Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Sự tham gia của người nghèo trong thực hiện chính sách giảm nghèo ở quận phú nhu...

Tài liệu Sự tham gia của người nghèo trong thực hiện chính sách giảm nghèo ở quận phú nhuận, thành phố hồ chí minh

.PDF
85
340
61

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA XÃ HỘI VŨ NGỌC MINH SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI NGHÈO TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO Ở QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA XÃ HỘI VŨ NGỌC MINH SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI NGHÈO TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO Ở QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Xã hội học Mã số: 8 31 03 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN NGUYỆT MINH THU HÀ NỘI, năm 2019 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giảm nghèo, chăm lo cho người nghèo là một trong những chủ trương lớn, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, lãnh đạo chỉ đạo; là vấn đề lớn, quan trọng, bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm quốc phòng và an ninh (Đảng Cộng sản, 2011). Qua các kỳ đại hội, quan điểm của Đảng về giảm nghèo, tăng cường sự tham gia của người nghèo trong thực hiện chính sách giảm nghèo từng bước được xác lập và hiện thực hóa, với sự quản lý và điều hành của Nhà nước. Nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này được thực hiện thông qua việc ban hành các chủ trương, chính sách ưu đãi, những biện pháp đầu tư đặc biệt. Công tác giảm nghèo hướng tới đối tượng bị thua thiệt, áp dụng cho một số vùng, miền chịu nhiều khó khăn. Khó khăn đó có thể xuất phát từ sự không thuận lợi trong phát triển, thiên tai, mất mùa, xa các trung tâm kinh tế - xã hội v.v.. Các nguồn lực hỗ trợ cho công tác giảm nghèo cơ bản vẫn được lấy từ ngân sách nhà nước, tài trợ trong nước và quốc tế. Ngày 21/5/2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo”. Tiếp đó, ngày 27/12/2008 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo. Đây là những cơ sở để tổ chức, huy động quyết tâm, nguồn lực của các cấp, các ngành, các địa phương vào thực hiện xóa đói, giảm nghèo. Sau đó, từ thực tế cuộc sống, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1971/QĐ-TTg, về việc cho 30 huyện khác được hưởng cơ chế hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng bằng 70% của huyện thuộc chương trình thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP. Đây là những huyện nằm ngoài chương trình, nhưng điều kiện khó khăn, tỷ lệ nghèo cao, đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, Tiếp tục thực hiện chủ trương được đề ra từ các Đại hội của Đảng, điểm cơ bản và nổi bật của các chương trình tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo là việc gắn chặt mục tiếu này với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tăng cường đổi mới về cơ chế, chính sách giảm nghèo để tiến tới giảm nghèo bền vững là một trong giải pháp trọng tâm được đặt ra trong giai đoạn 2016 -2020, sẽ dần xóa bỏ chính sách hỗ trợ trực tiếp chuyển sang hỗ trợ gián tiếp. Giảm nghèo vừa là mục tiêu, tiền đề, cũng là điều kiện, thước đo của sự phát triển bền vững, trong đó sự tham gia của người nghèo có một vai trò đặc biệt quan trọng. Quốc hội khóa XIII, tại Kỳ họp thứ 7 đã ban hành Nghị quyết số 76/2014/QH13, về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2324/QĐ-TTg, ngày 19/12/2014, về kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020. Ngân sách nhà nước đã ưu tiên tập trung nguồn lực cao nhất cho các huyện nghèo, xã nghèo và người nghèo nhằm đạt được mục tiêu đề ra (Tạp chí cộng sản, 2016). Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua đã thực hiện có hiệu quả công tác giảm nghèo, với hơn 93.000 hộ vượt chuẩn nghèo: năm 2011 có 34.800 hộ, năm 2012 tăng thành 29.968 hộ, năm 2013 đạt mức 28.300 hộ, góp phần kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 5,69% đầu năm 2011, xuống còn 0,57% vào cuối năm 2013. Kết thúc giai đoạn 3 “Chương trình giảm hộ nghèo, tăng hộ khá” (chuẩn nghèo 12 triệu đồng/người/năm) sớm 2 năm so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ TPHCM lần thứ IX đề ra. Chuyển sang giai đoạn mới 2014-2015, thành phố có chuẩn nghèo “là hộ có mức thu nhập bình quân 16 triệu đồng/người/năm trở xuống và hộ cận nghèo có thu nhập trên 16 - 21 triệu đồng/người/năm”. Đến cuối năm 2014, toàn thành phố có khoảng 55.000 hộ nghèo (chiếm tỷ lệ 2,8% tổng hộ dân) và 59.000 hộ cận nghèo (chiếm 3%). Cuối năm 2015, số hộ nghèo còn khoảng 30.000 hộ (chiếm tỷ lệ 1,53%) và 35.000 hộ cận nghèo (tỷ lệ 1,78%). Tuy nhiên, do chuẩn nghèo thành phố tăng nên một số địa phương gặp khó khăn hơn trong công tác vận động, chăm lo, đỡ đầu cho những hộ nghèo đặc biệt vượt chuẩn nghèo của giai đoạn mới. Bên cạnh đó, vẫn còn một số hộ nghèo có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của chương trình nên chưa chí thú làm ăn hoặc không muốn thoát nghèo, ra khỏi chương trình. Những hộ cận nghèo tuy đã vượt chuẩn (khi thu nhập trên 21 triệu đồng/người/năm) nhưng vẫn cần được một số chính sách tiếp tục hỗ trợ như: cho vay vốn, hỗ trợ việc làm v.v.. để không tái nghèo. Nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo có sự tham gia của người dân vẫn đang là vấn đề cấp bách đặt ra cho thành phố Hồ Chí Minh và quận Phú Nhuận nói riêng, đặc biệt trong tiến trình hội nhập và phát triển hiện nay. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, việc lựa chọn và thực hiện đề tài nghiên cứu “Sự tham gia của người nghèo trong thực hiện chính sách giảm nghèo ở quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh" sẽ là một đóng góp ý nghĩa, giúp nâng cao sự hiểu biết về vấn đề nghèo tại địa phương bằng cách lấy ý kiến trực tiếp từ những đối tượng có liên quan, ưu tiên tìm hiểu các vấn đề chính sách và thực tiễn được địa phương và người nghèo quan tâm, hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2016-2020 [6], tầm nhìn 2030 (Theo Quyết định số 622/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 10 tháng 5 năm 2017, Về việc ban hành kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, với mục tiêu 1. Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi) [29]. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 2.1. Nghiên cứu nghèo ở Việt Nam thời gian qua Tuyên bố của Liên Hợp Quốc từ năm 2008 đã đưa ra rất nhiều tiêu chí để xác định tình trạng nghèo, cụ thể là: sự thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội; sự không có đủ ăn, không đủ mặc, không được đi học, không được đi khám, không có đất trồng trọt, không có nghề nghiệp nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng; sự không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ của các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng; tình trạng dễ bị bạo hành, phải sống ngoài lề xã hội hoặc trong các điều kiện rủi ro, không được tiếp cận nước sạch và công trình vệ sinh an toàn (Liên Hợp Quốc, 2008). Đó là tình trạng yếu kém về chất lượng sống của những cộng đồng, gia đình, cá nhân này so với mức trung bình của xã hội (Micheal Leaf, 2001). Tình trạng nghèo khổ có thể được mô tả và đo lường ở cấp độ cá nhân, gia đình, cộng đồng hoặc cao hơn. Nghèo khổ có thể hiểu là sự thiếu hụt cơ hội, nghèo đói, suy dinh dưỡng, mù chữ, thiếu giáo dục, các bệnh về thể chất và tinh thần, bất ổn về tình cảm và xã. Sự khốn cùng về vật chất do nghèo là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng yếu kém về chất lượng sống, suy giảm sức khỏe, bất ổn trong đời sống tinh thần và tình cảm, khả năng tiếp cận giáo dục thấp, dễ bị tổn thương hội (UN, 2012: 5). Nghèo khổ gắn với sự thụ hưởng thiếu thốn về giáo dục và y tế, đây là vấn đề thuộc về bản thân từng người, song luôn nhận được quan tâm đặc biệt bởi đi kèm với những khốn cùng về vật chất là tính dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro bởi không có tiếng nói và quyền lực. Trong lòng một xã hội, nghèo khổ thường gắn liền với tình trạng bất bình đẳng do bị phân biệt đối xử, sự tách biệt với cộng đồng, thiếu thốn tài nguyên hay khả năng dễ bị tổn thương của họ trước những tác động của sự biến đổi môi trường sống (Micheal Leaf, 2001). Một trong những đặc trưng khác là thiếu hụt lâu dài sự tham gia kinh tế, xã hội và chính trị, đẩy các cá nhân đến chỗ bị loại ra khỏi xã hội, ngăn cản tiếp cận với những lợi ích của phát triển kinh tế và xã hội và do đó hạn chế sự phát triển văn hóa của họ (UN, 2012: 5). Là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, kể từ sau đổi mới, Việt Nam đã dần đạt được những thành tựu to lớn về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Tỉ lệ nghèo đã giảm được 75%: từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,5% năm 2008; tỷ lệ thiếu đói giảm hơn 2/3: từ 24,9% năm 1993 xuống còn 6,9% năm 2008. Trong tất cả các Mục tiêu Thiên niên kỷ, Việt Nam đạt được với tiến bộ ấn tượng nhất ở Mục tiêu Thiên niên kỷ về giảm nghèo, số hộ nghèo đã giảm đi ở tất cả các nhóm nhân khẩu thuộc cả khu vực thành thị cũng như nông thôn (UNDP, 2012). Giảm đói nghèo không chỉ là một trong những chính sách xã hội cơ bản, được Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, mà còn là một bộ phận quan trọng của mục tiêu phát triển. Giảm nghèo diễn ra ở tất cả các nhóm dân cư, khu vực thành thị, nông thôn, và ở các vùng địa lý. Thu nhập thực tế của người dân sau 10 năm tăng gấp 3,5 lần. Các khía cạnh của đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân đã có những cải thiện rõ rệt (Đỗ Hoài Nam, 2011: 17) Bảng 1. Thành tích giảm nghèo giai đoạn 1998-2008 (tỷ lệ nghèo %) 1998 2000 2004 2006 2008 Chung 37.4 28.9 19.5 16.0 14.5 Thành thị 9.0 6.6 3.6 3.9 3.3 Nông thôn 44.9 35.6 25.0 20.4 18.7 Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình – (Đỗ Hoài Nam, 2011: 17) Mặc dù vậy, rủi ro tái nghèo vẫn còn cao và chủ yếu rơi vào ba nhóm. Nhóm thứ nhất gồm những hộ nghèo mà thu nhập dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp thuần túy, họ không chỉ hay đối mặt với thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh mà thường xuyên phải đối mặt với tình trạng giảm đất nông nghiệp do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Thứ hai là nhóm dân tộc thiểu số, những nơi khó tiếp cận nguồn lực để sản xuất cũng như tiếp cận các dịch vụ xã hội. Nhóm thứ ba gồm dân nghèo thành thị có trình độ học vấn và chuyên môn thấp, người lao động di cư, nông dân mất đất do quá trình đô thị hóa. Đặc điểm việc làm của nhóm này là thiếu ổn định, thu nhập thấp hoặc không thể gia nhập thị trường lao động thành thị (Đỗ Hoài Nam, 2011:18). 2.2. Đặc điểm kinh tế xã hội của người nghèo Đối với cả nông thôn và đô thị, các khía cạnh khác nhau của nghèo luôn có mối quan hệ tác động và ảnh hưởng lẫn nhau. Nâng cao những thành quả về y tế không chỉ cải thiện phúc lợi mà còn tăng khả năng tạo thu nhập. Tăng cường giáo dục không chỉ làm tăng phúc lợi mà còn đưa tới những thành quả về y tế tốt đẹp hơn và mức thu nhập cao hơn. Bảo vệ người nghèo, giảm bớt cho họ những nguy cơ tổn thương khi phải đối mặt với rủi ro không chỉ làm họ cảm thấy vững vàng hơn mà còn cho phép họ tận dụng những cơ hội tuy rủi ro hơn nhưng lợi suất cũng cao hơn. Tăng thêm tiếng nói và khả năng tham gia của người nghèo không chỉ giải quyết tâm lý bị xã hội gạt bỏ của họ mà còn giúp định hướng giáo dục và y tế vào đáp ứng tốt hơn nhu cầu của họ (Ngân hàng Thế giới, 2012). Nghèo khổ là một vấn đề xã hội phức tạp và nhạy cảm, có liên quan trực tiếp tới những bất bình đẳng và sự ổn định xã hội. Tại các đô thị, nghèo khổ và khả năng thoát nghèo chịu tác động từ nhiều yếu tố, bởi cùng với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng. Sự phát triển của kinh tế trong những năm gần đây đã kéo thay nhiều thay đổi về mặt xã hội. Nếu như trước đây người nghèo thường được xác định là những người sống ở nông thôn, làm nông nghiệp, học vấn thấp và thu nhập gia đình không đủ sống thì hiện nay việc xem xét nghèo càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn. Sự gia tăng bất bình đẳng giữa các nhóm thu nhập trong xã hội vẫn tồn tại, mà điển hình là khu vực đô thị - nơi tập trung nhiều người thuộc nhóm giàu nhất (Oxfarm và ActionAid, 2010: 1). Theo tiêu chí tuổi, những hộ nghèo có người cao tuổi, góa phụ cao tuổi làm chủ hộ dễ bị tổn thương hơn, một phần do độ bao phủ của bảo hiểm xã hội và lương hưu cho dân số đang già hóa ở Việt Nam còn hạn chế (UNFPA, 2011). Có vẻ như càng nhiều tuổi thì nguy cơ nghèo của người cao tuổi càng cao hơn; nữ giới cao tuổi có nguy cơ nghèo cao hơn so với nam giới cao tuổi; người cao tuổi ở khu vực nông thôn dễ bị tổn thương và nghèo hơn so với người cao tuổi ở khu vực đô thị (UNFPA, 2011) Theo nghề nghiệp, nghiên cứu của Oxfarm và Action Aid tại 3 thành phố Hà Nội, TP. HCM và Hải Phòng cho thấy người nghèo bản xứ ở khu vực đô thị thường thiếu khả năng chuyển đổi sinh kế do trình độ học vấn thấp, thiếu kỹ năng tay nghề. Khó có thể chuyển đổi sang các công việc thuộc khu vực chính thức với mức thu nhập ổn định hơn cũng đồng nghĩa với việc họ khó có cơ hội tiếp cận với hệ thống an sinh xã hội, không có BHXH và BHYT. Khu vực ven đô thị, người nghèo có nhiều khả năng chuyển đổi sinh kế hơn, lựa chọn chủ yếu vẫn là nghề tự do, buôn bán nhỏ, phụ bán quán, phụ hồ, lao động theo ngày, cắt tóc, bán rau, rửa bát chén thuê, bảo vệ v.v.. Đất sản xuất khu vực ven đô thị ngày càng bị thu hẹp là một thách thức đối với người nghèo, ngay cả khi họ đã tìm kiếm và thích ứng được với những công việc phi nông nghiệp. Nhà ở và dịch vụ nhà ở chất lượng kém là hai trong số những thiếu hụt chính của người nghèo ở đô thị. Đối với các đô thị lớn, người nghèo ở đô thị về trực quan có thể dễ nhận thấy hơn bởi tình trạng nhà ở tồi tàn, chật chội, không sở hữu hoặc sở hữu một cách không chính thức nơi ở, và những điều kiện sống thấp kém đi kèm như thiếu nước sạch, ô nhiễm môi trường và mất an ninh (Nguyễn Thị Hồng Xoan, 2015). Sự phân tầng về mức sống giữa người giàu và người nghèo ở đô thị thể hiện ở nhiều chỉ báo khác nhau, trong đó có sự cách biệt về loại hình và diện tích nhà ở. Có sự phân hóa lớn giữa các nhóm thu nhập về loại hình nhà ở, các nhóm càng khá giả thì có tỷ lệ nhà kiên cố càng cao. Trong khi đó hơn 1/3 dân số có thu nhập trung bình trở xuống sống trong những điều kiện nhà ở tối thiểu, và có tới 34,5% số hộ nghèo nhất sống trong diện tích nhỏ hơn 7m2/nhân khẩu. (TP.HCM, 2010). 2.3. Chính sách giảm nghèo, giảm nghèo bền vững Về tiếp cận dịch vụ y tế của người nghèo, ở Việt Nam tỷ lệ chi phí “thảm họa” (chi phí y tế chiếm bằng hoặc trên 40% khả năng chi trả) và nghèo hóa do chi phí y tế khá cao (dù đang giảm). Trong giai đoạn 1992 - 2012, tỷ lệ chi phí thảm họa thường xuất hiện ở các nhóm dân thiệt thòi như người nghèo, người có khả năng tiếp cận giáo dục thấp và người dân nông thôn. Bất bình đẳng về khả năng tiếp cận các dịch vụ có chất lượng và bất bình đẳng về mức độ được hưởng lợi từ các dịch vụ có chất lượng vẫn là vấn đề quan trọng của hệ thống y tế. Vấn đề sức khỏe kém ở Việt Nam tập trung nhiều trong các nhóm nghèo. Tại đô thị, người nghèo sử dụng các dịch vụ y tế ít hơn, trong khi các nhóm thu nhập cao hơn “có nhiều khả năng hơn” sử dụng nhiều loại dịch vụ nội trú và ngoại trú đồng thời họ cũng có điều kiện tới bệnh viện khám và điều trị nhiều hơn (Oxfarm, 2017). Hầu hết cư dân đô thị được tiếp cận tốt hơn dịch vụ y tế có chất lượng so với cư dân nông thôn. Những rủi ro về sức khỏe mà người nghèo ở đô thị sẽ phải đối mặt trong khi người nghèo ở nông thôn không gặp phải gồm: rủi ro liên quan đến chất lượng môi trường sống, an toàn giao thông, không khí, nguồn nước, vệ sinh và quản lý chất thải rắn, bên cạnh các bệnh truyền nhiễm ở đô thị như sốt xuất huyết, lao phổi. Rất ít hộ cận nghèo mua BHYT dù được hỗ trợ 50% (Oxfarm và Action Aid, 2011). Nghiên cứu nghèo đô thị ở HN và TP HCM cho thấy khi bị ốm đau nhóm hộ nghèo đi khám chữa bệnh với tỉ lệ thấp hơn so với nhóm giàu (16,2% so với 24,9%). Người nghèo chủ yếu tự mua thuốc điều trị (41,5% ở nhóm nghèo so với 30,1% ở nhóm giàu). Phần lớn người nghèo (63,4%) đi khám chữa bệnh tại các bệnh viện tuyến quận/huyện hoặc cơ sở y tế xã/phường (tỉ lệ này ở nhóm giàu là 30,5%). Trong khi chỉ có 15% người nghèo đi khám chữa bệnh ở bệnh viện tuyến trung ương hoặc bệnh viện tư thì tỉ lệ này ở nhóm giàu là 40,3% (Cục Thống kê TP Hà Nội và Cục Thống kê TP HCM, 2010). Thu nhập và chi tiêu của người nghèo rất đa dạng. Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp chiếm 46%, 4% thu nhập từ sản xuất phi nông nghiệp, 14% thu nhập từ tiền công/lương trong nông nghiệp, 20% tiền lương từ phi nông nghiệp, 8% từ tiền hỗ trợ/kiều hối, 6% từ trợ cấp nhà nước và 3% thu nhập từ các nguồn khác. Tỉ lệ tự tiêu dùng trong hộ (tiêu dùng tự cung tự cấp của hộ gia đình, ví dụ trồng lúa) đạt cao trong cơ cấu tiêu dùng của các hộ nghèo. Cụ thể, tự tiêu dùng chiếm bình quân 35% tiêu dùng của người nghèo (Ngân hàng thế giới, 2016). Tại đô thị, tình trạng nghèo có thể được đo lường qua nhiều chỉ báo khác nhau, trong đó có chỉ báo về thu nhập và chi tiêu, việc làm bấp bênh, tình trạng bệnh tật, dễ bị tổn thương bởi sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội và sự biến đổi của môi trường. Nhóm nghèo nhập cư ngoài những đặc trưng chung của người nghèo đô thị còn gặp nhiều hạn chế trong hòa nhập cộng đồng, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (Oxfarm và Action Aid, 2011). Vì vậy, nghèo đô thị vẫn là một vấn đề cần được nghiên cứu và tìm ra giải pháp phù hợp với từng nhóm trong cộng đồng người nghèo đô thị. Từ những giai đoạn trước khi áp dụng đo lường nghèo đa chiều, trong những tiếp cận đơn chiều để đánh giá nghèo, vẫn có rất nhiều chỉ tiêu xã hội được tìm hiểu, đánh giá, qua đó đánh giá chất lượng sống của người nghèo. Theo báo cáo Mưa dầm ngấm lâu (2011) của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, việc thu thập các dữ liệu đáng tin cậy về tình trạng nghèo được bắt đầu vào năm 1992, khi ước tính khoảng 58% dân số Việt nam sống trong nghèo. Tới năm 2008, tỷ lệ nghèo đã giảm xuống dưới 14,5%, tốc độ có một không 2 trong lịch sử hiện đại. Theo Oxfam, kỷ lục của Việt nam là mỗi ngày đưa được 6.000 người ra khỏi diện nghèo liên tục trong 16 năm Đa số trẻ em hoàn thành cấp 1 và phần lớn tiếp tục vào học cấp 2. Số người còn trong cảnh đói nghèo trầm trọng chỉ còn lại rất ít, chỉ ở các vùng xa và chỉ phải chịu trong một khoảng thời gian ngắn do ảnh hưởng thời tiết bất thường như hạn hán đến mùa màng (Ngân hàng thế giới, 2011). Cho đến nay ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận án, luận văn tốt nghiệp đề cập đến vấn đề giảm nghèo. Luận văn thạc sĩ Chính sách công “Chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Thành Nhân (2015); Luận văn thạc sĩ: “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng” của Mai Tấn Tuân, Học viện Khoa học xã hội năm 2015; Luận văn thạc sĩ “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với đồng bào thiểu số từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của Trịnh Xuân Tưởng, Học viện Khoa học xã hội năm 2016”; Luận văn thạc sĩ “Giải pháp xóa đói giảm nghèo tại huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị” của Hoàng Thị Hoài An năm 2011; Luận văn thạc sĩ “Giải pháp giảm nghèo trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” của Nguyễn Nữ Đoàn Vi năm 2012. Nhìn chung, các tác giả đã làm rõ các vấn đề sau: Đánh giá được thực trạng công tác giảm nghèo và giảm nghèo bền vững nước ta cũng như một số địa phương trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tốc độ giảm nghèo có xu thế chững lại, thụt lùi, dẫn đến tình trạng tái nghèo chiếm tỷ lệ cao. Các tác giả đã làm rõ được nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo và việc giảm nghèo chậm, ở cả nước nói chung và các địa phương nói riêng. Phân tích các nguyên nhân chủ yếu, trong đó nhấn mạnh nguyên nhân chủ quan đó là: Trình độ học vấn thấp của người nghèo còn thấp, có tính ỷ lại, trông chờ vào trợ cấp của nhà nước cũng như cộng đồng, chưa có ý thức tự vươn lên. Bên cạnh việc tìm hiểu, phân tích sự ảnh hưởng của nghèo đói đến tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, vấn đề môi trường, các nghiên cứu đã đưa ra giải pháp nhằm giảm nghèo và giảm nghèo bền vững ở nước ta, nhất là vùng miền núi. Nhiều giải pháp có tính khả thi và phù hợp trong thực tiễn. Tuy nhiên, việc tìm hiểu thực trạng nghèo và sự tham gia của người nghèo trong thực hiện chính sách giảm nghèo tại một quận, thuộc một trong hai thành phố lớn nhất Việt Nam (quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh), cho đến nay dường như vẫn chưa có nghiên cứu nào triển khai thực hiện. 3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Tìm hiểu thực trạng nghèo và sự tham gia của người nghèo trong thực hiện chính sách giảm nghèo, từ đó đưa ra một số phương hướng và giải pháp góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn 2030. Mục tiêu cụ thể Trên cơ sở mục tiêu tổng quát đã được xác định, luận văn sẽ triển khai thực hiện những mục tiêu cụ thể như sau:  Tổng quan nghiên cứu tài liệu, xác định một số nội dung cơ bản cho luận văn.  Nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề qua việc: xác định và thao tác hóa một số khái niệm then chốt, xác định lý thuyết nghiên cứu, tìm hiểu chính sách, tìm hiểu một số đặc điểm kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên cứu.  Tìm hiểu thực trạng nghèo tại một số phường trong quận Phú Nhuận, sự tham gia của người nghèo đối với các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, sơ bộ xác định những yếu tố tác động.  Đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần thực hiện mục tiêu Giảm nghèo bền vững đoạn 2016-2020, tầm nhìn 2030. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng Luận văn tìm hiểu sự tham gia của người nghèo trong thực hiện chính sách giảm nghèo ở quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh 4.2. Khách thể nghiên cứu Khách thể nghiên cứu của đề tài được xác định gồm: người nghèo, hộ nghèo, cán bộ làm công tác giảm nghèo. 4.3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: Nghiên cứu được thực hiện tại 5/15 phường thuộc quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Phạm vi thời gian: Đề tài tìm hiểu vấn đề nghèo và chính sách giảm nghèo bền vững trong một số năm trở lại đây, thời gian khảo sát được thực hiện năm 2018. Phạm vi nội dung: Trong khuôn khổ có hạn, luận văn không nhằm đánh giá tổng thể về điều kiện kinh tế - xã hội, rà soát đánh giá điểm mạnh yếu, thành công hay chưa thành công của những chính sách đã được triển khai liên quan tới công tác giảm nghèo. Luận văn chỉ tìm hiểu một số khía cạnh chính của vấn đề nghèo, thực trạng nghèo và sự tham gia của người nghèo đối với các chính sách giảm nghèo được triển khai tại địa phương, trong bối cảnh Chính phủ đang nỗ lực cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân bằng nhiều biện pháp, hướng tới giảm nghèo bền vững. 5. Mẫu nghiên cứu Nghiên cứu được triển khai tại quận Phú Nhuận, một quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh. Quận Phú Nhuận có 15 phường. Do hạn chế về điều kiện vật chất, khả năng tiếp cận và thời gian nên tác giả lựa chọn 5/15 phường để khảo sát gồm : 1 phường khá nhất (phường 2); 1 phường có điều kiện kinh tế trung bình (phường 8) và 3 phường nghèo nhất (phường 7, phường 15, phường 17). Tác giả đã rà soát và phỏng vấn hầu hết hộ nghèo tại các phường, trong đó thực hiện tại : Phường 2: 30 bảng hỏi và 4 phỏng vấn sâu Phường 7: 30 bảng hỏi và 4 phỏng vấn sâu Phường 8: 30 bảng hỏi và 4 phỏng vấn sâu Phường 15: 30 bảng hỏi và 4 phỏng vấn sâu Phường 17: 30 bảng hỏi và 4 phỏng vấn sâu 5. Phương pháp nghiên cứu và thu thập thông tin 5.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu Phân tích, tìm hiểu tài liệu có sẵn, nghiên cứu những tài liệu thu thập được từ các báo cáo tổng kết, các nghiên cứu đã có, các tài liệu khác liên quan đến đề tài thông qua việc tổng hợp, thống kê, so sánh. Phân tích tài liệu có sẵn bao gồm bài báo khoa học, sách, luận văn, luận án, các văn bản, bài viết, trang web có liên quan tới vấn đề nghiên cứu. Bên cạnh đó, tham khảo những nghiên cứu đi trước, có thể sử dụng những thông tin nghiên cứu trước đó để làm sáng tỏ cho đề tài. Thông tin thu được không chỉ cung cấp một bức tranh chung về chủ đề nghiên cứu mà còn giúp người nghiên cứu tìm ra những khía cạnh mới cần khai thác sâu hơn trong đề tài. Qua đó bổ sung những thiếu sót trong quá trình phân tích định lượng thu được từ điều tra bằng bảng hỏi. Sử dụng phương pháp này nhằm phân tích các tài liệu sẵn có, làm căn cứ, bổ sung, minh họa, so sánh với các kết quả phân tích của luận văn. Ưu điểm của phương pháp này là ít tốn kém, song nhược điểm của nó lại chính là nguồn dữ liệu thuộc các cuộc điều tra, nghiên cứu khác phục vụ cho các mục đích nghiên cứu khác, nên khó có các thông tin đầy đủ, thích hợp để đưa ra những bằng chứng cần thiết cho nghiên cứu của luận văn. Phân tích tài liệu sẵn có là một công việc nghiêm túc, hữu ích và phương pháp này cũng được sử dụng để rà soát, tìm hiểu các văn bản pháp luật phục vụ cho phần nghiên cứu chính sách. 5.2. Phương pháp thu thập thông tin qua điều tra bảng hỏi Thực hiện nghiên cứu này, tác giả đã xây dựng bảng hỏi dành cho người dân, trực tiếp phỏng vấn 150 trường hợp là dân nghèo trên địa bàn quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi dùng để thu thập thông tin từ người trả lời trên cơ sở một bảng câu hỏi đã được thiết kế sẵn với nhưng phương án trả lời đã được xác định trước hoặc những phương án mở để điền thông tin của câu trả lời do người trả lời cung cấp. Mỗi hộ nghèo sẽ có một người tham gia trả lời phỏng vấn, người đó là chủ hộ hoặc thành viên có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định hoặc đóng góp kinh tế gia đình. Thông tin thu được qua phương pháp này sẽ được tổng hợp và xử lý phục vụ cho việc phân tích vấn đề và viết báo cáo. 5.3. Phương pháp thu thập thông tin qua phỏng vấn sâu Phỏng vấn sâu 20 trường hợp để tìm hiểu thực trạng vấn đề, những suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng của người trả lời nhằm bổ sung, giải thích thêm cho số lượng nghiên cứu định lượng hoặc thông tin mà định lượng không khảo sát hết. Các câu hỏi được thiết kế là các câu hỏi mở để thông tin thu thập được hiệu quả và chiều sâu. Các cuộc phỏng vấn được thực hiện dựa theo gợi ý câu hỏi soạn sẵn. Tuy nhiên, các câu hỏi có thể điều chỉnh một cách linh hoạt để khơi gợi ý kiến của người trả lời hoặc khai thác sâu các thông tin hữu ích trong quá trình phỏng vấn định tính. 5.4. Phương pháp quan sát Luận văn sử dụng phương pháp quan sát để nắm rõ điều kiện sống, môi trường sống, điều kiện sinh hoạt, bữa ăn, tài sản của người nghèo, từ đó ghi chép đầy đủ nội dung liên quan đến đối tượng, phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu 6. Câu hỏi nghiên cứu  Nêu đặc điểm tình hình hộ nghèo của quận Phú Nhuận vào thời điểm tiến hành khảo sát?  Quận Phú Nhuận đã triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ người nghèo theo những nội dung nào?  Người nghèo đã tham gia ở mức độ nào vào các chính sách giảm nghèo được triển khai trên địa bàn quận Phú Nhuận? 7. Giả thuyết nghiên cứu  Vào thời điểm nghiên cứu, cụ thể là năm 2018 trên toàn quận Phú Nhuận vẫn còn khoảng 3% hộ nghèo, được đo lường trên cơ sở thang đo nghèo đa chiều với những thiếu hụt theo 5 chiều cơ bản.  Quận Phú Nhuận đã triển khai những chính sách hỗ trợ người nghèo theo các nội dung cơ bản của Chương trình mục tiêu quốc gia định hướng giảm nghèo bền vững tới năm 2020.  Người nghèo có tham gia vào các chính sách giảm nghèo, song nhìn chung vẫn thiếu sự chủ động và tích cực. 8. Khung phân tích Hệ thống các biến số được sử dụng cho nghiên cứu Biến độc lập: Biến trung gian: Biến phụ thuộc:  Tuổi  Đô thị, nông thôn  Tiếp cận các dịch vụ y tế  Giới tính  Khu vực làm việc  Bảo hiểm y tế  Trình độ học  Tình vấn việc trạng công  Tiếp cận giáo dục  Tình trạng nhà ở  Nghề nghiệp,  Điều kiện làm việc  Điều kiện vệ sinh môi trường việc làm  Số thành viên trong  Diện tích ở  Thu nhập gia đình  Nguồn nước ăn chính  Xã phường  Những hỗ trợ đối  Nguồn nước sinh hoạt với người nghèo  …  Sử dụng điện thoại di động  …  Sử dụng internet  Tiếp cận thông tin  … 9. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn đã có đóng góp về mặt lý luận thông qua việc xác định một số khái niệm công cụ phục vụ cho nghiên cứu này như: khái niệm nghèo, người nghèo, giảm nghèo, giảm nghèo bền vững, chính sách giảm nghèo bền vững, sự tham gia. Luận văn cũng xác định cách tiếp cận và tìm hiểu lý thuyết nghiên cứu, qua đó áp dụng trong triển khai nghiên cứu thực tiễn. Nội dung luận văn chứa đựng nhiều thông tin hữu ích trong lĩnh vực nghiên cứu xã hội học, góp phần giới thiệu, củng cố, hoàn thiện quan điểm lý luận chung liên quan tới chuyên ngành nghiên cứu. Thông qua đề tài, tác giả cũng mong muốn đóng góp vào hệ thống tri thức luận chung trong việc nghiên cứu, giúp người đọc hiểu thêm về các chính sách giảm nghèo và tầm quan trọng của các chính sách này đối với người nghèo. Luận văn cũng đã khái quát được thực trạng nghèo và việc thực thi chính sách giảm nghèo trên địa bàn quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Tìm hiểu thực tiễn sự tham gia của người nghèo đối với các chính sách của quận. Từ thực tiễn đó, luận văn đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực thi chính sách giảm nghèo, góp phần làm cho công tác giảm nghèo mang nhiều ý nghĩa thực tiễn hơn. Ngoài ra, kết quả thực tiễn có được từ nghiên cứu này cũng góp phần cung cấp thông tin cho cán bộ, chính quyền địa phương, qua đó nâng cao tính hiệu quả từ quá trình lập kế hoạch và thực thi các chương trình, huy động người dân cùng tham gia. 10. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương. Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác giảm nghèo bền vững: Trong chương này, tác giả tập trung tìm hiểu một số khái niệm cơ bản liên quan tới tên đề tài, mục tiêu và nội dung nghiên cứu như: khái niệm nghèo, người nghèo, giảm nghèo, giảm nghèo bền vững, chính sách giảm nghèo bền vững, sự tham gia, sự tham gia của cộng đồng, sự tham gia của cộng đồng trong giảm nghèo bền vững và một số khái niệm khác. Tác giả cũng xác định cách tiếp cận và lý thuyết nghiên cứu, một cơ sở quan trọng cho việc triển khai và định hướng nghiên cứu, bên cạnh đó là việc rà soát, tìm hiểu chính sách giảm nghèo bền vững. Chương 2. Thực trạng nghèo của người dân trên địa bàn quận Phú Nhuận: Trong chương này, tác giả có giới thiệu về địa bàn nghiên cứu là Quận Phú Nhuận, một quận nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh; xác định hộ nghèo trên địa bàn quận; tìm hiểu đặc điểm của người nghèo trong mẫu khảo sát, điều kiện sống của người nghèo và lý do nghèo. Chương 3. Sự tham gia của người nghèo vào các chính sách giảm nghèo bền vững và một số yếu tố tác động: Trong chương này, tác giả sẽ trình bày thực trạng triển khai chương trình giảm nghèo bền vững tại đại phương qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu thực tiễn; mô tả, phân tích thực trạng tham gia của người nghèo vào các chính sách kể trên và những thay đổi trong cuộc sống hiện tại của họ; sơ bộ xác định những yếu tố tác động tới sự tham gia của người nghèo, trên cơ sở đó đưa ra một số phương hướng và giải pháp cho vấn đề Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG 1.1. Một số khái niệm chủ chốt Khái niệm nghèo, người nghèo Năm 1993, Hội nghị bàn về vấn đề giảm nghèo do Ủy ban kinh tế xã hội khu vực Châu Á–Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Thailand đã đưa ra khái niệm: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, phong tục tập quán của địa phương” (Ngô Trường Thi, 2014). Năm 1995, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Phát triển xã hội tổ chức tại Đan Mạch đã đưa ra khái niệm: “Người nghèo là tất cả những người thu nhập dưới 1 đô la Mỹ (USD) mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ mua những sản phẩm thiết yếu để tồn tại”. Báo cáo Tấn công nghèo của Ngân hàng thế giới“nghèo không chỉ là mức thu nhập và tiêu dùng thấp mà còn bao gồm mức độ hưởng thụ thấp về giáo dục, y tế, dinh dưỡng và các lĩnh vực khác của sự phát triển con người”. Theo Amartya Kumar Sen, chuyên gia của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), nhà Kinh tế học Ấn Độ: “Để tồn tại, con người cần có những nhu cầu vật chất và tinh thần tối thiểu; dưới mức tối thiểu này, con người sẽ bị coi là đang sống trong nghèo nàn. Nghèo là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển cộng đồng”. Tháng 6/2008, tuyên bố của Liên hợp quốc “Nghèo là thiếu năng lực tối thiểu để tham gia hiệu quả vào các hoạt động xã hội. Nghèo có nghĩa là không có đủ ăn, đủ mặc, không được đi học, không được khám chữa bệnh, không có đất đai để trồng trọt hoặc không có nghề nghiệp để nuôi sống bản thân, không được tiếp cận tín dụng. Nghèo cũng có nghĩa là không an toàn, không có quyền, và bị loại trừ, dễ bị bạo hành, phải sống trong các điều kiện rủi ro, không tiếp cận được nước sạch và công trình vệ sinh” (Dẫn theo Đặng Nguyên Anh, 2015). Khái niệm giảm nghèo Giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta là nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân cư, sự chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị [7]. Là một trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là ở khu vực miền núi, vùung đồng bào dân tộc thiểu số, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư, tạo điều kiện cho hộ nghèo bằng các chính sách cụ thê để họ có thu nhập và cuộc sống ổn định, lâu dài thoát nghèo và không tái nghèo. Chính sách giảm nghèo Là tất cả các giải pháp chính sách của Nhà nước và xã hội hay của chính đối tượng thuộc diện nghèo đói, nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Từ đó ta có thể hiểu khái niệm về chính sách giảm nghèo bền vững và thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững như sau: Chính sách giảm nghèo bền vững là tập hợp các quyết định có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp, công cụ chính sách để giảm nghèo bền vững, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách, chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững: là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của Nhà nước về chính sách giảm nghèo bền vững thành hiện thực đến với các đối tượng quản lý là các hộ nghèo nhằm đạt mục tiêu giảm nghèo bền vững, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách, chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư. Sự tham gia của cộng đồng Oakley (1989) cho rằng tham gia là một quá trình tạo ra khả năng nhạy cảm của quần chúng và nâng cao năng lực tiếp thu các cái mới và khích lệ các sáng kiến mới ở địa phương. Quá trình này hướng tới những nỗ lực có tổ chức nhằm tăng cường kiểm soát các nguồn lực và các tổ chức điều hành trong những hoàn cảnh xã hội nhất định. Sự tham gia có nghĩa là cùng thực hiện một hoạt động nào đó. Hàng ngày con người “tham gia” vào sự phát triển của địa phương thông qua hoạt động sống của cá nhân và gia đình, các hoạt động sinh kế và trách nhiệm đối với cộng đồng (Trương Văn Tuyển, 2007, Phát triển cộng đồng. Giáo trình của Trường Đại học Nông Lâm Huế, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2005). Không có một ví dụ đơn lẻ đúng đắn nào về sự tham gia. Tuy nhiên, việc kiểm soát hoạt động và mức độ sự tham gia luôn là sự gắn kết một cách lâu dài, chủ động và có vai trò ngày càng cao vào quá trình phát triển. Như vậy, sự tham gia là một quá trình cho phép người dân tự tổ chức để xác định nhu cầu và cùng nhau thiết kế, tổ chức thực hiện, đánh giá hoạt động, và cùng nhau hưởng lợi từ các hoạt động đó. Các hoạt động được triển khai từ các nguồn lực mà người dân tiếp cận được thông qua sự hỗ trợ của Chính phủ hoặc các cơ quan khác nhau. Không có năng lực và sức mạnh thực sự, người dân không thể ra các quyết định có ý nghĩa thiết thực với đời sống của cộng đồng. Ý nghĩa thực tiễn của sự tham gia không chỉ ẩn chứa ở mức độ ra quyết định của người dân mà còn ở việc thực hiện các quyết định đó. Vì vậy, trao quyền hay tạo quyền lực là yếu tố quan trọng đối với sự tham gia. Sự tham gia của người dân nói chung: là một quá trình cho phép người dân được tổ chức để xác định nhu cầu và cùng nhau thiết kế, tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động, cùng nhau hưởng lợi từ các hoạt động đó mang lại và cùng quản lý. Người dân cùng với chính quyền các cấp phát triển và xây dựng các chương trình hoạt động, lựa chọn ưu tiên, khởi xướng và thực hiện các dự án, chương trình hoạt động bằng cách đóng góp ý kiến, mối quan tâm, vật liệu và tiền bạc, lao động và thời gian (Setty, 1991). Ðịnh nghĩa thuật ngữ “Sự tham gia của cộng đồng” theo Clanrence Shubert là quá trình trong đó các nhóm dân cư của cộng đồng tác động vào quá trình quy hoạch, thực hiện, quản lý sử dụng hoặc duy trì một dịch vụ, trang thiết bị hay phạm vi hoạt động. Các hoạt động cá nhân không có tổ chức sẽ không được coi là sự tham gia của cộng đồng. Sự tham gia của cộng đồng là một quá trình mà Chính phủ và cộng đồng cùng nhận một số trách nhiệm cụ thể và tiến hành các hoạt động để cung cấp các dịch vụ đô thị cho tất cả cộng đồng. Sự tham gia của cộng đồng là đảm bảo cho những người chịu ảnh hưởng của dự án được tham gia vào việc quyết định dự án.Sự tham gia của cộng đồng là tìm và huy động các nguồn lực của cộng đồng, qua đó để tăng lợi ích cho cộng đồng dân cư giảm các chi phí, tăng hiệu quả kinh tế và hiệu quả chính trị cho nhà nước. Chúng ta có thể hiểu: Sự tham gia của cộng đồng là hình thức tham vấn của người dân đối với quyết định về hoạt động phát triển sẽ được thực thi; hay người dân đóng góp ý kiến, quan điểm, nguồn lực cho sự ra đời các quyết định, cho việc triển khai hoạt động và cho quá trình sử dụng thành quả của hoạt động phát triển.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan