Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy học kể chuyện cho học sinh lớp 5 trƣờng tiểu h...

Tài liệu Sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy học kể chuyện cho học sinh lớp 5 trƣờng tiểu học 146 huyện mộc châu sơn la

.PDF
63
412
108

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC BÀN THỊ THƢƠNG SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN VÀO DẠY HỌC KỂ CHUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 5 TRƢỜNG TIỂU HỌC 14/6 HUYỆN MỘC CHÂU - SƠN LA KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƠN LA, NĂM 2014 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC BÀN THỊ THƢƠNG SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN VÀO DẠY HỌC KỂ CHUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 5 TRƢỜNG TIỂU HỌC 14/6 HUYỆN MỘC CHÂU - SƠN LA Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy học Tiếng Việt KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. Trịnh Thị Hồng SƠN LA, NĂM 2014 LỜI CẢM ƠN Hoàn thành khóa luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên Th.s Trịnh Thị Hồng đã tận tình giúp đỡ và trực tiếp hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Tiểu học - Mầm non, phòng nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế, thư viện trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi để em thực hiện khoá luận này. Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo và các em học sinh trường Tiểu học 14/6 - Huyện Mộc Châu - Sơn La đã giúp đỡ chúng em trong quá trình khảo sát thực tế và thực nghiệm tại trường. Xin chân thành cảm ơn các bạn sinh viên lớp K51 Đại học Giáo dục Tiểu học B đã quan tâm, động viên giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu đề tài. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy cô và các bạn sinh viên để khóa luận được hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn! Sơn La, tháng 5 năm 2014 Tác giả Bàn Thị Thương CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT HS : Học sinh GV : Giáo viên TH : Tiểu học HSTH : Học sinh tiểu học GVTH : Giáo viên tiểu học SGK : Sách giáo khoa SGV : Sách giáo viên TBDH : Thiết bị dạy học MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu ............................................................................................ 3 3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 4 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................................ 5 5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 5 5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.................................................................... 5 5.2. Phương pháp quan sát sư phạm...................................................................... 5 6. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu...................................................... 5 6.1. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................... 5 6.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 5 7. Cấu trúc đề tài ................................................................................................... 6 8. Giả thuyết khoa học và đóng góp của đề tài ..................................................... 6 NỘI DUNG........................................................................................................... 7 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ........................................... 7 1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 7 1.1.1. Vai trò, tầm quan trọng của phân môn Kể chuyện đối với học sinh tiểu học ......................................................................................................................... 7 1.1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học.............................................. 11 1.1.3. Quan niệm đổi mới trong dạy học kể chuyện ở tiểu học .......................... 12 1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 16 1.2.1. Khảo sát chương trình sách giáo khoa phân môn Kể chuyện lớp 5 ở tiểu học ....................................................................................................................... 16 1.2.3. Khảo sát thực trạng dạy - học kể chuyện lớp 5 trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc Châu - Sơn La ................................................................................. 20 TIỂU KẾT ........................................................................................................... 26 CHƢƠNG 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN VÀO DẠY HỌC KỂ CHUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 5 TRƢỜNG TIỂU HỌC 14/6 HUYỆN MỘC CHÂU - SƠN LA .................................................... 28 2.1. Sử dụng tranh minh họa vào dạy học kể chuyện ........................................ 28 2.1.1. Vai trò của tranh minh họa ........................................................................ 28 2.1.2. Yêu cầu khi sử dụng tranh minh họa ........................................................ 29 2.1.3. Các hình thức sử dụng tranh minh họa ..................................................... 32 2.1.4. Sử dụng tranh minh họa vào các phần bài học ......................................... 35 2.2. Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học kể chuyện ............................... 36 2.2.1. Vai trò của công nghệ thông tin ................................................................ 36 2.2.2. Cách thức sử dụng công nghệ thông tin .................................................... 36 2.3. Một số đồ dùng trực quan khác .................................................................... 38 2.3.1. Vai trò ........................................................................................................ 39 2.3.2. Yêu cầu ...................................................................................................... 39 2.3.3. Cách sử dụng ............................................................................................. 39 TIỂU KẾT ........................................................................................................... 40 CHƢƠNG 3. THIẾT KẾ GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM .................................... 41 3.1. Mục đích thể nghiệm .................................................................................... 41 3.2. Đối tượng, địa bàn, thời gian thể nghiệm .................................................... 41 3.3. Phương pháp thể nghiệm.............................................................................. 42 3.4. Nội dung thể nghiệm .................................................................................... 42 3.5. Kết quả thể nghiệm ...................................................................................... 43 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 52 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1. Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đào tạo ở bậc tiểu học cơ sở, đặc biệt theo tinh thần Nghị quyết TW2 khóa 8 đào tạo những học sinh thành những con người năng động, sáng tạo, tiếp thu được những tri thức khoa học, công nghệ hiện đại vận dụng vào thực tiễn cuộc sống phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các bộ môn nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng cần phải thực hiện đổi mới chương trình, nội dung phương pháp và những phương tiện phục vụ cho dạy học, nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Uyliam BatơDit từng nói: “Nhà giáo không phải là người nhồi nhét kiến thức, mà đó là công việc của người khơi dậy ngọn lửa cho tâm hồn”. Trước đây, một giờ dạy học được xem như là một buổi “biểu diễn nghệ thuật” của giáo viên. Vai trò chủ thể của học sinh chưa được phát huy, các đồ dùng dạy học minh họa cho bài học còn hạn chế. Học sinh là người bị động tiếp thu kiến thức còn giáo viên đóng vai trò chủ thể của hoạt động dạy - học với nhiệm vụ là truyền thụ kiến thức. Hiện nay, với sự đổi mới trong dạy - học thì vai trò chủ thể của học sinh đã được phát huy. Giờ dạy - học không còn là “buổi biểu diễn nghệ thuật” của giáo viên nữa và việc vận dụng các phương tiện, thiết bị dạy học đã được giáo viên ở các nhà trường phổ thông quan tâm và đầu tư. 2. Đối với người giáo viên nói chung và người giáo viên tiểu học nói riêng, việc dạy không chỉ đơn giản là đem kiến thức sẵn có đến cho học trò, mà đó còn là việc tìm và khơi dậy trong lòng học trò những khả năng tiềm ẩn vốn có trong tâm hồn chúng, đúng như lời của Galile vẫn nói: “Chúng ta không thể dạy bảo cho ai bất cứ điều gì, chúng ta chỉ có thể giúp họ phát hiện ra những gì còn tiềm ẩn trong họ”. Và có lẽ, sẽ chẳng có ai tự nhiên trở thành thiên tài, sẽ chẳng có ai tự nhiên trở thành bậc vĩ nhân và cũng sẽ chẳng có ai tự nhiên trở nên tài giỏi nếu mỗi người không biết khai thác chính khả năng tiềm ẩn của mình hoặc nhờ một động lực nào đó thúc đẩy khả năng tiềm ẩn đó bùng phát. 1 Chính vì lẽ đó, nhiệm vụ của những người làm nghề giáo càng trở nên gian nan khi: “Không thể trồng cây ở những nơi thiếu ánh sáng, cũng không thể nuôi dạy trẻ với chút ít nhiệt tình”. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay, phương pháp dạy học ở bậc tiểu học vẫn còn tồn tại dạy phương pháp cũ, chưa tận dụng và khai thác hết các phương tiện dạy học đặc biệt là đồ dùng trực quan, thậm chí còn dạy chay hoặc sử dụng đồ dùng qua loa chiếu lệ, công tác chỉ đạo của các nhà quản lý giáo dục, quản lý chuyên môn chưa triệt để. Xuất phát từ đó, đòi hỏi ngành giáo dục phải cải tiến phương pháp - quản lý xây dựng sử dụng triệt để các thiết bị dạy học nhất là đồ dùng trực quan để phát triển đạo đức, trí tuệ, hình thành nhân cách con người trong xã hội mới. 3. Trong chương trình tiểu học, môn Tiếng Việt là một trong những môn chính có vai trò rất quan trọng. Dạy tiếng Việt ở tiểu học tạo cho học sinh kỹ năng sử dụng tiếng Việt thành thạo để vận dụng trong học tập, giao tiếp. Môn Tiếng Việt gồm có bảy phân môn, mỗi phân môn có một vai trò và nhiệm vụ khác nhau nhưng giữa các phân môn có mối quan hệ chặt chẽ, tích hợp với nhau. Cũng như các phân môn khác, phân môn Kể chuyện có vị trí quan trọng, đặc biệt trong việc dạy học tiếng mẹ đẻ vì hành động kể là một hành động “nói” đặc biệt trong hoạt động giao tiếp. Vì truyện là một tác phẩm văn học nên kể chuyện có sức mạnh của cả văn học. Truyện có khả năng bồi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Sự hiểu biết về cuộc sống, con người, tâm hồn, tình cảm của các em sẽ nghèo đi biết bao nhiêu nếu không có môn Kể chuyện trong trường học. Phân môn Kể chuyện có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu được nghe kể chuyện ở trẻ em, phát triển ngôn ngữ đặc biệt là kỹ năng nghe - nói, đồng thời phát triển tư duy và bồi dưỡng tâm hồn, làm giàu vốn sống, vốn văn học cho học sinh. Môn Tiếng Việt trong chương trình tiểu học có nhiệm vụ hoàn thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Từ đó, các em có thể học tập và giao tiếp trong môi trường học tập, lứa tuổi và giúp học sinh có cơ sở để tiếp thu kiến thức ở các bậc học trên. 2 Trong các phân môn Tiếng Việt (Tập đọc, Học vần, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Tập làm văn, Luyện từ và câu) mỗi phân môn chứa đựng một bộ phận kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau để học sinh học tốt môn Tiếng Việt. Trong đó phân môn Kể chuyện giúp học sinh nhận thức thế giới xung quanh, hình thành những khái niệm và mở rộng kinh nghiệm sống cho các em. Qua các câu chuyện giúp học sinh xác lập một thái độ đối với các hiện tượng của đời sống xung quanh, trẻ em không chỉ có nhận thức mà còn đáp ứng lại sự kiện và hiện tượng của thế giới xung quanh, tỏ thái độ của mình với các điều thiện, điều ác. Truyện cung cấp những biểu tượng đầu tiên về chính nghĩa và phi nghĩa. Giai đoạn đầu tiên của giáo dục lí tưởng cũng diễn ra nhờ những câu chuyện. Đặc biệt những câu chuyện cổ tích là ngọn nguồn phong phú và không gì thay thế được để giáo dục tình yêu tổ quốc, con người. Xuất phát từ mục đích nâng cao chất lượng dạy và học môn tiếng Việt nói chung và phân môn Kể chuyện nói riêng, em mạnh dạn tìm hiểu nghiên cứu đề tài: “Sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy học kể chuyện cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc Châu - Sơn La” giúp cho học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong việc nhận thức, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học phân môn Kể chuyện cho học sinh tiểu học. 2. Lịch sử nghiên cứu Nhu cầu hiểu biết và khám phá thế giới là nhu cầu rất lớn của con người. Con người không những chỉ muốn biết những gì đang xảy ra hoặc sắp xảy ra, mà còn muốn biết những gì đã xảy ra trong quá khứ (rất gần, rất xa trong lịch sử). Hằng ngày, do vô tình hay cố ý ta có đủ thông tin về mọi chuyện trong nhà, ngoài ngõ và rộng hơn là trong nước, trong vùng, trên thế giới, ngày nay hay ngày xưa. Từ những chuyện lớn, chuyện nhỏ ta nghe kể từ tuổi ấu thơ bên bếp lửa của bà, đến những điều nghe thầy cô, bạn bè kể, bình giảng ở trường, nhờ đó sự hiểu biết về thế giới và con người cứ tăng dần lên theo năm tháng. Kể chuyện là một hình thức thông tin nhanh gọn, truyền cảm bằng ngôn ngữ. Phân môn Kể chuyện ở tiểu học được chia thành nhiều kiểu bài khác nhau, mỗi kiểu bài có vị trí và vai trò nhất định trong quá trình hoàn thiện nhân cách cho các em. Trong 3 đó, phân môn Kể chuyện ở lớp 5 có vị trí quan trọng hơn cả. Chính vì vậy, hiện nay có rất nhiều nhà giáo dục đã tiến hành các công trình nghiên cứu rèn kĩ năng để các em có thể có được những tri thức cho bản thân các em tốt nhất. Nghiên cứu chung các vấn đề dạy học, trong các tài liệu Cuốn “Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học” (tài liệu đào tạo giáo viên - 2007 của Bộ GD và ĐT), dự án phát triển giáo viên tiểu học đã tổ chức biên soạn các môđun đào tạo giáo dục trong đó có nêu ra các phương pháp dạy học cũng như quy trình dạy học phân môn Kể chuyện theo chương trình sách giáo khoa ở tiểu học. Cuốn “Hướng dẫn sử dụng và tự làm thiết bị dạy học môn tiếng Việt bậc tiểu học” (Tài liệu đào tạo giáo viên - 2005 của Bộ GD và ĐT) đã nêu lên một số công thức giảng dạy các phân môn bằng các thiết bị dạy học sẵn có hoặc các thiết bị dạy học tự làm. Cuốn “Phương pháp dạy học tiếng Việt ở tiểu học” (Lê Phương Nga NXB Đại học sư phạm). Sách gồm 5 chương trình bày về phương pháp dạy học của 4 phân môn và phương pháp tổ chức các hoạt động ngoại khóa, trong đó có một chương đi sâu về phương pháp dạy học kể chuyện. Cuốn sách cung cấp những hiểu biết về vị trí, nhiệm vụ, cở sở khoa học và các nguyên tắc dạy học kể chuyện. Cuốn “Dạy học kể chuyện ở trường tiểu học” (Chu Huy) đã nêu ra vị trí, nhiệm vụ và vai trò của phân môn Kể chuyện trong trường tiểu học. Cuốn sách còn đưa ra một số cách thức tổ chức dạy học kể chuyện ở tiểu học. Trong quá trình tìm hiểu về các biện pháp dạy học, em thấy rằng: Tìm hiểu và nghiên cứu về các phương pháp dạy học ứng dụng các đồ dùng dạy học thì đã có nhiều, tuy nhiên trong phân môn Kể chuyện ứng dụng các thiết bị dạy học và cụ thể hơn là đồ dùng trực quan thì đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào. Qua việc tìm hiểu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học phân môn Kể chuyện, cụ thể Kể chuyện lớp 5 là những cơ sở để em lựa chọn đề tài nghiên cứu 3. Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu cơ sở lí luận cũng như cở sở thực tiễn thông qua việc tìm hiểu về chương trình sách giáo khoa, quan niệm đổi mới dạy học về phân môn 4 Kể chuyện lớp 5 ở tiểu học hiện nay, về thực trạng dạy và học phân môn Kể chuyện của học sinh lớp 5 trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc Châu – Sơn La. Nhằm đề xuất các biện pháp dạy học và thể nghiệm các biện pháp dạy học đó để khẳng định tính khả thi kết quả nghiên cứu của đề tài, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Kể chuyện ở nhà trường tiểu học 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận. - Nghiên cứu cơ sở thực tiễn. - Đề xuất biện pháp dạy học. - Vận dụng các biện pháp được đề xuất đó vào dạy thể nghiệm. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận - Đọc tài liệu liên quan đến đề tài. - Nghiên cứu nội dung kể chuyện trong chương trình sách giáo khoa tiếng Việt lớp 5. 5.2. Phương pháp quan sát sư phạm - Điều tra thực trạng cơ sở vật chất - thiết bị dạy học phân môn Kể chuyện khảo sát nó qua quan sát, phỏng vấn, dự giờ. - Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức trong quá trình học phân môn Kể chuyện của học sinh lớp 5 trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc Châu - Sơn La. 6. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu 6.1. Đối tượng nghiên cứu Quá trình dạy học sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học kể chuyện cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc châu - Sơn La. 6.2. Phạm vi nghiên cứu - Nghiên cứu tác dụng của đồ dùng trực quan cho phân môn kể chuyện lớp 5 . - Thực trạng dạy - học các kiểu bài kể chuyện của học sinh lớp 5 trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc Châu - Sơn La. 5 7. Cấu trúc đề tài Cấu trúc đề tài: Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo nội dung đề tài gồm 3 chương: Chương 1 : Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn. Chương 2 : Một số biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong phân môn Kể chuyện cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc châu - Sơn La. Chương 3: Thiết kế giáo án thể nghiệm. 8. Giả thuyết khoa học và đóng góp của đề tài Tìm hiểu biện pháp trực quan để rèn kỹ năng kể chuyện cho học sinh lớp 5 là một vấn đề còn nhiều khó khăn được giáo viên tiểu học quan tâm. Nếu các biện pháp em đề xuất chứng minh được tính khả thi, thì sẽ góp phần rèn luyện kỹ năng đọc hiểu, cảm thụ tốt các tiết kể chuyện cho học sinh lớp 5 nói riêng và góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Tiếng Việt nói chung cho học sinh tiểu học trên địa bàn miền núi. Đề tài là tài liệu cho sinh viên khoa Tiểu học - Mầm non trường Đại học Tây Bắc trong quá trình học tập, nghiên cứu, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Nếu đề tài nghiên cứu thành công sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy phân môn kể chuyện cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học 14/6 Huyện Mộc Châu - Sơn La. Đồng thời đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho sinh viên Khoa Tiểu học Mầm non trường Đại học Tây Bắc trong quá trình học tập, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm và ra trường công tác sau này. 6 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Vai trò, tầm quan trọng của phân môn Kể chuyện đối với học sinh tiểu học Như chúng ta đã biết, kể chuyện là môn học mang tính tổng hợp. Nó dựa trên kết quả nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau như: Tâm lý học, ngôn ngữ học, lý luận văn học… Đối với học sinh tiểu học phân môn Kể chuyện có một vị trí quan trọng được xếp liền ngay sau phân môn Tập đọc, Học thuộc lòng của bộ môn Tiếng Việt. Phân môn Kể chuyện bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát triển ngôn ngữ và tư duy cho trẻ. Xuất phát từ chỗ truyện là những sáng tác mang tính chất văn học nên tác dụng của truyện đối với trẻ em cũng là tác dụng của văn học nói chung. Hơn bất kỳ loại hình nào khác, truyện có khả năng bồi dưỡng tâm hồn con người đặc biệt đối với trẻ em. Suốt những năm học ở tiểu học, nếu các em được nghe và học kể chuyện thì phân môn kể chuyện sẽ góp phần làm cho tâm hồn các em giàu có thêm bằng biết bao câu chuyện bổ ích và lý thú, những hình tượng quen thuộc của truyện sẽ trở thành vốn văn học tích lũy đầu tiên và sau này khi có điều kiện gặp lại qua bộ môn văn học ở các lớp cấp THCS và THPT. Đó sẽ là những khuôn mẫu ngôn ngữ đầu tiên giúp học sinh phát triển tư duy. Mặt khác, nhiều từ ngữ ban đầu thực ra chỉ xuất hiện trong truyện cổ và chỉ có trong truyện cổ. Các em khi tiếp xúc với truyện cổ sẽ không quên những từ ngữ đó. Khi tập kể lại, các em học sinh có điều kiện sử dụng vốn ngôn ngữ của mình để kể lại, do đó cùng với tư duy, ngôn ngữ cũng phát triển. Như vậy nhiệm vụ giáo dục của phân môn Kể chuyện lại trở nên đa dạng, phong phú. Dạy tốt tiết kể chuyện, giáo viên sẽ tạo điều kiện tốt cho sự phát triển năng khiếu ở nhiều học sinh, tạo điều kiện ươm mầm cho những nhân tài mai sau. Đó cũng là một mặt trong việc xây dựng nhân cách con người mới, con người của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lịch sử luôn là những câu chuyện, khi đi học các em không những chỉ học 7 những thứ có trong sách vở, những câu chuyện được sáng tác bởi các nhà thơ, nhà văn mà các em còn được tiếp xúc với nhiều các thể loại truyện khác nhau. Có những câu chuyện diễn ra trong đời sống hằng ngày mà được trực tiếp các em chứng kiến nó, trực tiếp tham gia vào câu chuyện đó. Điều đó đã góp phần tạo nên ở các em tính sáng tạo, cách ghi chép các sự kiện một cách lôgic, có hệ thống. Sau đây, em đi vào phân tích một số cơ sở khoa học chi phối một cách trực tiếp đến dạy học kể chuyện. 1.1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong cộng đồng người, đồng thời cũng là phương tiện để phát triển tư duy. Khi có ngôn ngữ phong phú thì lời văn khi viết mới hay. Nói cách khác, muốn viết đúng, viết hay thì cần phải nói đúng, nói hay. Do vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên phải coi ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ thơ thành con người phát triển toàn diện. Trong giao tiếp, diễn ra hoạt động trau dồi các ngôn bản. Sự trau dồi này bao gồm hai loại hành động luôn gắn bó vào nhau: Hành động sản sinh ngôn bản (bao gồm hành động nói ra hoặc viết ra các nội dung giao tiếp) và hành động lĩnh hội văn bản tiếp nhận được (bao gồm hành động hiểu ngôn bản, đọc được, nghe được). Các hành động sản sinh và lĩnh hội ngôn bản đó được coi là hành động ngôn ngữ. Trong xã hội loài người, phần lớn nhất và trọng yếu nhất của thông tin được tàng trữ và lưu hành nhờ ngôn ngữ. Chính nhờ ngôn ngữ mà con người có thể hiểu nhau trong quá trình sinh hoạt và lao động, có thể diễn đạt và làm cho người khác hiểu được tư tưởng, tình cảm, trạng thái và nguyện vọng của mình. Cũng nhờ đó, con người có thể đồng tâm hiệp lực chinh phục thiên nhiên, chinh phục xã hội, làm cho xã hội ngày càng phát triển. Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ có bản chất xã hội vì nó sinh ra do nhu cầu xã hội, nó quay lại phục vụ xã hội và trở thành động lực giúp cho xã hội phát triển. Mặt khác chính chức năng giao tiếp được mở rộng nhờ sự phát triển của xã hội. Từ chức năng là phương tiện giao tiếp, là công cụ tư duy quan trọng nhất của loài người, ngôn ngữ cũng là công cụ của văn hóa, của biểu cảm thẩm mỹ. Bản sắc văn hóa của 8 mỗi dân tộc thể hiện, lưu trữ trong ngôn ngữ. Trong bộ môn Tiếng Việt thì phân môn Kể chuyện giúp cho học sinh có thể diễn đạt ngôn ngữ của bản thân một cách tự nhiên thông qua sự phân vai kể chuyện. Trong quá trình học tập, phân môn Kể chuyện rèn luyện khả năng nói tiếng Việt trực tiếp giúp học sinh mạnh dạn, tự tin bộc lộ khả năng ngôn ngữ của bản thân một cách hiệu quả, góp phần hình thành các kỹ năng tiếng Việt một cách đầy đủ nhất. 1.1.1.2. Cơ sở văn học Kể chuyện là một hình thức thông tin nhanh gọn, truyền cảm bằng ngôn ngữ. Mặc dù đã có những phương tiện thông tin đại chúng hiện tại như ti vi, đài phát thanh, rađiô catset, người ta vẫn thích nghe nói chuyện bằng miệng. Theo định nghĩa rộng, thuật ngữ “kể chuyện” có thể bao hàm toàn bộ ngôn ngữ nói sinh hoạt hàng ngày. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu. Chúng ta phải biết quý trọng nó, giữ gìn nó, phát triển nó”. Nhờ có tiếng nói và lao động con người mà thoát hẳn khỏi đời sống động vật, vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên. Bầy người nguyên thủy quây quanh đám lửa trại nướng thịt thú rừng, nướng quả hạt thường kể những chuyện săn, bắt, hái, lượm cho nhau nghe. Đó cũng là khởi đầu của sự tích lũy tri thức khoa học và kể chuyện ở đây mang chức năng thông tin. Khi ngôn ngữ ngày càng phát triển, số lượng từ cơ bản tăng lên, đời sống vật chất và tinh thần ngày một phong phú thì kể chuyện không chỉ dừng ở mức độ thông tin nữa mà mang thêm chức năng giải trí, hay cao hơn nữa là chức năng nghệ thuật. Nhờ vậy mà kho tàng đồ sộ truyện cổ dân gian hết sức giàu có, hết sức đa dạng được truyền lại đến ngày nay bằng hình thức kể. Trải qua 10 thế kỉ Bắc thuộc, dân tộc Việt Nam sở dĩ bảo toàn bản lĩnh và bản sắc dân tộc độc đáo, không bị phong kiến phương Bắc xâm lược, đồng hóa thôn tính, một phần là nhờ ở hùng khí những câu chuyện cổ. Chùm truyền thuyết về Âu Cơ, Lạc Long Quân, Hùng Vương, Thánh Gióng, Sơn Tinh Thủy Tinh, An Dương Vương, bánh chưng bánh giầy, An Tiêm... đã nhen nhóm niềm tin tất thắng về một tương lai của cả một dân tộc bị ngoại bang thống trị. 9 Cho đến năm 939, với chiến thắng của Ngô Quyền, dân tộc ta đã bẻ gãy cái vòng xiềng xích “quận huyện” của bọn phong kiến nhà Hán. Ta lại là ta, ta là dân tộc Việt Nam chứ không thể là ai khác. Chùm truyện cổ về háo khí dân tộc ấy nhờ vậy mà được bảo tồn và phát triển mãi mãi bằng hình thức truyền miệng. Trong một thời gian lịch sử lâu dài, khi đã có văn tự để ghi chép, in ấn rồi thì kể chuyện vẫn còn tồn tại và tiếp tục phát triển song song với sự phát triển của văn tự. (Chu Huy, Tài liệu đã dẫn, trang 12-13) Trong chương trình học, phân môn Kể chuyện lớp 5 không chỉ có những câu chuyện được truyền lại mà còn có các câu chuyện về đời sống hằng ngày, những câu chuyện mà các em được tiếp xúc trực tiếp, được chứng kiến hoặc tham gia. Tất cả những cốt truyện với nhiều thể loại truyện khác nhau sẽ giúp cho các em có được sự hiểu biết về nhiều phong cách khác nhau, là nền tảng ban đầu cho sự hình thành các thao tác tư duy, phân loại tác phẩm văn học. 1.1.1.3. Cơ sở tâm lý học Cơ sở lý luận của sự nhận thức chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định trí tuệ nhân loại điểm xuất phát từ thực tiễn, từ đó xây dựng nên những khái niệm, lý luận và quay trở lại thực tiễn kiểm nghiệm. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường nhận thức của nhân loại. Phương tiện trực quan, kể cả ngôn ngữ lời nói sinh động làm cho người học cảm giác, tri giác được và sự khai thác gợi mở của người dạy thông qua quan sát các sự vật hiện tượng từ riêng lẻ đến bộ phận, học sinh sẽ nắm bắt, nhận thức nhanh chóng. Về cơ sở phương pháp dạy học kết hợp với trực quan sinh động: Trước hết ta hiểu phương pháp dạy học là một hệ thống tác động liên tục của người dạy nhằm tổ chức cho hoạt động nhận thức của học sinh để người học lĩnh hội các thành phần của nội dung giáo dục để đạt được mục tiêu đã định. Phương pháp dạy học quan hệ với các thành tố khác của quá trình dạy học như mục tiêu - nội dung - phương pháp - phương tiện và người chỉ huy. Nếu ta coi mục tiêu là cái đích cần đạt đến, nội dung cần truyền tải; phương pháp là con đường thì phương tiện phải tốt để hoàn thành nhiệm vụ được giao. 10 Song, người “chỉ huy” đó là người dạy cần phải biết sử dụng triệt để mới có hiệu quả. Trong thời kỳ đổi mới, giáo dục đào tạo con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu mới. Nội dung kiến thức có chỉnh lý cho phù hợp thì yêu cầu phương pháp cần được đổi mới. Phương tiện phục vụ nó càng được coi trọng để nâng cao chất lượng. Trong hoạt động dạy và học: phương pháp - phương tiện có vị trí hết sức quan trọng, nó là loại công cụ và công việc có tổ chức, có trật tự, hệ thống, kế hoạch. Nó tuân theo những quy luật tâm lý: nhu cầu, hứng thú, năng lực của người học, được coi như là công cụ hữu hiệu tiết kiệm thời gian giúp cho người dạy và người học thuận lợi. Các phương pháp dạy học tổ chức và thực tiễn được phân thành các nhóm lôgíc truyền thụ và tri giác thông tin (quy nạp - suy diễn). Nhóm theo nguồn tri thức và đặc điểm tri giác thông tin (đàm thoại - diễn giảng trực quan, minh họa, biểu diễn, thực hành). Nhóm theo mức độ tư duy độc lập, tích cực độc lập của học sinh (tái tạo, sáng tạo). Các phương pháp khác như xây dựng động cơ học tập, phương pháp kiểm tra. Cùng với phương pháp là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ sảo. Như vậy hệ thống này phản ánh cấu trúc văn hoá như một hệ thống kinh nghiệm xã hội cần truyền lại cho thế hệ sau. Để chiếm lĩnh tri thức, nhà giáo dục phải cùng với phương pháp, phương tiện giúp học sinh thực hiện hoạt động, nhận thức được dễ dàng dưới 2 dạng cơ bản: tái tạo và sáng tạo. Nói một cách dễ hiểu là tâm lý học có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng các phương pháp dạy học, hay nói cách khác là tâm lý chi phối trực tiếp vào các hoạt động nhận thức của con người vì vậy ta phải đặt chúng trong cùng một mối quan hệ để có thể thấy rõ được điều đó. 1.1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học Ở giai đoạn học mầm non, hoạt động chủ đạo của các em là vui chơi, các hoạt động học được đan xen giữa các hoạt động vui chơi như các trò chơi, các bài hát, các bài múa, bài vè, bài thể dục. Qua các hoạt động vui chơi đó các em 11 dần hình thành các biểu tượng, khái niệm một cách sơ giản làm nền móng đầu tiên cho các cấp học tập sau này. Bước sang giai đoạn tiểu học tuy là sự chuyển tiếp nhưng hoạt động chủ đạo không còn là vui chơi nữa mà thay vào đó là hoạt động học tập. Các em đã được học một cách bài bản theo hệ thống các kiến thức trong sách giáo khoa, hoạt động vui chơi vẫn còn nhưng chiếm tỷ lệ ít hơn rất nhiều. Tuy vậy, lứa tuổi tiểu học vẫn mang nặng tư duy trực quan cụ thể và khái quát. Bậc học tiểu học là giai đoạn đầu tiên của sự hình thành và phát triển nhân cách. Ở giai đoạn này tri giác của các em còn mang tính đại thể, chưa có khả năng phân tích, tách các dấu hiệu các chi tiết nhỏ của một đối tượng nào đó. Tri giác thường gắn với hành động, hoạt động thực tiễn, trẻ chỉ cảm nhận được những cái nó cầm, nắm. Đặc biệt những cái trực quan, rực rỡ, sinh động được các em tri giác tốt hơn, dễ gây ấn tượng tốt hơn. Tư duy của của học sinh tiểu học là tư duy trực quan, cụ thể. Chính vì những đặc điểm tâm lý đặc trưng đó nên trong giảng dạy cần kết hợp sử dụng các phương tiện, đồ dùng, thiết bị dạy học để các em có thể tiếp thu bài học một cách hiệu quả. Người giáo viên tiểu học phải nắm được những đặc điểm này người dạy sẽ có những phương pháp, cách thức tổ chức dạy học đạt hiệu quả tốt. Lớp 5 là lớp học cuối cấp I, ở giai đoạn này các em đã có sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức, hệ thống các kiến thức có trong sách giáo khoa ít kênh hình hơn thay vào đó là hệ thống các kênh chữ. Điều đó đòi hỏi ở các em sự nhận thức tốt hơn, tuy nhiên dù có sự thay đổi lớn đó các em vẫn sẽ học tốt hơn nếu có các thiết bị trực quan trong các giờ dạy học. 1.1.3. Quan niệm đổi mới trong dạy học kể chuyện ở tiểu học Trong chương trình sách giáo khoa tiếng Việt đổi mới hiện hành (năm 2000), hệ thống kiến thức vẫn không khác so với chương trình cũ nhiều nhưng có điểm mới so với chương trình cũ đó là: Kiến thức được trình bày ở hệ thống kênh hình nhiều hơn trước, tranh ảnh minh họa cho bài học mang đầy đủ kiến thức chúng có chức năng minh họa cho lời giảng của giáo viên, kích thích tính tò mò ham học hỏi của học sinh. Mặt khác, trong đổi mới phương pháp dạy học kể chuyện hiện nay khi giảng dạy giáo viên cần sử dụng kết hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau 12 để đạt được hiệu quả cao. Trong đó phương pháp trực quan được coi là phương pháp dạy học chủ yếu và có hiệu quả. 1.1.3.1. Phương pháp trực quan Trước hết, phương pháp dạy học nói chung, là con đường, cách thức mà người giáo viên sử dụng nhằm chiếm lĩnh hoặc biến đổi đối tượng theo mục đích đã định, nếu nói phương pháp làm việc là phương cách, phương sách, phương thức...để giải quyết một vấn đề, một công việc đạt hiệu qủa cao nhất. 1.1.3.2. Khái niệm phương pháp dạy học trực quan Có rất nhiều khái niệm về phương pháp trực quan, nhưng phương pháp trực quan được hiểu là phương pháp dạy học mà trong đó giáo viên sử dụng các phương tiện, thiết bị dạy học để hình thành kiến thức, củng cố kiến thức cho học sinh. Phương pháp trực quan có vị trí rất quan trọng trong dạy học ở tiểu học. Nó giúp học sinh tích lũy được những tài liệu cụ thể của các đối tượng quan sát để tạo cho quá trình trừu tượng hóa. 1.1.3.3. Hình thức thể hiện Phương pháp trực quan được thể hiện dưới hai hình thức: Minh họa và trình bày. Minh họa thường trưng bày những đồ dùng trực quan như bản mẫu, bản đồ, tranh vẽ, hình ảnh… Trình bày gắn liền với thiết bị kĩ thuật, chiếu phim, trình bày đồ dùng trực quan. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường sử dụng các phương tiện trực quan khác nhau như: Vật thật: Thực vật, động vật tươi sống, các hiện tượng tự nhiên giúp các em gần gũi với đời sống thực tế, gây ấn tượng sâu sắc, gây hứng thú học tập cho học sinh. Vật tượng trưng: Bản đồ, sơ đồ, bảng biểu giúp học sinh thấy được một cách trực quan các sự vật, hiện tượng được biểu diễn dưới dạng khái quát và đơn giản. Vật tạo hình: Tranh ảnh, hình vẽ, phim…ngoài khả năng quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng không thể trông thấy được. 13 Khi sử dụng các phương tiện này giáo viên cần chú ý về số lượng, hình thức, cách trình bày của chúng đảm bảo phát triển năng lực quan sát, hình thành tư duy trực quan cho học sinh và hoàn thành tốt mục tiêu của bài học. 1.1.3.4. Vai trò, chức năng của các phương tiện trực quan (đồ dùng dạy học) Phương tiện trực quan, đồ dùng trực quan là những thứ nằm trong các thiết bị dạy học. TBDH chúng ta hiểu là công cụ của giáo viên và học sinh, TBDH gồm nhiều loại hình khác nhau: tranh ảnh, bản đồ, biểu bảng, mô hình, mẫu vật, hóa chất, dụng cụ thí nghiệm, băng ghi âm, băng ghi hình, phim, đèn chiếu, phim xi nê, đĩa mềm vi tính... Mỗi loại hình này phát huy tính năng, tác dụng khác nhau trong quá trình dạy học nói chung và từng môn học nói riêng. Ở đây em lựa chọn những loại hình thiết bị dạy học tiêu biểu làm đồ dùng trực quan nhằm nghiên cứu, vận dụng những đồ dùng ấy trong phân môn kể chuyện cho học sinh lớp 5. Ở nhà trường tiểu học, những đồ dùng trực quan mà em lựa chọn là những thiết bị có thể ứng dụng rất nhiều và phù hợp với đặc điểm của phân môn kể chuyện như: tranh ảnh, băng ghi âm, băng ghi hình, phim đèn chiếu, đĩa mềm vi tính… Thực tiễn sư phạm cho thấy, các phương pháp dạy học chỉ được thực hiện nhờ có sự hỗ trợ của các thiết bị dạy học nhất định, trong những hình thức dạy học nhất định. Nói chung, trong quá trình dạy học, các phương tiện dạy học giảm nhẹ công việc của giáo viên và giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi. Có được đồ dùng thích hợp, người giáo viên sẽ phát huy hết năng lực sáng tạo của mình trong công tác giảng dạy, làm cho hoạt động nhận thức của học sinh trở nên nhẹ nhàng và hấp dẫn hơn, bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm tốt đẹp với môn học. Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến thức mới của học sinh tăng dần theo các cấp độ của tri giác: nghe - thấy - làm được (những gì nghe được không bằng những gì nhìn thấy và những gì nhìn thấy thì không bằng những gì tự tay làm), nên khi đưa các phương tiện dạy học vào quá trình dạy học, giáo viên có điều kiện để nâng cao tính tích cực, độc lập 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan