm việc của những khách mời đó, từ đó các em nhìn nhận lại khả năng bản thân và cụ thể hóa định hướng nghề nghiệp cho mình Thủ công mỹ nghệ: Gốm, sứ, mộc và các loại hình thủ công khác Hát, múa dân gian: Là hoạt động trải nghiệm về văn hóa rất thú vị. Học sinh giữa các khối dường như không còn khoảng cách, tất cả cùng hòa chung lời ca điệu nhạc mang đậm tính truyền thống.. Khám phá khoa học: Phòng đọc sách, phòng viết văn, thí nghiệm khoa học, toán học.. Có rất nhiều hoạt động mà học sinh có thể lựa chọn tham gia theo sở thích của mình. Hoạt động nghệ thuật: Phát hiện và phát triển khả năng đặc biệt của học sinh thông qua các hoạt động như diễn kịch, đóng phim, đóng vai các tuyên truyền viên, cán bộ xã, huyện… Việc lựa chọn nội dung cụ thể nào cho hoạt động trải nghiệm, các nhà trường có thể tự quyết định, song cần đảm các nguyên tắc sau: - Mục tiêu: nội dung lựa chọn phải có ưu thế để đạt được mục tiêu năng lực đề ra - Phù hợp: nội dung lựa chọn cần phù hợp với độ tuổi học sinh, trình độ học sinh. Không nên xây dựng các chủ đề trải nghiệm vượt quá xa nội dung kiến thức của học sinh nhằm tạo cho học sinh tin tưởng vào năng lực của chính bản thân mình. Ngoài ra, phù hợp với điều kiện địa phương, điều kiện nhà trường… - Khoa học – giáo dục: nội dung phải đảm bảo tính lôgic và khoa học, tính thẩm mỹ và tính đạo đức 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan