Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của hồ anh thái và haruki mu...

Tài liệu Sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của hồ anh thái và haruki murakami

.PDF
171
531
98

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN QUANG HƢNG SỰ KHÁC BIỆT CỦA YẾU TỐ HẬU HIỆN ĐẠI TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI VÀ HARUKI MURAKAMI Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9 22 01 21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRƢƠNG ĐĂNG DUNG HÀ NỘI - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả phân tích trong luận án hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả nghiên cứu trong luận án của mình. Quy Nhơn, tháng 8 năm 2018 Tác giả Trần Quang Hƣng LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi chân thành cảm ơn những người thân yêu trong gia đình đã tạo mọi điều kiện cần thiết để tôi tập trung hoàn thành luận án. Đặc biệt, xin cảm ơn PGS. TS. Trương Đăng Dung – người hướng dẫn khoa học – đã tận tình chỉ dạy, hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận án trong điều kiện tốt nhất có thể. Xin được cảm ơn tất cả quý thầy cô, bạn bè đã luôn khuyến khích và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Tác giả DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT Nxb : Nhà xuất bản: tr. : Trang: MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................... 5 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan gián tiếp đến đề tài ............................5 1.2. Những công trình liên quan trực tiếp đến đề tài .............................................12 1.2.1. Những công trình nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái .............................................................................................................12 1.2.2. Những công trình nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Haruki Murakami ...............................................................................................20 Chƣơng 2: HẬU HIỆN ĐẠI TRONG VĂN HỌC VÀTIỀN ĐỀ TIẾP NHẬN Ở HỒ ANH THÁI VÀ HARUKI MURAKAMI .................................................. 27 2.1. Những đặc trưng thi pháp cơ bản của văn học hậu hiện đại ...........................27 2.1.1. Phi trung tâm hóa và tinh thần giễu nhại .................................................29 2.1.2.Tính liên văn bản .......................................................................................31 2.1.3. Bóp méo sự thật và lối trần thuật hỗn độn ...............................................33 2.1.4. Đề cao tiểu tự sự và mở rộng ngoại biên .................................................34 2.2. Những yếu tố tiền đề cho sự tiếp nhận tinh thần hậu hiện đại ở hai tác giả ..........35 2.2.1. Hồ Anh Thái .............................................................................................35 2.2.2. Haruki Murakami .....................................................................................43 2.2.3. Cái nhìn về hiện thực và con người .........................................................48 Chƣơng 3: SỰ KHÁC BIỆT VỀ THÂN PHẬN CON NGƢỜI TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI VÀ HARUKI MURAKAMI ...................... 55 3.1. Sự khác biệt ở kiểu con người đặc trưng ........................................................55 3.1.1. Con người tha hóa trong sáng tác của Hồ Anh Thái ................................55 3.1.2. Con người cô đơn trong sáng tác của Haruki Murakami .........................65 3.2. Sự khác biệt ở kiểu con người với bản năng tính dục ....................................78 3.2.1. Con người bản năng tính dục qua cái nhìn của Hồ Anh Thái ..................79 3.2.2. Con người với bản năng tính dục trong sáng tác của Haruki Murakami .84 3.3. Sự khác biệt ở kiểu con người với hành trình kiếm tìm .................................97 3.3.1. Con người với hành trình kiếm tìm giá trị cuộc sống trong sáng tác của Hồ Anh Thái .......................................................................................................98 3.2.3. Con người với hành trình kiếm tìm bản thể chính mình trong sáng tác của Haruki Murakami .............................................................................................101 Chƣơng 4 SỰ KHÁC BIỆT VỀ PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN TRONG SÁNG TÁC CỦA HỒ ANH THÁI VÀ HARUKI MURAKAMI ................................. 110 4.1. Sự khác biệt về nghệ thuật xây dựng cốt truyện phân mảnh, lắp ghép ........110 4.1.1. Những nét cơ bản về cốt truyện phân mảnh lắp ghép ............................110 4.1.2. Cốt truyện phân mảnh lắp ghép trong sáng tác của Hồ Anh Thái .........111 4.1.3. Cốt truyện phân mảnh, lắp ghép trong sáng tác của Haruki Murakami 118 4.2. Sự khác biệt về nghệ thuật mờ hóa nhân vật ................................................129 4.2.1. Tẩy trắng ngoại hình, lai lịch, tính cách .................................................129 4.2.2. Sự biến mất của nhân vật .......................................................................133 4.3. Sự khác biệt trong việc thể hiện yếu tố liên văn bản ....................................139 4.3.1. Sắc màu văn hóa đặc trưng ....................................................................139 4.3.2. Sự xâm nhập của các thể loại .................................................................142 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 147 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hậu hiện đại đã trở thành hiện tượng mang tính toàn cầu, được bàn luận, tranh cãi rất nhiều và có ảnh hưởng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, trong đó, có văn học. Với văn học, chủ nghĩa hậu hiện đại đã mở ra nhiều khả năng mới cho sự sáng tạo, đem lại những hiệu quả rất to lớn trong việc mang đến cho đông đảo công chúng độc giả trên toàn thế giới món ăn tinh thần hết sức gần gũi mà không bị nhàm chán. Hồ Anh Thái là nhà văn giàu yếu tố hậu hiện đại của Việt Nam và Haruki Murakami là một nhà văn hậu hiện đại của Nhật Bản. Sự xuất hiện của yếu tố hậu hiện đại trong các sáng tác của hai tác giả văn học đương đại Việt Nam và Nhật Bản có thể xem là độc lập chứ không nằm trong mối quan hệ ảnh hưởng, chi phối. Họ cùng thuộc hai quốc gia ở một châu lục, cùng mang cảm thức Đông Á, cùng tương đồng về thế hệ, cùng tiếp nhận văn học phương Tây và Mỹ từ đầu nguồn, cùng làm công việc dịch thuật nhưng lại có những khác biệt thú vị ở yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác. So sánh sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của hai nhà văn với nhau sẽ thấy được sự khác biệt, chẳng những ở văn chương của họ, mà còn có được một cái nhìn thực chất về hậu hiện đại ở Việt Nam và Nhật Bản, và xa hơn nữa là hai nền văn hóa, hai cá tính dân tộc. Trên cơ sở đó khẳng định tài năng và đóng góp đáng kể của hai nhà văn trên tiến trình hiện đại hóa và hội nhập văn học thế giới. Trong thời gian qua đã có khá nhiều nghiên cứu giới thiệu về yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami. Tuy nhiên hầu hết các công trình tập trung nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại ở cấp độ tác phẩm hoặc nhóm tác phẩm và khảo sát độc lập cho một tác giả. Chưa có công trình nào tiến hành khảo sát trên quy mô toàn diện và có sự so sánh để chỉ ra được sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của hai nhà văn này. Chính vì vậy đề tài Sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami mà chúng tôi tiến hành là hoàn toàn mới mẻ và có triển vọng để thực hiện tốt. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ được sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami. 2.2. Nhiệm vụ Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án tập trung vào các nhiệm vụ chính sau: - Nghiên cứu lí thuyết, khái quát các đặc trưng cơ bản của văn học hậu hiện đại - Nghiên cứu những tiền đề tiếp nhận yếu tố hậu hiện đại ở hai nhà văn. - Khảo sát, phân tích yếu tố hậu hiện đại trong tác phẩm của mỗi tác giả. - So sánh, đối chiếu chỉ rõ những điểm khác biệt ở yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của mỗi nhà văn, đưa ra lí giải cho những khác biệt đó. Đồng thời khái quát những thành công của mỗi tác giả trong việc vận dụng các thủ pháp hậu hiện đại. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami và chỉ ra sự khác biệt của nó trong sang tác của Hồ Anh Thái và Murakami. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận án là những tác phẩm của hai nhà văn Hồ Anh Thái và Haruki Murakami: Phía sau vòm trời, Vẫn chưa tới mùa đông, Tiếng thở dài qua rừng kim tước, Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra, Họ trở thành nhân vật của tôi, Bốn lối vào nhà cười, Cõi người rung chuông tận thế, Văn mới 5 năm đầu thế kỷ, Người và xe chạy dưới ánh trăng, Tự sự 265 ngày, Sắp đặt và diễn, Mười lẻ một đêm, Đức Phật, nàng Savitri và tôi, SBC là săn bắt chuột, Những đứa con rải rác trên đường, Lang thang trong chữ. Kafka bên bờ biển, Rừng Nauy, Phía nam biên giới, phía Tây mặt trời, Người tình Sputnik, Biên niên kí chim vặn dây cót, Ngầm, Xứ sở diệu kì tàn bạo và chốn tận cùng thế giới, Cuộc săn cừu hoang, Tôi nói gì khi nói về chạy bộ, Nhảy Nhảy 2 Nhảy, Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương, Những người đàn ông không có đàn bà. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án Để triển khai đề tài Sự khác biệt của yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami, chúng tôi đã vận dụng lý thuyết hậu hiện đại, lý thuyết liên văn bản là chủ đạo. Chúng tôi sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó phương pháp so sánh là phương pháp nghiên cứu chủ đạo. Hệ thống phương pháp nghiên cứu gồm có: Phương pháp so sánh (đồng đại, lịch đại): Phương pháp này được sử dụng để chỉ ra những khác biệt trong yếu tố hậu hiện đại trong các tác phẩm của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami trong dòng chảy của văn học hậu hiện đại. Phương pháp lịch sử - loại hình: Đây là phương pháp vận dụng những tiểu thuyết ở các dạng thức biểu hiện cụ thể, xét từ phương diện đặc trưng tư duy tiểu thuyết, nghệ thuật trần thuật; chỉ ra các kiểu, dạng của người kể, điểm nhìn, kết cấu. Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Với việc xem toàn bộ tiểu thuyết của Murakami như một hệ thống, phương pháp này giúp chúng tôi tìm hiểu mối quan hệ để rút ra những kết luận, đánh giá cần thiết. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án chỉ ra và làm sáng tỏ những điểm khác biệt ở yếu tố hậu hiện đại ở tác phẩm của hai tác giả chủ yếu qua các phương diện thân phận con người và phương thức thể hiện tác phẩm. Qua đó, luận án đánh giá những đặc sắc nghệ thuật riêng trong sáng tác của hai nhà văn tiêu biểu cho hai nền văn học Việt Nam và Nhật Bản trên tinh thần soi sáng của lí thuyết hậu hiện đại. Đây là cơ sở để khẳng định tài năng và đóng góp đáng kể của hai và văn trong tiến trình hướng tới ngôi nhà chung của văn chương thế giới. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án Về lí luận: Luận án nỗ lực khái quát những đặc trưng cơ bản của văn học hậu hiện đại, mang đến một cái nhìn sâu sắc hơn về sự vận động của tư duy tiểu thuyết và truyện ngắn theo tinh thần hậu hiện đại. 3 Về thực tiễn: Qua so sánh những điểm khác biệt ở yếu tố hậu hiện đại ở tác phẩm của hai tác giả Hồ Anh Thái và Haruki Murakami chúng tôi mong muốn đem một hướng nghiên cứu về sự khác biệt ở những tác giả khác nhau, trong những hoàn cảnh xã hội khác nhau khi họ cùng sử dụng những thủ pháp tương đồng. Qua đó, luận án cũng gợi mở thêm về những giá trị của văn học hậu hiện đại cũng như thấy được sức ảnh hưởng của nó trong tiến trình phát triển của văn học nhân loại. Luận án sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, học tập về văn học hậu hiện đại. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội dung luận án được triển khai thành 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Hậu hiện đại trong văn học và tiền đề tiếp nhận ở Hồ Anh Thái và Haruki Murakami Chương 3. Sự khác biệt về thân phận con người trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami Chương 4. Sự khác biệt về phương thức thể hiện trong sáng tác của Hồ Anh Thái và Haruki Murakami 4 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan gián tiếp đến đề tài Trước hết để tạo được cơ sở lí luận cho việc đi vào nghiên cứu các yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của các nhà văn Việt Nam, chúng tôi hướng đến tìm hiểu những công trình cung cấp cơ sở lí thuyết do các nhà lí luận đã dày công nghiên cứu và dịch thuật trong thời gian qua. Tính từ bài viết của Antonio Blach: “Vài suy nghĩ về cái gọi là tiêu thuyết hậu hiện đại” trên Tạp chí văn học (1991), cho đến nay nhiều công trình lí luận nghiên cứu về văn học hậu hiện đại đã được xuất bản. Có thể điểm qua tên của các công trình tiêu biểu như: Văn học hiện đại thế giới – những vấn đề lý thuyết (2003) của nhiều tác giả; Chủ nghĩa hậu hiện đại (Postmodernism) (2006) của Trần Quang Thái; Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới (2003); Truyện ngắn, lí luận, tác gia và tác phẩm (2005); Văn học hậu hiện đại - Lí thuyết và tiếp nhận (2012) của Lê Huy Bắc; Hoàn cảnh hậu hiện đại (2006) của J.F. Lyotard (do Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính và giới thiệu); Lí thuyết hậu hiện đại (2011) của Phương Lựu; Thi pháp của chủ nghĩa hậu hiện đại (2012) của Liviu Petrescu do Lê Nguyên Cẩn dịch và giới thiệu… Hậu hiện đại trong văn học là vấn đề được giới lí luận nghiên cứu mà còn thu hút được sự quan tâm của các Khoa ngữ văn ở các trường đại học uy tín trên cả nước. Đã có hai cuộc hội thảo về văn học hậu hiện đại được tổ chức bởi Khoa Ngữ văn Trường Đại Khoa học Huế năm 2011 và Khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội Năm 2013. Các cuộc hội thảo đã nhận được nhiều bài viết, tham luận của các nhà nghiên cứu ở nhiều độ tuổi khác nhau và được tập hợp trong hai tập kỉ yếu hội thảo Văn học hậu hiện đại – Lí thuyết và tiếp nhận (2011), Văn học hậu hiện đại - Lí thuyết và thực tiễn (2013). Đây là sự góp thêm những công trình có giá trị cho nghiên cứu về văn học hậu hiện đại một vấn đề đang ngày càng dành được sự quan tâm của giới nghiên cứu ở nước ta. Trong chuyên luận Văn học hiện đại thế giới – những vấn đề lý thuyết (2003) do Nhà xuất bản hội nhà văn và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây phát hành đã giới thiệu 19 công trình và bài viết của các tác giả trong và ngoài nước về chủ 5 nghĩa hậu hiện đại. Những bài viết được tuyển tập của các nhà lí luận phê bình trên thế giới được dịch và giới thiệu như J. F. Lyotard, Mary Klages, I.P.Ilin, D. Martin Fields, Hans Bertens, Fredric Jameson…, và một số nhà nghiên cứu Việt Nam như Phương Lựu, Nguyễn Văn Dân, Lê Huy Bắc, Hoàng Ngọc Tuấn… , có sức thuyết phục cao. Đây là một công trình quy mô và có hệ thống nhất về văn học hậu hiện đại xét cả ở cấp độ lí thuyết và thực tiễn sáng tạo, đem lại đóng góp rất lớn cho việc tiếp nhận lí thuyết hậu hiện đại ở nước ta. Các bài viết được giới thiệu trong chuyên luận này đã lần lượt đề cập đến nhiều vấn đề cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại.I.P.Ilin với bài viết “Chủ nghĩa hậu hiện đại – một số khái niệm và thuật ngữ” (do Đào Tuấn Ảnh dịch) đã cung cấp một cách có hệ thống các thuật ngữ về khái niệm hậu hiện đại cũng như những đặc điểm của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học. Phương Lựu trong bài viết “Chủ nghĩa hậu hiện đại” đã trình bày những sự kiện cơ bản thúc đẩy sự ra đời của thuật ngữ hậu hiện đại bao gồm: đại chiến thế giới thứ II, bóng ma vũ khí hạt nhân, sự phát triển như vũ bão của văn minh kĩ trị. Lê Huy Bắc với bài viết “Truyện ngắn hậu hiện đại” đã khẳng định quá trình vận động tất yếu của lịch sử và trạng thái tinh thần nhân loại đang trải qua giai đoạn hậu hiện đại. Ông viết: “Bất kì một quốc gia có nền kinh tế, nền khoa học kĩ thuật phát triển nào đều không xa lạ với chủ nghĩa hậu hiện đại” [3, tr.415]. Quan trọng hơn ứng dụng khái niệm “toàn cầu hóa”, tác giả khẳng định chủ nghĩa hậu hiện đại có cơ hội phát triển ngay cả trên những nền kinh tế và cơ sở hạ tầng chưa đạt tầm hậu công nghiệp. Và ông khẳng định “thế giới hiện nay là thế giới của kỉ nguyên chủ nghĩa hậu hiện đại” [3, tr.415]. Bài viết Nguyễn Minh Quân: “Chủ nghĩa hậu hiện đại, những khái niệm căn bản”, đã góp phần xác định lại một cách khá thuyết phục sự phân kì giữa hiện đại và hậu hiên đại. Nguyễn Ước với bài nghiên cứu “Một hồ sơ về chủ nghĩa hậu hiện đại” đã thể hiện cái nhìn toàn diện và đa chiều trong việc xác định trạng thái tinh thần, quy luật phát triển của văn học hậu hiện đại trong tiến trình chung của thế giới và đi đến khẳng định quan trọng: “Chủ nghĩa hậu hiện đại là một trào lưu toàn cầu nên Việt Nam không thể không chạm tới” [3, tr 549]. Hoàng Ngọc Tuấn trong bài “Viết: từ hiện đại đến hậu hiện đại” đã chỉ rõ quá trình vận động của văn học từ hiện đại đến hậu hiện đại. Cũng trong cuốn chuyên luận này lần đầu tiên bảng so sánh “Những dị biệt có tính hệ thống giữa chủ nghĩa hiện 6 đại và chủ nghĩa hậu hiện đại” của Hassan được giới thiệu để người đọc nắm được những đặc trưng cơ bản của khuynh hướng hậu hiện đại. Trong khoảng thời gian từ 2003 đến 2012 đã có nhiều cuốn chuyên luận có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đến quá trình tiếp nhận lí thuyết văn học ở nước ta được dịch và giới thiệu. Năm 2003, nhóm dịch giả Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân giới thiệu cuốn Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học phương Tây và Hoa Kì thế kỉ XX của các tác giả I.P.Ilin và Tzurganova. Đây là cuốn sách cung cấp một cách có hệ thống các thuật ngữ và khái niệm về hậu hiện đại cũng như chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học. Các nhà nghiên cứu văn học có thể tiếp cận đầy đủ nội hàm của các khái niệm của Chủ nghĩa hậu hiện đại như: cảm quan hậu hiện đại, mặt nạ tác giả, siêu truyện, mã kép, giải nhân cách hóa, phi lựa chọn, pastiche, bất tín nhận thức, liên văn bản, tính nhục thể, ngoại biên… Tiếp đến, chuyên luận nổi tiếng của Umberto Eco có tên Đi tìm sự thật biết cười được Vũ Ngọc Thăng dịch và giới thiệu năm 2004. Đây là công trình hoàn chỉnh đầu tiên với những tiểu luận phê bình nổi tiếng thế giới của một học giả Phương Tây có đề cập đến văn học hậu hiện đại. Cũng trong năm 2004, Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành cuốn sách Tác phẩm như là quá trình của tác giả Trương Đăng Dung. Cuốn chuyên luận gồm ba phần đã đem đến cho người đọc một cái nhìn lí luận khái quát về quá trình từ hiện đại đến hậu hiện đại. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Khoa học xã hội cho xuất bản cuốn sách xã hội học, kinh tế học giá trị với nhan đề Chiếc Lexus và cây Oliu của Thomas L.Friedman (do Lê Minh dịch). Cuốn sách này đã giúp những người nghiên cứu về văn học hậu hiện đại trả lời được câu hỏi rất quan trọng: Toàn cầu hóa là gì? Ngoài ra, trong năm 2005 cuốn chuyên luận Những tiểu thuyết của Robbe – Grillet của Bruce Morriseette được Từ Huy dịch đã giới thiệu cho người đọc những cách tân mới mẻ, với nhiều kĩ thuật viết hậu hiện đại trong nghệ thuật tiểu thuyết của Robbe - Grillet. Tiếp đến, với cuốn sách Theo vết chân những người khổng lồ - Tân Guylivơ phiêu lưu kí về các lí thuyết văn hóa (2006), Đỗ Lai Thúy cung cấp cho người đọc nhiều sự hiểu biết nhiều nét về văn hóa hậu hiện đại. Ở cuối bài nghiên cứu được dịch có tên “Phân tích văn hóa theo thuyết hậu hiện đại” của Steven Seidman, tác 7 giả đưa phần phụ lục “Chủ nghĩa hậu hiện đại là gì?” đem đến một cái nhìn có tính lịch đại chi tiết về lí thuyết hậu hiện đại trên thế giới. Cuốn Nhập môn chủ nghĩa hậu hiện đại (2006) của các tác giả Richard Appignanesi, Chis Gattat, Z. Sardar và P. Curry được Nhà xuất bản Trẻ giới thiệu là một tác phẩm chuyên biệt về lí thuyết hậu hậu hiện đại được dịch và biên tập rất chu đáo. Cuốn sách này đã tạo ra ảnh hưởng rất thuận lợi cho tiến trình tiếp nhận lí luận hậu hiện đại vào Việt Nam. Cũng trong năm 2006 với chuyên luận Chủ nghĩa hậu hiện đại gồm hai chương với 244 trang, Trần Quang Thái đã phác thảo nên lịch sử hình thành và phát triển của chủ nghĩa hậu hiện đại trên thế giới. Tác giả đã chú ý đến những thay đổi cơ bản của quan niệm hậu hiện đại về con người với điểm nhấn quan trọng là sự xuất hiện của chủ thể phi trung tâm. Với chuyên luận Hoàn cảnh hậu hiện đại (2008) do Ngân Xuyên dịch, tác giả Jean Francois Lyotard đã tiếp tục cung cấp cho người đọc một cái nhìn bao quát về tâm thức và hoàn cảnh hậu hiện đại. Đây là một tác phẩm tạo dựng lí thuyết hậu hiện đại trên thế giới được dịch và xuất bản nên tạo được ảnh hưởng rất quan trọng đối với quá trình tiếp nhận lí thuyết văn học hậu hiện đại ở nước ta. Tác giả Phương Lựu với bài nghiên cứu “Chủ nghĩa lịch sử mới, một chuyển biến trong lòng chủ nghĩa hiện hậu hiện đại”, đăng trên Tạp chí Văn học, số 12, năm 2007, đã đem đến cho người đọc cái nhìn về thái độ của chủ nghĩa hậu hiện đại với lịch sử. Tiếp đến, trong năm 2008, với bộ giáo trình Lí luận văn học (3 tập), ông đã đưa chủ nghĩa hậu hiện đại vào tập ba và xác định đậy là khuynh hướng sáng tác của văn học thế giới đương đại. Cùng thời điểm này, với bài viết “Những bậc tiên phong của tư duy hậu hiện đại” in trên Tạp chí Văn học, số 5, đã phân tích những đóng góp của J. Lacan trên phương diện phân tâm học cấu trúc và M. Foucault trên phương diện vô thức lịch sử. Từ đó, tác giả đã chỉ ra những tư tưởng của họ chính là tiền đề quan trọng cho sự hình thành triết học hậu hiện đại. Năm 2011, Phương Lựu với chuyên luận Lí thuyết hậu hiện đại gồm 10 chương và phần phụ lục. Đây là công trình lí thuyết hoàn chỉnh đầu tiên về văn học hậu hiện đại của một học giả Việt Nam, đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về lí luận văn học hiện đại. Đặc biệt ở chương hai: “Tổng quan về chủ nghĩa hậu hiện 8 đại”, tác giả đã lần lượt có những kiến giải về nguồn gốc của khái niệm hậu hiện đại, các khái niệm cơ bản, những vấn đề về quan niệm con người và hiện thực đời sống trong cái nhìn hậu hiện đại. Về đặc trưng của thi pháp văn học hậu hiện đại, Phương Lựu nhấn mạnh đó là “một hệ thống bất định và đột phá” [81, tr.66]. Sự bất định thể hiện qua những kiến giải về tính vô định của chủ đề, tính mơ hồ của hình tượng, sự chồng chéo của những tình tiết trong một tác phẩm văn học hậu hiện đại. Sự bứt phá được thể hiện qua tính bành trướng của ngôn từ và sự bứt phá về thể loại. Đầu chương ba của chuyên luận, tác giả cũng đã viện dẫn bảng so sánh của chủ nghĩa hậu hiện đại với của chủ nghĩa hiện đại của I. Hasan. Năm 2012 cuốn chuyên luận Thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại của Liviu do Lê Nguyên Cẩn dịch và giới thiệu đã góp phần cung cấp thêm những góc nhìn về văn học hậu hiện đại trên thế giới ở các phương diện những tiền đề cơ bản để xuất hiện và những đặc trưng cơ bản nhất của thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại. Với ba công trình nghiên cứu Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới (2003); Truyện ngắn, lí luận, tác gia và tác phẩm (2005); Văn học hậu hiện đại - Lí thuyết và tiếp nhận (2012), tác giả Lê Huy Bắc đã lần lượt giải quyết các vấn đề về hoàn cảnh ra đời, khái niệm và các đặc trưng cơ bản của văn học hậu hiện đại. Theo ông: Bắt đầu từ thơ Đa đa (1916), văn xuôi của Franz Kafka (Biến dạng, 1915) và kịch của Samuel Beckett (Chờ đợi Godot, 1952), chủ nghĩa hậu hiện đại đã tồn tại song song với chủ nghĩa hiện đại cho đến đầu thập niên 1950 và thực sự phát triển mạnh từ 1960 trở đi. Đây là khuynh hướng đối nghịch với chủ nghĩa hiện đại về bản chất, ở chỗ chấp nhận tính hư vô (nothing), hỗn độn (chaos), trò chơi (game) và liên văn bản (Intertextuality) của tồn tại, hòng giải quyết những vướng mắc của chủ nghĩa hiện đại với tham vọng dùng khoa học để giải phóng tối đa con người thoát khỏi cuộc sống và những điều tín tăm tối. Chủ nghĩa hậu hiện đại gắn liền với sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghệ thông tin, của sự phát triển kinh tế, khoa học kĩ thuật vượt bậc, của thành tựu đô thị hóa, … được thể hiện ở cả ba phương diện thơ, kịch, văn xuôi với các đặc điểm chính: đa trị, huyền ảo, lắp ghép, mảnh vỡ, cực hạn, phi trung tâm, phi mạch lạc; hạn chế tối đa 9 vai trò thống trị của người kể chuyện, không quan tâm đến cốt truyện, kịch và văn xuôi mang nhiều đặc điểm của thơ [14, tr.32]. Dựa vào tiêu chí hình thức thể hiện, ông chia văn học hậu hiện đại thành năm khuynh hướng tiêu biểu nhất là khuynh hướng huyền ảo, khuynh hướng mảnh vỡ, khuynh hướng nhại và khuynh hướng cực hạn, khuynh hướng giả trinh thám. Để chỉ ra đặc trưng của một tác phẩm văn học hậu hiện đại, ông dẫn ý kiến của nhà phê bình mác xít hậu hiện đại Terry Eagleton trong cuốn Dẫn luận lí luận văn học (1996) khẳng định: “Tác phẩm nghệ thuật hậu hiện đại điển hình nhất là tùy tiện, đa trị, lai ghép, lệch tâm, dễ thay đổi, ngưng đọng hệt như một mô phỏng” [14, tr.31]. Ông cũng tán thành với Barry Lewis đề cập đến các phương diện của văn xuôi hư cấu hậu hiện đại đó là “sự hỗn độn thế tục (Temporal disorder), cóp nhặt (Pastiche). Mảnh vỡ (Fragmentation), sự nới lỏng tổ chức (Looseness of association), tính hoài nghi (Paranoia), vòng tương tác (Vicious circles)” [14, tr.31]. Cũng trong công trình của mình một lần nữa Lê Huy Bắc dẫn lại bảng so sánh để khu biệt giữa hai khuynh hướng Chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại của Ihab Hassan đưa ra năm 1885 để những người nghiên cứu có thêm những căn cứ chắc chắn khi tiến hành khảo sát các tác phẩm văn học hậu hiện đại. Lê Huy Bắc cũng là dịch giả có công giúp người đọc Việt được tiếp cận những tác phẩm văn học hậu hiện đại ở một số quốc gia trên thế giới qua tuyển tập 54 truyện ngắn ông đã dịch và giới thiệu. Ông cũng là người rất tỉ mỉ trong việc hướng dẫn người đọc vận dụng lí thuyết của văn học hậu hiện đại để tiếp cận các tác phẩm văn học có yếu tố hậu hiện đại trong nhà trường. Đây là cơ sở quan trọng để tạo nên cái nhìn trong mối tương quan so sánh tìm ra sự khác biệt trong việc thể hiện yếu tố hậu hiện đại qua các tác phẩm ở nền văn học của các nước có sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại. Ngoài công trình nghiên cứu cá nhân của các chuyên gia còn phải kể đến những công trình tập thể qua các kì hội thảo quốc gia. Cuốn Văn học hậu hiện đại – Diễn giải và tiếp nhận (Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia do Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Huế tổ chức tháng 3 năm 2011) với 37 bài viết của các chuyên gia nghiên cứu ở nhiều độ tuổi khác nhau được tuyển tập chia làm ba nhóm: 1) Những bài viết giới thiệu và diễn giải về lý thuyết hậu hiện đại; 2) Những bài viết phê bình các tác phẩm văn học theo xu hướng hậu hiện đại trên thế giới; 3) Những 10 bài viết phê bình các tác phẩm mang dấu ấn hậu hiện đại ở Việt Nam. Ở nhóm bài giới thiệu và diễn giải về lý thuyết hậu hiện đại đáng lưu ý trong kỉ yếu có dẫn đăng bài các “Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại” của Lê Huy Bắc, “Phê bình văn học từ góc nhìn hậu hiện đại” của Đỗ Lai Thúy, “Tri thức và ngôn ngữ trong tinh thần hậu hiện đại” của Trương Đăng Dung, “Chủ nghĩa hậu hiện đại trong tiến trình văn học Việt Nam” của Nguyễn Phú Phong, “Quan niệm về chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam” của hai tác giả Nguyễn Hồng Dũng và Phan Tuấn Anh, “Dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI” của Thái Phan Vàng Anh. Ngoài việc cung cấp các khái niệm về văn học hậu hiện đại các bài viết còn có sự kiến giải thấu đáo về hoàn cảnh xuất hiện và những khả năng thể hiện của văn học hậu hiện đại đối với nền văn học chưa có được cơ sở từ một nền văn minh hậu công nghiệp như ở nước ta. Kỉ yếu hội thảo khoa học quốc gia năm 2013 Văn học hậu hiện đại – Lí thuyết và thực tiễn của Khoa ngữ văn – Bộ môn văn học nước ngoài của trường Đại học Sư phạm Hà Nội với 29 bài tham luận từ các nhà nghiên cứu ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Trong đó có 5 bài tham luận về những vấn đề chung của văn học hậu hiện đại, 8 tham luận ứng dụng lí thuyết hậu hiện đại vào nghiên cứu văn học Việt Nam, và 16 tham luận ứng dụng lí thuyết văn học hậu hiện đại vào nghiên cứu các tác giả và tác phẩm văn học nước ngoài. Điều được những nhà nghiên cứu quan tâm và làm sáng tỏ nhiều nhất là về các yêu tố thuộc về kĩ thuật viết đặc trưng của văn học hậu hiện đại như trò chơi, tính liên văn bản, phi trung tâm, huyền ảo, mảnh vỡ… Qua các bài viết được tập hợp trong cuốn kỉ yếu lần này đã cho thấy những lí thuyết soi sáng có tính chất định hướng mở đường của lí luận văn học hậu hiện đại dần dần được ứng dụng rộng rãi vào nghiên cứu đối với các trường hợp một tác giả, tác phẩm văn học cụ thể. Ngoài những công trình trên còn phải kể đến một loạt các bài viết về văn xuôi Việt Nam thời kì đổi mới, trong đó, có đề cập đến đặc trưng của văn học hậu hiện đại. Nguyễn Hưng Quốc với nhiều bài viết khá công phu về chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học hậu hiện đại ở Việt Nam như: “Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học Việt Nam” (2000), “Giễu nhại như một ý niệm” (2005), “Văn bản và liên văn bản” (2005), “Giải lãnh thổ hóa trong văn học Việt Nam” (2008), “Toàn cầu hóa và văn 11 học Việt Nam” (2008), “Tính lai ghép trong văn học Việt Nam” (2008), “Chủ nghĩa hậu hiện đại và những cái cần chết trong văn học Việt Nam” (2009), “Chủ nghĩa hậu hiện đại - Những mảnh nghĩ rời” (2009), v.v… Trong các bài viết của mình, Nguyễn Hưng Quốc đã lần lượt xem xét vấn đề hậu hiện đại trong văn học Việt Nam trên rất nhiều phương diện, từ khả năng chịu ảnh hưởng, những tính chất riêng biệt ở văn học Việt Nam… Ngoài ra còn phải kể đến nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu có uy tín khác như Nguyễn Thị Bình (Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi mới đến nay), Lê Hương Thủy (Truyện ngắn sau 1975 – một số đổi mới về thi pháp), Bích Thu (Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới)… Các bài nghiên cứu của Đào Tuấn Ảnh, Phùng Gia Thế, Đông La, Hoàng Ngọc Tuấn, Inrasara, Phan Nhiên Hạo, Như Huy, Trịnh Thanh Thủy, Văn Giá, Nguyễn Chí Hoan, Đoàn Cầm Thi… đã chỉ ra được những dấu hiệu hiện đại trong văn học Việt Nam nói chung và văn xuôi Việt Nam nói riêng. Văn học hậu hiện đại trong những năm gần đây đã được đưa vào chương trình đào tạo ở hệ đại học và sau đại học. Trong đó có những luận án trực tiếp nghiên cứu về văn xuôi hậu hiện đại Việt Nam như: Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 của Phùng Gia Thế, Yếu tố hậu hiện đại trong truyện ngắn Việt Nam của Lê Văn Trung, Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2010 của Nguyễn Hồng Dũng... Những nghiên cứu nói trên là kết quả của quá trình tìm tòi, học tập và cả sự nỗ lực không mệt mỏi của các nhà Lý luận và Phê bình – Nghiên cứu văn học trên con đường đưa nền văn học Việt Nam hội nhập với văn học thế giới. Đó cũng là những gợi mở hết sức thú vị cho công việc nghiên cứu về yếu tố hậu hiện đại trong văn học qua thực tiễn sáng tác ở hai tác giả Hồ Anh Thái và Murakami. 1.2. Những công trình liên quan trực tiếp đến đề tài 1.2.1. Những công trình nghiên cứu yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của Hồ Anh Thái Trong văn học Việt Nam đương đại, Hồ Anh Thái là nhà văn có chỗ đứng khá vững chắc. Bước vào làng văn khá sớm (17 tuổi), Hồ Anh Thái đã để lại ấn tượng và gặt hái được những thành công nhất định. Cho đến nay, ông được xem là một 12 nhà văn chuyên nghiệp có sức viết mạnh mẽ với thái độ lao động nghệ thuật nghiêm túc. Rất nhiều bài viết đánh giá cao bút lực, tài năng cũng như thái độ lao động nghệ thuật của ông. Sự đổi mới ở ngòi bút của Hồ Anh Thái đã nhận được nhiều sự chú ý của các nhà phê bình trong nước và quốc tế. Sau khi hợp tuyển gồm hai tiểu thuyết Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra và tám truyện ngắn được dịch sang tiếng Anh và xuất bản ở nhiều nước trên thế giới, Hồ Anh Thái đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá tích cực của các nhà phê bình nghiên cứu nước ngoài về sự đổi mới về tư duy nghệ thuật mang đậm cá tính sáng tạo. Wayne Karlin trong lời giới thiệu cho cuốn tiểu thuyết Người đàn bà trên đảo cho rằng, Hồ Anh Thái đã biết vượt lên khỏi xuất phát điểm của bản thân và nền văn học Việt Nam đương thời khi tiếp cận với những ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mĩ La tinh và tác phẩm của nhà văn Pháp gốc Czech Milan Kundera. Những đổi mới dũng cảm trong cách nhìn về các vấn đề như số phận con người thời hậu chiến, những di chứng của chiến tranh, tình dục và cách ứng xử của con người trước nó. Tác giả này cũng nhận thấy trong tác phẩm Hồ Anh Thái, chất hài hước, chất lạ quyện với chất Kafka dường như gây bất ngờ cho người phương Tây khi họ tìm hiểu văn học Việt Nam. Từ đó Wayne Karlin đã khẳng định Hồ Anh Thái và những người đương thời Việt Nam đang tiên phong cho nền văn học của các nước đang phát triển, nền văn học không còn bị định nghĩa bằng những thông số của cuộc đấu tranh giữa hai bên tư sản và cộng sản. Riêng với cuốn tiểu thuyết Trong sương hồng hiện ra là tác phẩm lạ trên mặt bằng văn học đương thời đã “mở ra một cách cửa vào một nền văn hóa đang phải đấu tranh để định nghĩa mối quan hệ của mình với quá khứ và tương lai của chính mình” [139, tr. 393]. Jennifer Eagleton đưa ra những nhận xét khái quát cho giá trị nội dung và nghệ thuật của cuốn tiểu thuyết này: “Dường như cuốn tiểu thuyết bày tỏ niềm khao khát được quay nhìn lại quá khứ, cái quá khứ đã được ký ức đóng khung và tôn kính... Sự tái tạo huyền thoại này đã thành công với sự giản dị, trong sáng của ngôn ngữ và cả yếu tố kỳ lạ” [139, tr.440]. Trong bài viết ngắn “Đặt ra vấn đề cá nhân ở nước Việt Nam” (Thời báo Los Angeles, 18.9.2001), Michael Harris cũng nhận thấy ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mĩ La tinh trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái như một dấu hiệu cho thấy nỗ lực rất đáng kể của nhà văn Việt Nam trong việc tiếp cận với văn học thế giới. 13 Chris King (Thời báo ST. Louis Missuri River Front Times) nhận thấy sáng tác của Hồ Anh Thái là hành trình đi từ những vẻ đẹp nhân bản giản dị dẫn tới nỗi đau khủng khiếp nhất, rồi nỗi đau ấy lại được cứu rỗi bằng chính sự thông hiểu nhân bản. Philip Gambone nhận ra chất châm biếm, chất siêu thực và ngụ ngôn tràn đầy trong nhiều truyện của cuốn sách được cấu trúc một cách tao nhã của một trong những nhà văn Viêt Nam đương đại xuất sắc nhất. Tiến sĩ văn học Ấn Độ K. Pandey có nhận xét đánh giá rất cao về những truyện ngắn của Hồ Anh Thái viết về đất nước và con người Ấn Độ: “Những dòng chữ Hồ Anh Thái là những mũi kim châm cứu Á Đông đã điểm trúng huyệt tính cách Ấn Độ” [138, tr.322]. Ở trong nước tiểu thuyết Hồ Anh Thái được đông đảo bạn đọc và giới nghiên cứu phê bình văn học quan tâm bởi tác giả luôn biết cách tạo ra những điều mới mẻ bất ngờ trong tác phẩm của mình. Diệu Hường trong bài “Một góc nhỏ văn chương Hồ Anh Thái” khẳng định: “Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn sung sức nhất và được đón đọc nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay. Ông viết văn như một thứ lao động nghiêm ngặt, ông chăm chút cho từng câu chữ với tinh thần không chấp nhận, cái gì sẵn có, không thụ động chờ đợi, cái mà rất nhiều nhà văn khác vẫn quen gọi là cảm hứng” [93]. Nguyễn Thị Minh Thái cũng cho rằng: “Với Hồ Anh Thái, viết văn là một nghề hẳn hoi, chứ không phải là thứ lao động tài tử, nghiệp dư, một cuộc ghé chơi tình cờ như nhiều người lầm tưởng” [147, tr 351]. Cùng quan điểm đó, Ngọc Ánh trong bài viết “Hồ Anh Thái – Sáng tạo, bứt phá trên từng con chữ” cũng cho rằng: “Văn chương với Hồ Anh Thái là một nghiệp với đa tầng phong cách biểu hiện, với một tiềm năng đọc mới và thấu suốt cuộc sống, con người, những gì mà với nhiều người khác đã trở nên cũ kỹ. Anh biết vượt qua những lối mòn tư duy coi văn học như là tấm gương phản ánh hiện thực một cách đơn giản để nhìn cuộc đời” [2]. Tác giả bài viết còn phát hiện: “Chân dung của hiện thực trong văn bản của Hồ Anh Thái có nhiều góc khuất, nhiều trạng thái, nhiều giá trị xấu tốt đan cài chứ không đơn điệu. Đó không phải là thứ hiện thực “dẹt”, “phẳng” mà góc cạnh, nhiều chiều, là hiện thực “phân mảnh” [2]. Nghiên cứu về nghệ thuật thể hiện trong những tác phẩm Hồ Anh Thái, Nguyễn Đăng Điệp trong bài “Hồ Anh Thái – Người mê chơi cấu trúc” có nhiều khám phá mới mẻ và đưa ra những nhận định sắc sảo. Theo ông: “Hồ Anh Thái có ý 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan