Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tác động của quá trình đô thị hóa đến kinh tế hộ nông dân phường thủy dương, thị...

Tài liệu Tác động của quá trình đô thị hóa đến kinh tế hộ nông dân phường thủy dương, thị xã hương thủy, tỉnh thừa thiên huế

.PDF
72
428
123

Mô tả:

Khóa luận tốt nghiệp PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết của đề tài Đô thị hóa là quá trình tất yếu diễn ra không chỉ đối với nước ta mà còn đối với tất cả các nước trên thế giới, nhất là các nước ở châu Á. Khi nền kinh tế càng phát triển thì quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ càng nhanh. Đất nước ta đang phát triển trên đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa và đô thị hóa là hai quá trình phát triển song song ở nước ta hiện nay. Đô thị hóa là hệ quả của sức mạnh công nghiệp và trở thành mục tiêu của mọi nền văn minh trên thế giới, nó góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội của khu vực, nâng cao đời sống nhân dân. Một trong những chủ trương quan trọng trong phát triển công nghiệp của Đảng ta là ra sức phát triển đô thị cùng với công nghiệp hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn; quan tâm đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng, giải quyết việc làm, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để các đô thị làm hạt nhân thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong vùng và trên cả nước. Quá trình đô thị hóa ở nước ta đã bước đầu đem lại những thành quả, chẳng những làm cho bộ mặt và cuộc sống đô thị thay đổi khá hơn trước mà còn tác động tích cực đến sự đổi mới bộ mặt và cuộc sống nông thôn. Sự phát triển đô thị và sự biến đổi của nông thôn trong quá trình đô thị hóa là hệ quả của sự tác động có tính chất nhân – quả. Những thành quả của đô thị hóa tác động đến nông thôn, làm cho cuộc sống của nông dân trở nên khá giả hơn, nông nghiệp phát triển hơn. Ngược lại sự phát triển của nông thôn và nông nghiệp lại tạo điều kiện, tiền đề cho phát triển công nghiệp và đô thị. Sự kết hợp hài hòa giữa đô thị hóa và phát triển nông nghiệp, nông thôn là lý thuyết mà hiện nay được nhiều nước đang phát triển áp dụng với những phương thức sáng tạo phù hợp với đặc điểm của mỗi nước. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, quá trình đô thị hóa cũng phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết, những vấn đề sử dụng đất đai, lao động và việc làm của người nông dân, cách thức đền bù khi giải phóng mặt bằng, cách thức di dân, dãn dân... Như vậy, đứng trước tác động của đô thị hóa, chúng ta phải làm gì để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và chủ động phát huy tính tích cực của quá trình đô thị hóa, đảm bảo cho kinh tế nông thôn mà trong đó trọng tâm là kinh tế nông hộ phát triển hiệu quả và bền vững. Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 1 Khóa luận tốt nghiệp Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của đất nước, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế đã và đang hình thành các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, bước đầu tạo tiền đề cho sự công nghiệp hóa hiện đại hóa trong vùng. Điển hình trong quá trình thay đổi do đô thị hóa, công nghiệp hóa của thị xã Hương Thủy là phường Thủy Dương, đây là điểm dừng chân của nhiều công ty, xí nghiệp. Là nơi có nhiều thay đổi về mục đích sử dụng đất đai. Trong bối cảnh đó, kinh tế hộ nông dân đã thay đổi như thế nào? Người dân thay đổi hướng sử dụng đất đai của họ như thế nào? Lao động nông nghiệp sẽ gặp phải những khó khăn thách thức gì khi bị thu hồi đất nông nghiệp? Quá trình tái định cư ảnh hưởng như thế nào tới đời sống của người dân địa phương?... Để góp phần trả lời cho những câu hỏi trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Tác động của quá trình đô thị hóa đến kinh tế hộ nông dân phường Thủy Dương, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế” 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu chung Nghiên cứu ảnh hưởng của đô thị hóa đến kinh tế hộ nông dân thuộc phường Thủy Dương, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế để tìm ra hướng phát triển bền vững cho người dân trên địa bàn, cũng như tìm ra hướng đi cho nền kinh tế trong quá trình đô thị hóa đất nước. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về xu hướng đô thị hóa và ảnh hưởng của nó tới kinh tế hộ nông dân. - Đánh giá quá trình đô thị hóa ở phường Thủy Dương, Hương Thủy, Thừa Thiên Huế trong giai đoạn 2005 – 2010 - Phân tích ảnh hưởng của đô thị hóa đến kinh tế hộ nông dân phường Thủy Dương, Hương Thủy, Thừa Thiên Huế trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân một cách ổn định, bền vững trong điều kiện ĐTH đang phát triển như hiện nay. - Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần cải thiện đời sống kinh tế của các hộ nông dân ở phường Thủy Dương, Hương Thủy, Thừa Thiên Huế. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng kinh tế của hộ nông dân của phường Thủy Dương trước và sau quá trình ĐTH. Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 2 Khóa luận tốt nghiệp 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa đến kinh tế hộ nông dân thuộc phường Thủy Dương, Hương Thủy, Thừa Thiên Huế. - Phạm vi không gian: Phường Thủy Dương, Hương Thủy. - Phạm vi thời gian: số liệu thứ cấp thu được trong giai đoạn 2001 đến 2011 Số liệu sơ cấp thu được giai đoạn trước và sau khi xảy ra quá trình đô thị hóa, để so sánh sự thay đổi về thu nhập và việc làm ảnh hưởng đến kinh tế hộ nông dân phường Thủy Dương. 3.3. Kết cấu của đề tài: Ngoài phần 1 là đặt vấn đề, đề tài của tôi gồm có: - Phần 2: Nội dung nghiên cứu bao gồm có 3 chương + Chương 1: Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu + Chương 2: Thực trạng ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá đến kinh tế hộ nông dân phường Thủy Dương, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. + Chương 3: Một số giải pháp góp phần hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình đô thị hoá đến việc làm và thu nhập của người lao động phường Thủy Dương - Phần 3: Kết luận và kiến nghị Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 3 Khóa luận tốt nghiệp PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Những vấn đề lý luận về đô thị hóa 1.1.1. Đô thị hóa và vai trò của đô thị trong quá trình phát triển 1.1.1.1. Đô thị - Khái niệm về đô thị: - Theo quan điểm quản lý, đô thị là một khu dân cư tập trung có đủ 2 điều kiện: + Về phân cấp quản lý, đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập. + Về trình độ phát triển, đô thị phải đạt những điều kiện sau: - Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như vùng liên tỉnh, vùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc trực vùng trong tỉnh, trong thành phố trực thuộc Trung ương. Vùng thị xã hoặc tiểu vùng trong thị xã. - Đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị trấn tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; kết cấu hạ tầng phục vụ các hoạt động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn quy chuẩn thiết kế quy hoạch xây dựng quy định cho từng loại đô thị, quy mô dân số ít nhất là 4000 người và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/ km2. - Như vậy, đô thị là điểm dân cư tập trung với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp, là trung tâm chuyên ngành hay tổng hợp, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, của một tỉnh, một thị xã hay một vùng trong thị xã, trong tỉnh. - Khái niệm đô thị dưới khía cạnh xã hội học: Dưới khía cạnh xã hội học, đô thị và nông thôn là hai khái niệm về mặt nội dung có hàng loạt đặc điểm có tính đối lập nhau. Các nhà xã hội học đã đưa ra rất nhiều cơ sở khác nhau để phân biệt đô thị và nông thôn. Sự phân chia đó có thể dựa trên cơ sở Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 4 Khóa luận tốt nghiệp các lĩnh vực hoạt động sống của xã hội như lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, giao thông, vận tải, dịch vụ,... hoặc dựa trên các thiết chế chủ yếu của xã hội như thiết chế kinh tế, văn hóa, giáo dục, chính trị, gia đình,... hoặc theo các nhóm, các giai cấp, tầng lớp xã hội, hay theo bình diện lãnh thổ. Cũng có một số nhà lý luận xã hội học lại cho rằng, để phân biệt giữa đô thị và nông thôn theo sự khác biệt giữa chúng về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Như về mặt kinh tế, giữa đô thị và nông thôn có sự khác biệt về lao động, nghề nghiệp, mức độ và cách thu nhập về dịch vụ, v.v... Về mặt xã hội, đó là sự khác biệt trong lối sống, giao tiếp, văn hóa, gia đình, mật độ dân số, nhà ở, v.v... Về mặt môi trường, chủ yếu ở đây là môi trường tự nhiên, mức độ ô nhiễm, v.v... Nhấn mạnh từ góc độ xã hội, cả đô thị và nông thôn đều được coi là những hệ thống xã hội, những cộng đồng xã hội có những đặc trưng riêng biệt như những xã hội nhỏ và trong đó có đầy đủ các yếu tố, các vấn đề xã hội và các thiết chế xã hội. Vì vậy, trước hết đô thị và nông thôn cần được xem xét như một cơ cấu xã hội, trong đó có hàng loạt các yếu tố, các lĩnh vực nằm trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tại Việt Nam, trước đây việc phân loại đô thị thực hiện theo Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ. Từ ngày 2 tháng 7 năm 2009, việc phân loại đô thị thực hiện theo Nghị định số 42/2009/NĐ-CP ngày 07 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ. Tại Việt Nam hiện có 6 loại hình đô thị: loại đặc biệt và từ loại I đến loại V. Nghị định số 42/2009/NĐ-CP sử dụng số La Mã để phân loại đô thị, nhưng nhiều tài liệu vẫn dùng số Ả Rập: loại 1 đến loại 5. Theo Nghị định số 42/2009/NĐ-CP, một đơn vị hành chính để được phân loại là đô thị thì phải có các tiêu chuẩn cơ bản như sau: 1. Có chức năng đô thị: là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, cấp quốc gia, cấp vùng liên tỉnh, cấp tỉnh, cấp thị xã hoặc là một trung tâm của vùng trong tỉnh; có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định. 2. Quy mô dân số toàn đô thị đạt 4 nghìn người trở lên. Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 5 Khóa luận tốt nghiệp 3. Mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của từng loại đô thị và được tính trong phạm vi nội thành, nội thị, riêng đối với thị trấn thì căn cứ theo các khu phố xây dựng tập trung. 4. Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp (tính trong phạm vi ranh giới nội thành, nội thị, khu vực xây dựng tập trung) phải đạt tối thiểu 65% so với tổng số lao động. 5. Đạt được các yêu cầu về hệ thống công trình hạ tầng đô thị (gồm hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật). 6. Đạt được các yêu cầu về kiến trúc, cảnh quan đô thị. Đối với các đô thị ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thì các tiêu chí đánh giá được nới lỏng hơn: quy mô dân số và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 50% tiêu chuẩn quy định, các tiêu chuẩn khác phải bảo đảm tối thiểu 70% mức tiêu chuẩn quy định so với các loại đô thị tương đương. Đối với một số đô thị có tính chất đặc thù, tiêu chuẩn về quy mô dân số và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 60% tiêu chuẩn quy định, các tiêu chuẩn khác phải đạt quy định so với các loại đô thị tương đương và bảo đảm phù hợp với tính chất đặc thù của mỗi đô thị. 1.1.1.2. Tiêu chuần phân loại và phân cấp quản lý đô thị ở Việt Nam Sự hình thành và phát triển đô thị ở mỗi vùng lãnh thổ đều có những đặc điểm riêng biệt do sự khác nhau về các yếu tố tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế, xã hội nên việc xây dựng các tiêu chuẩn để phân loại đô thị cũng khác nhau. Ở nước ta do lịch sử của quá trình phát triển đô thị hoá đặc biệt là trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thi trường đã và đang hình thành các đặc điểm dân cư tập trung, dần dần mang những yếu tố cấu thành đô thị như: quy mô dân số tăng lên, mật độ tập trung dân số cao, tỷ lệ lao động chuyển đổi từ nông nghiệp sang các lỉnh vực phi nông nghiệp ngày càng cao và bước đầu hình thành nên cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội khá đồng bộ. Vì vậy, cần thiết phải có các tiêu chuẩn để công nhận trở thành đô thị và phân loại để quản lý. Theo nghị định số 42/2009/NĐ-CP của Chính Phủ được ban ngày 7/5/2009 thì điểm dân cư được công nhận là một đô thị phải có đủ các tiêu chuẩn sau đây Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 6 Khóa luận tốt nghiệp Bảng 1: Bảng tóm tắt về phân loại đô thị ở Việt Nam Loại Chức năng Dân số đô thị trung tâm (1000 người) ĐB Tỷ lệ LĐ phi nông nghiệp (%) Mật độ dân số (người/km²) Quốc gia ≥5000 ≥90 ≥15.000 I Quốc gia/Liên tỉnh ≥500 ≥85 ≥10.000 II Tỉnh/Quốc gia ≥300 ≥80 ≥8.000 III Tỉnh/Liên tỉnh ≥150 ≥75 ≥6.000 IV Tỉnh/Liên thị xã ≥50 ≥70 ≥4.000 V Thị xã/Liên xã ≥4 ≥65 ≥2.000 (Nguồn: Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính Nhà nước). Các chỉ tiêu cụ thể như sau: - Quy mô dân số tối thiểu phải đạt 4.000 người. - Mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2.000 người/km². - Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động trong nội thị. - Cơ sở hạ tầng kỹ thuật kinh tế và xã hội mức tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn quy định cho từng loại đô thị. Căn cứ vào các tiêu chuẩn trên cũng như đặc điểm riêng của từng loại đô thị về quy mô, vai trò, tính chất, vị trí, chức năng đối với cả nước hay từng vùng, từng địa phương mà phân thành 6 cấp để quản lý (bảng 1). * Để xác định đô thị và nông thôn dễ dàng được chấp nhận, là việc coi đô thị và nông thôn như các hệ hệ thống xã hội được phân biệt theo ba đặc trưng cơ bản sau: 1. Về các nhóm giai cấp, tầng lớp xã hội thì ở đô thị đặc trưng chủ yếu là giai cấp công nhân, ngoài ra còn có các tầng lớp giai cấp khác như tư sản, thợ thủ công, viên chức, trí thức, v.v... Còn đối với nông thôn thì đặc trưng chủ yếu ở đây là nông dân, ngoài ra ở từng xã hội còn có các giai cấp, tầng lớp như địa chủ, phú nông, nhóm thợ thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ, v.v... Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 7 Khóa luận tốt nghiệp 2. Về lĩnh vực sản xuất chủ yếu ở đô thị có đặc trưng là sản xuất công nghiệp; ngoài ra, còn có các lĩnh vực khác như dịch vụ, thương nghiệp, sản xuất tinh thần, v.v... Còn đối với nông thôn thì đặc trưng rõ nét nhất là sản xuất nông nghiệp; ngoài ra, còn phải kể đến cấu trúc phi nông nghiệp bao gồm: dịch vụ, buôn bán, tiểu thủ công nghiệp mà có vai trò rất lớn đối với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. 3. Về lối sống, văn hóa của từng loại cộng đồng, thì đối với nông thôn thường rất đặc trưng với lối sống văn hóa của cộng đồng làng xã mà được phân biệt rất rõ ràng với lối sống thị dân đặc trưng cho khu vực đô thị. Đặc trưng này có rất nhiều khía cạnh để chỉ ra sự khác biệt giữa đô thị và nông thôn: từ hệ thống dịch vụ, sự giao tiếp, đời sống tinh thần, phong tục, tập quán, hệ giá trị, chuẩn mực cho hành vi,... đến khía cạnh dân số, lối sống gia đình, sinh hoạt kinh tế,... ngay cả đến hệ thống đường xá, năng lượng, nhà ở đều nói lên đây là hai cộng đồng có các khía cạnh văn hóa, lối sống tách biệt nhau. Đây là đặc trưng cơ bản nhất về mặt xã hội học khi phân tích sự khác biệt giữa đô thị và nông thôn. Chính đặc trưng thứ ba đã tạo ra bản sắc riêng, diện mạo riêng cho hai hệ thống xã hội đô thị và nông thôn. 1.1.1.3. Đô thị hóa: Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực. Nó cũng có thể tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì nó còn được gọi là mức độ đô thị hóa; còn theo cách thứ hai, nó có tên là tốc độ đô thị hóa.Các nước phát triển (như tại châu Âu, Mĩ hay Úc) thường có mức độ đô thị hóa cao (trên 80%) hơn nhiều so với các nước đang phát triển (như Việt Nam hay Trung Quốc) (khoảng ~30%). Đô thị các nước phát triển phần lớn đã ổn định nên tốc độ đô thị hóa thấp hơn nhiều so với trường hợp các nước đang phát triển. Sự tăng trưởng của đô thị được tính trên cơ sở sự gia tăng của đô thị so với kích thước (về dân số và diện tích) ban đầu của đô thị. Do đó, sự tăng trưởng của đô thị khác tốc độ đô thị hóa (vốn là chỉ số chỉ sự gia tăng theo các giai đoạn thời gian xác định như 1 năm hay 5 năm). 1.1.1.4. Vai trò của đô thị hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội: Đô thị hóa có các tác động không nhỏ đến sinh thái và kinh tế khu vực. Đô thị học sinh thái cũng quan sát thấy dưới tác động đô thị hóa, tâm lí và lối sống của người Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 8 Khóa luận tốt nghiệp dân thay đổi. Sự gia tăng quá mức của không gian đô thị so với thông thường được gọi là "sự bành trướng đô thị" (urban sprawl), thông thường để chỉ những khu đô thị rộng lớn mật độ thấp phát triển xung quanh thậm chí vượt ngoài ranh giới đô thị. Những người chống đối xu thế đô thị hóa cho rằng nó làm gia tăng khoảng cách giao thông, tăng chi phí đầu tư hạ tầng kĩ thuật và có tác động xấu đến sự phân hóa xã hội do cư dân ngoại ô sẽ không quan tâm đến các khó khăn của khu vực trong đô thị.  Đô thị hóa có ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.  Đô thị hóa cũng tác động mạnh lên sự phát triển kinh tế xã hội của vùng và cả nước.  Đô thị là nơi tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động.  Các thành phố thị xã là nơi tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và đa dạng, là nơi sử dụng lực lượng lao động có chất lượng cao, cơ sở kĩ thuật hạ tầng cơ sở hiện đại có sức hút đầu tư mạnh trong nước và nước ngoài 1.1.1.5. Những thách thức của quá trình đô thị hoá hiện nay Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện nay, những tác động tiêu cực của quá trình đô thị hoá đang được phô bày ra hết sức phức tạp ở các đô thị. Đó là sự phát triển không hài hoà, sự phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội theo mức sống ngày càng tăng, vấn đề nhà ở, không gian quy hoạch, kiến trúc, giao thông đô thị, lối sống đô thị cũng như các vấn đề xã hội khác... đang là những thách thức hết sức gay gắt: - Về vấn đề phân tầng xã hội: phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo là một thực tế đang diễn ra ở các đô thị, nhất là ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Trong lĩnh vực sản xuất, phân tầng xã hội được thể hiện trong sự chênh lệch về thu nhập và thù lao. Trong lĩnh vực giáo dục là tình trạng thất học của một số không nhỏ học sinh, là con em của các gia đình nghèo. Trong lĩnh vực xã hội là các chi phí về khám chữa bệnh, nhà ở... mà không phải tầng lớp dân cư nào cũng đủ sức ghánh chịu. Qua nghiên cứu thống kê xã hội học, người ta thấy “tháp phân tầng xã hội” ở các đô thị được thể hiện khá điển hình: + Tỷ lệ các gia đình có mức sống trung bình thường chiếm trên dưới 50%. + Tỷ lệ hộ giàu có, sung túc từ 5 - 10 % và đang có chiều hướng gia tăng. + Tỷ lệ các hộ gia đình nghèo dao động khoảng 2 - 6 %. Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 9 Khóa luận tốt nghiệp Như vậy vấn đề đặt ra là cần thiết phải tăng số hộ gia đình sung túc, giàu có nhưng không phải dựa vào những cơ may hay hoạt động không chính đáng mà phải gắn với các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ. Mặt khác cần giãm đi số lượng hộ gia đình có thu nhập trung bình và hộ nghèo. - Vấn đề văn hoá xã hội, lối sống đô thị: đây là một trong những điểm hết sức nhức nhối hiện nay trong quá trinh đô thị hoá. Trong khi nhiều khía cạnh tốt đẹp của văn hoá truyền thống bị mai một thì lối sống “lai căng”, không lành mạnh lại đang ngự trị trong lối sống đô thị hiện nay. Cùng với quá trình đô thị hoá hàng loạt các vấn đề tệ nạn xã hội thường chỉ có ở các đô thị cũng len lói vào từng thôn làng ở các nông thôn như: ăn nhậu, mại dâm, ma tuý... Đây là vấn đề không chỉ có ở Việt Nam mà hầu như các nước đang phát triển đều mắc phải. - Về vấn đề quy hoạch không gian đô thị: mặc dù, ở các thành phố đô thị đều có quy hoạch xây dựng nhưng trên thực tế quy hoạch kiến trúc đô thị được tự do phát triển một cách thoải mái, “mạnh ai nấy làm”. Điều này gây ra không ít các vấn đề, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt hàng ngày của dân cư như vấn đề: Cấp thoát nước, giao thông cũng như gây ô nhiểm môi trường nghiêm trọng, các vấn đề về đặc trưng văn hoá, kiến trúc của dân tộc. Ở nước ta đây là hệ quả tất yếu của quá trình bung ra, tự phát, không quản lý nổi về quy hoạch của chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Do vậy để đảm bảo cảnh quan, kiến trúc, môi trường đô thị Nhà nước cần chủ động và chú trọng hơn trong việc xây dựng các cụm dân cư đô thị mới trong quá trình đô thị hoá. 1.2. Các mô hình đô thị hóa Quá trình đô thị hoá, dưới góc độ là quá trình di cư của dân, chuyển từ vùng nông thôn sang đô thị. Quá trình này có thể phân loại ra nhiều giai đoạn, có khi có di cư dân vào thành thị, mà tính chất đô thị hoá lại khác với quá trình có hình thức tương tự. Quá trình đô thị hoá trong lịch sử có thể phân loại như sau: a. Đô thị hoá thay thế: Là khái niệm để chỉ quá trình đô thị hoá diễn ra ngay chính trong đô thị. Ở đây cũng có sự di dân nhưng từ trung tâm ra ngoại thành hoặc vùng ven đô. Đô thị hoá thường vẫn mang tính chủ quan thông qua quy hoạch. Quy hoạch đô thị cho phép con người tạo ra những đô thị tối ưu theo ý muốn. Tuy nhiên, đô thị được quy hoạch là tối ưu đến mấy vẫn chắc chắn lạc hậu trong tương lai. Do cư dân Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 10 Khóa luận tốt nghiệp tăng lên, kết cấu hạ tầng, kiến trúc đô thị... lần lượt lạc hậu. Đặc biệt các công trình công nghiệp, dịch vụ... theo thời gian trở nên lạc hậu và gây ô nhiễm nặng nề, phải di dởi xa thành phố. Ở thành phố Hồ Chí Minh hiện có 1.398 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường phải di dời, chuyển đổi sản xuất. Đến nay, tháng 6/2006 việc di dời đã thực hiện được 85% kế hoạch. Có 578 cơ sở di dời đến địa điểm mới, 365 cơ sở phải dừng sản xuất, 78 cơ sở chuyển đổi ngành nghề (một số cơ sở sẽ bị cưỡng chế) . Một số cơ sở dịch vụ xuống cấp về hình thức và lạc hậu về chức năng không đáp ứng được yêu cầu mới phải nâng cấp, cải tạo. Quá trình này cũng có thể là quá trình chỉnh trang, nâng cấp đô thị, đáp ứng yêu cầu mới. Hiện ở thành phố Hồ Chí Minh cũng đang xảy ra cả hai quá trình trên. Nhiều hộ gia đình từ trung tâm di cư đến vùng ven và ngoại thành, nhiều công trình nhà cửa, giao thông, kênh rạch, vườn hoa, nhà văn hoá đang được xây dựng lại với quy mô lớn hơn. Đô thị hoá thay thế được quan niệm ở đây bao gồm cả sự mở rộng không gian đô thị ấy bằng cách phát triển đô thị ra vùng ven và ngoại thành. Để dễ hình dung ta có thể xem đô thị hoá có hai phần, một là, đô thị hoá ngay trong đô thị đã có và đô thị hoá mở rộng ra vùng ven. Đô thị hoá nhằm đáp ứng chức năng đô thị trong từng thời kỳ. Quá trình đô thị hoá luôn luôn xảy ra, song hành cùng lịch sử. Nó có thể kết thúc khi mọi nhu cầu con người được đáp ứng. Nhưng điều này có thể nói là không thể. Vì nhu cầu con người luôn luôn mở rộng, điều kiện thành phố luôn bị "già" đi phải có sự thay thế nhất định. Đô thị hoá êm dịu hơn, khi dân số, không gian đô thị đi vào ổn định. b. Đô thị hoá cưỡng bức: Là khái niệm dùng để chỉ sự di chuyển dân cư từ nông thôn về thành thị , lý do ngoài kinh tế, tức là không phải trước hết tìm việc làm hay tìm dịch vụ tốt hơn. Quá trình cưỡng bức xảy ra có thể nông dân chạy vào thành phố chủ yếu là lánh nạn. Trong quy hoạch thiết kế ban đầu, không tính đến khả năng này. Do vậy khi dân số tăng lên không phải do yêu cầu phát triển của đô thị, đứng về phía đô thị là cưỡng bức, đối với người dân chạy vào đô thị là tự bắt buộc. Trong lịch sử, năm 1778 dân cù lao phố hàng ngàn người Hoa đã kéo về Chợ Lớn do cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh tàn phá Cù Lao Phố. Từ 1954 đến 1975 cuộc chiến tranh quá ác liệt do Mỹ gây ra, để tránh chiến tranh, bom đạn người dân các vùng nông thôn chạy về thành phố với số lượng rất lớn. Nếu như năm 1954, dân số Sài Gòn là 1.723.310 người đến 1975 là 3.498.210 người. Số lượng tăng gấp đôi, chủ yếu là tăng cơ học. Ở giai đoạn này, nhiều Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 11 Khóa luận tốt nghiệp nhà nghiên cứu gọi là giai đoạn đô thị hoá cưỡng bức. Những người di cư này tìm đến những vùng đất chưa có người ở hoặc trên các kênh rạch làm nhà tạm để ở (sau này là những khu ổ chuột). Đặc điểm đô thị hoá cưỡng bức là không gian kiến trúc không được mở rộng theo quy hoạch mà mang tính tự phát cao. Các nhu cầu của dân nhập cư không được đáp ứng. Đô thị trở nên quá tải, những tiêu cực do đô thị hoá cưỡng bức mang lại ngày một nặng nề. Khả năng khắc phục là chưa thể. c. Đô thị hoá ngược: Là khái niệm dùng để chỉ sự di dân từ đô thị lớn sang đô thị nhỏ, hoặc từ đô thị trở về nông thôn. Thông thường ở giai đoạn đầu công nghiệp hoá, kinh tế - xã hội đang phát triển, đô thị luôn luôn là nơi tạo ra nhiều việc làm và các dịch vụ tốt hơn thu hút hướng di dân từ nông thôn trở về thành thị. Sự bổ sung mọt lực lượng lao động trẻ, nam nhiều hơn nữ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở đô thị. Quá trình đô thị hoá kết thúc, tức là giai đoạn ổn định của đô thị, đô thị trở nên đất chật, người đông, vấn đề chất lượng sống phụ thuộc nhiều vào môi trường sống cả tự nhiên và xã hội, so với nông thôn lại có những hạn chế nhất định. Một mặt do sự phát triển kinh tế - xã hội và các dịch vụ ở nông thôn cũng phát triển, đến lượt nó lại thu hút luồng di cư trở lại. Mặt khác, nông thôn lại chứa đựng sự phong phú của văn hoá dân tộc, văn hoá cội nguồn, sự yên tĩnh và đặc biệt môi trường trong sạch. Thực tiễn cho thấy có sự di cư từ đô thị ra bên ngoài, đặc biệt là vùng nông thôn hoặc các đô thị nhỏ. Toshio Kuroda, gọi theo các học giả Mỹ, hiện tượng này là "đô thị hoá ngược" hay là "sự phục hưng nông thôn". Quá trình đô thị hoá, di dân từ nông thôn ra thành thị đã góp phần làm cho nông thôn bị "già" nhanh và mất cân đối dân số. Quá trình phát triển đến một lúc nào đó, bằng các chính sách của mình, các chính phủ sẽ điều chỉnh hướng vào sự phát triển nông thôn. Quá trình này sẽ góp phần san bằng khoảng cách và chất lượng sống thành thị nông thôn. Đô thị hoá ngược như một chỉ báo tổng hợp về sự phát triển rất cao của một đô thị, một quốc gia. Khi đô thị hoá ngược xảy ra, con người đã ở một trình độ văn minh cao . Vấn đề quan trọng nhất, không còn kinh tế mà là chất lượng sống. Người ta quan tâm đến an ninh, môi trường tự nhiên và xã hội, giáo dục, y tế... Trước hết khi chọn nơi ở , đời sống vật chất đã đầy đủ, chỉ có đời sống tinh thần mới thật sự là đích tìm kiếm của con người. Đời sống tinh thần sẽ trở nên vô cùng, trong sự cách mạng của nó đối với con người. Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 12 Khóa luận tốt nghiệp 1.3. Tác động của quá trình đô thị hóa đối với nông thôn 1.3.1. Những tác động tiêu cực - Vấn đề quy hoạch, quản lý, sử dụng đất nông nghiệp Để thu hút các nguồn vốn phục vụ yêu cầu đây mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, những năm qua, Nhà nước và nhiều địa phương đã thực hiện chính sách cởi mở, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong việc tìm kiếm, chọn lựa địa điểm sản xuất, kinh doanh. Bình quân hàng năm gần 10 vạn ha đất nông nghiệp bị thu hồi đã phục vụ việc xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ, đường giao thông, khu dân cư; khoảng 50 % diện tích đất nông nghiệp thu hồi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, trong đó, khoảng 80% thuộc loại đất màu mở cho 2 vụ lúa/năm. Sự dể dãi và cả sự yếu kém trong quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng cùng với tư tưởng chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt đã đưa tới tình trạng sử dụng đất tuỳ tiện, lãng phí. Hầu hết các khu công nghiệp, cụm dân cư... đều bám dọc các quốc lộ huyết mạch, các vùng nông thôn trù phú. Hệ quả là hàng chục vạn ha “đất cấu tượng“, đất “bờ xôi, ruộng mật“ - bao đời nay là tư liệu sản xuất quan trọng và quý giá của người nông dân, nền tảng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia - đã bị sử dụng phí phạm, tác động mạnh đến công ăn việc làm, thu nhập và đời sống của hàng chục vạn hộ gia đình nông thôn, với hàng triệu lao động nông nghiệp. Đi liền với thực trạng này là sự nảy sinh văn hoá, thậm chí cả mâu thuẫn xã hội. Đây là một vấn đề bức xúc cần được nhìn nhận thấu đáo. - Tình trạng thiếu lao động ở nông thôn Trong khi các đô thị phát triển quá nhanh, trở thành những trung tâm tiêu thụ, là những nơi cuốn hút mọi nguồn lực của nông thôn, biến nông thôn thành ngoại vi của sự tiêu thị, ăn chơi, làm cạn kiệt lực lượng sản xuất của nông thôn. Và hiện nay ở các thành phố lớn đang tồn tại các “chợ lao động“, tại đó hàng hoá là sức lao động mà người bán đa phần là người khoẻ mạnh từ nông thôn ra thành phố tìm việc làm. Vì thế, lực lượng lao động ở nông thôn chỉ còn những người già yếu không đáp ứng được những công việc đồng áng vất vả. Do đó cơ cấu lao động nông thôn thay đổi theo hướng suy kiệt nguồn lao động. - Hệ luỵ về văn hoá, xã hội và môi trường Nông thôn Việt Nam là chiếc nôi sản sinh, nuôi dưởng và bảo vệ văn hoá dân tộc ngàn năm. Những năm qua một số yếu tố tiến bộ của văn hoá đô thị đã lan toả về nông Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 13 Khóa luận tốt nghiệp thôn. Tuy nhiên do thiếu chuẩn bị, thiếu định hướng và chọn lọc và do cả những bất cập trong công tác quy hoạch, quản lý văn hoá; không ít những yếu tố phi văn hoá, phản đô thị từ đô thị và các phương tiện truyền thông, đặc biệt là từ internet đã thâm nhập vào đời sống nông thôn, đua tới những vấn nạn đáng suy nghĩ. Theo nhiều ngã đường một số sản phẩm, loại hình được gọi là văn hoá, văn học, nghệ thuật, một số quan niệm, lối sống, cách ứng xử, làm ăn... không phù hợp thậm chí trái ngược, đối lập với thuần phong mỹ tục, với những giá trị tốt đẹp đã lan về thôn quê. Chúng thâm nhập và làm tha hoá một bộ phận dân cư nông thôn, đặc biệt là giới trẻ làm vấn đục môi trường văn hoá, xã hội, bào mòn và làm rạn nứt quan hệ tương thân, tương ái và đồng thuận thuần phác trong cộng đồng nông thôn. Từ một phương diện khác nông nghiệp, nông thôn đang là địa bàn phải hứng chịu những hậu quả về môi trường. Việc sử dụng không hợp lý, hạn chế quỹ đất canh tác, tình trạng san lấp, lấn chiếm ao hồ, sông, suối, các công trình thuỷ lợi; nạn đốt phá rừng, khai thác khoáng sản tuỳ tiện cùng với sự yếu kém trong xử lý nước thải, rác thải, bụi, khói, tiếng ồn... đang làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, phá vở hệ sinh thái, gây ô nhiểm môi trường ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, cảnh quan nông thôn, đời sống và sức khoẻ của nông dân, giãm thiểu khả năng đề kháng, thậm chí làm trầm trọng thêm những tai biến của tự nhiên. Ngoài ra các vùng ven đô nói riêng đất đai sản xuất nông nghiệp luôn bị xâm lấn và trở thành những vùng dân cư mới trong guồng quay tấp nập của đô thị hoá. Và một số thôn làng gần đô thị tiếp nhận những mặt tiêu cực nhất của lối sống không văn hoá của đô thị. Những mặt tiêu cực nói trên đang từng ngày diễn ra trong quá trình đô thị hoá, từng giờ tác động đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Song đó là những khó khăn khó tránh trên con đường đi lên, là hai mặt biện chứng của quá trình phát triển. 1.3.2. Những tác động tích cực Làn sóng đô thị hoá đã thổi luồng sinh khí mới vào cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Quá trình đô thị hoá hình thành trên địa bàn nông thôn những khu công nghiệp, khu chế xuất, các trung tâm dịch vụ, các khu đô thị mới đã nâng giá trị sử dụng đất đai, tạo những ngành nghề và việc làm mới, nâng cao giá trị lao động tạo môi trường ứng Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 14 Khóa luận tốt nghiệp dụng rộng rãi khoa học, công nghệ... Đô thị hoá kích thích và tạo cơ hội để con người năng động, sáng tạo hơn trong việc tìm kiếm và lựa chon các phương thức, hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh vươn lên làm giàu chính đáng. Kinh tế phát triển, đời sống của người lao động được cải thiện - đó là xu hướng chủ đạo và mặt tích cực của đô thị hoá. Ngoài ra, đô thị là nơi cung cấp những cơ sở kỹ thuật để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội từng bước hình thành nông thôn mới văn minh, hiện đại. Mặt khác đô thị còn là nơi tiêu thụ hàng nông sản chất lượng cao sẽ tác động đến sự phát triển các cơ sở cung cấp nguyên liệu và dịch vụ, góp phần chuyển đổi tập quán sản xuất truyền thống của nhiều vùng nông thôn, mở ra khả năng nâng cao chất lượng và giá trị nông sản, mở rộng thị trường... từ đó sẽ tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Sự phát triển các đô thị cũng được đánh giá là đã tạo điều kiện bổ sung nguồn vốn đầu tư cho sự phát triển các vùng nông thôn thông qua việc chuyển vốn đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh kinh doanh công nghiệp, du lịch, văn hoá. Hoặc thông qua thu hút lao động tới các đô thị, một phần đáng kể trong thu nhập của người lao động được đưa trở về nông thôn. Nhìn từ bình diện văn hoá, làn sóng đô thị hoá cùng với sự phát triển hạ tầng văn hoá xã hội, mở rộng mạng lưới thông tin đại chúng, tăng cường quan hệ làm ăn buôn bán giữa các vùng miền... đã làm diện mạo nông thôn và đời sống tinh thần của cư dân nông thôn ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Ở nông thôn đã xuất hiện những yếu tố đô thị mới mẽ, hiện đại, sự truyền bá các sản phẩm văn hoá, các loại hình văn học nghệ thuật có giá trị, sự du nhập lối sống, phong cách giao tiếp, ứng xử văn minh, tiến bộ... làm cho văn hoá làng quê có những sắc thái mới. Mức sống văn hoá, trình độ hưởng thụ và tham gia sáng tạo văn hoá của nông dân các vùng đô thị hoá, nhìn trên tổng thể được nâng lên. Mặt khác, đô thị hoá nông thôn mạnh mẽ sẽ hạn chế được sự di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị. Vì đô thị hoá bao gồm cả việc đưa công nghiệp về nông thôn qua các xí nghiệp vừa và nhỏ, thu hút lao động nông thôn đồng thời xây dựng lối sống đô thị ở nông thôn. Và chính những tụ điểm quần cư do các xí nghiệp ấy tạo ra sẽ từng bước trở thành những đô thị, thị trấn, thị trường sầm uất. Các thị trấn, thị trường này sẽ Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 15 Khóa luận tốt nghiệp gắn kết sự phát triển các xí nghiệp nhỏ trên địa bàn thị xã, nhất là các xí nghiệp chế biến nông lâm thuỷ hải sản, sản xuất các mặt hàng thủ công nghiệp truyền thống với dịch vụ tổng hợp và thương mại. Qua đó góp phần công nghiệp hoá nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, đa dạng hoá các ngành nghề và sản phẩm, tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người nông dân. Như vậy nếu các đô thị thực sự trở thành những trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá của một vùng, một địa phương thì đô thị sẽ trở thành điểm tựa bền vững cả về vật chất lẫn tinh thần cho sự phát triển của nông thôn. 1.4. Thực tiễn quá trình đô thị hóa trên thế giới và ở Việt nam 1.4.1. Kinh nghiệm đô thị hóa của một số nước trên thế giới 1. Kinh nghiệm của Trung Quốc - Phát triển các xí nghiệp địa phương để thu hút lao động: các chính sách khuyến khích phát triển các xí nghiệp địa phương đã làm cho công cuộc cải cách và mở cửa của Trung Quốc diễn ra sâu rộng hơn. Các doanh nghiệp địa phương đóng vai trò chính trong việc thu hút lực lượng lao động dôi dư ở nông thôn trong quá trình đô thị hóa. Chính sách khuyến khích đầu tư của nhà nước cùng với sự đầu tư của kinh tế tư nhân vào khu vực phi nông nghiệp đã thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp địa phương. Trong những năm đầu đã có đến 20% tổng thu nhập của người dân nông thôn là từ các doanh nghiệp địa phương. Ở những vùng phát triển, tỷ lệ này lên tới trên 50%. Công nghiệp địa phương có tốc độ tăng trưởng rất cao. - Xây dựng các đô thị quy mô vừa và nhỏ để giảm bớt lao động nhập cư vào các thành phố lớn: Trung Quốc cho rằng có hai cách để chuyển đổi lao động dư thừa trong nông thôn: cách thứ nhất là chuyển họ sang các ngành công nghiệp, dịch vụ ở các vùng nông thôn; cách thứ hai là chuyển họ đến thành phố. Các chính sách đúng đắn trong việc thúc đẩy hình thành các khu đô thị quy mô nhỏ đã gặt hái được những thành công đáng khích lệ. Theo các nhà kinh tế Trung Quốc, lợi thế của việc phát triển các đô thị nhỏ là: các đô thị này dân số ít, nhiều ngành công nghiệp có khả năng thu hút nhiều lao động; những đô thị này nằm giữa thành phố và nông thôn sẽ đem lại cho nó những đặc trưng về lối sống ở cả hai khu vực nên người nông dân sẽ dễ dàng định cư ở đây hơn; ở các đô thị nhỏ người nông dân sẽ dễ dàng hơn trong việc kinh doanh do điều kiện cạnh tranh thấp và yêu cầu về vốn nhỏ. Chính vì vậy chính phủ Trung Quốc Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 16 Khóa luận tốt nghiệp đã tạo điều kiện để hình thành hơn 19.000 đô thị nhỏ. Trong những năm 1990, các đô thị nhỏ đã thu hút trên 30 triệu lao động nông nghiệp dư thừa, chiếm hơn 30% tổng số lao động nông thôn dư thừa. 2. Kinh nghiệm của Nhật Bản Quá trình công nghiệp hóa ở Nhật Bản cũng bắt đầu bằng thời gian dài tăng trưởng trong nông nghiệp. Nhật Bản luôn là nước bị giới hạn bởi tài nguyên đất đai ít và dân số đông, diện tích canh tác bình quân của một hộ nông dân khoảng 0.8ha. Nhật Bản thực hiện chính sách đưa công nghiệp về nông thôn. Chính điều này đã làm cho cơ cấu nông thôn thay đổi, các ngành phi nông nghiệp đã đóng góp ngày càng tăng vào thu nhập của người dân nông thôn (năm 1950 tỷ lệ này là 29% đã tăng lên 85% năm 1990). Việc chú trọng phát triển công ngiệp thu hút nhiều lao động trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa đã cơ bản giải quyết được vấn đề việc làm cho lao động nông nghiệp, mặc dù diện tích đất canh tác nông nghiệp ngày càng giảm. Chính phủ Nhật Bản đã thành lập mạng thông tin việc làm trên khắp đất nước với mục đích cung cấp đầy đủ các thông tin về việc làm từ các tổ chức, doanh nghiệp qua internet đến những người đang tìm việc, giúp họ có những lựa chọn phù hợp với năng lực, điều kiện của mình. Chính phủ cũng bồi dưỡng những công nhân có tay nghề cao qua việc hỗ trợ tài chính, tạo cơ hội phát triển năng lực, nâng cao chất lượng các tổ chức giáo dục-đào tạo. Hoạt động giải quyết việc làm cho người cao tuổi cũng được chú trọng để xóa bỏ những bất cân đối về việc làm do tuổi tác gây ra. Các loại hình tuyển dụng và thuê mướn cũng được đa dạng hóa, coi trọng các công việc làm thêm không chính thức như làm bán thời gian, tạm thời hoặc bất thường. Chế độ tuyển dụng thay đổi theo khu vực, không tập trung chủ yếu tại các đô thị lớn như trước kia mà chuyển sang các khu vực lân cận và địa phương. Từ chính sách của Nhật Bản trong quá trình đô thị hóa có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: - Không ngừng phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trên cơ sở nhu cầu lao động của xã hội. - Phát triển mạnh mẽ những ngành nghề ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học-kỹ thuật và những ngành sử dụng nhiều lao động. - Phát triển hệ thống dịch vụ việc làm và thông tin thị trường lao động. - Thực hiện cải cách chế độ tiền lương, thu nhập của người lao động. Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 17 Khóa luận tốt nghiệp 1.4.2. Tình hình đô thị hóa ở Việt nam 1. Đô thị hoá Việt Nam trong thời kì phong kiến Cách đây hàng ngàn năm, An Dương Vương đã xây thành Cổ Loa, đó là đô thị đầu tiên của Việt Nam và là trung tâm chính trị của nước Âu Lạc. Đây cũng là điểm dân cư đông đúc nhất lúc bấy giờ mặc dù chỉ có vài ngàn người nhưng về sinh hoạt đã mang tính chất cư dân đô thị. Năm 1010, Lý Thái Tổ đã quyết định dời đô từ Hoa Lư về trung tâm Đại La (trong thành Tống Bình củ) và đổi tên thành Thăng Long, thủ đô của các triều đại nhà Lý và có vị trí quan trọng nhất trong cả nước. Cũng ở thời nhà Lý việc buôn bán với các nước Trung Quốc, Xiêm La, Indonexia, Mã Lai qua đường biển cảng Vân Đồn (Cẩm Phả, Quảng Ninh) là một thương cảng quan trọng ở thời nhà Lý và cũng được coi là một đô thị mang tính chất cảng thời bấy giờ. Đến thời nhà Trần (1226 - 1400) và thời Lê (407 - 1527) các lĩnh vực công thương nghiệp rất được chú trọng phát triển. Kinh thành Thăng Long được mở rộng, chia thành nhiều phường, có các phố xá buôn bán. Ở các địa phương cũng xuất hiện nhiều cơ sở buôn bán và điểm tập trung dân cư làm các nghề thủ công và buôn bán, đó là những mầm móng của đô thị nước ta sau này. Năm 1527, Mặc Đăng Dung phế truất triều Lê, rồi đến xung đột Trịnh - Nguyễn. Cuối cùng đất nước bị chia đôi: nhà Trịnh cai quản Đàng Ngoài (Bắc Hà), nhà Nguyễn cai quản Đàng Trong (Nam Hà). Về phát triển tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, cả hai triều Trịnh, Nguyễn đều ra sức đẩy mạnh nhằm tăng nguồn thu phục vụ cho sự thống trị của mình. Thị trường trong nước được mở rộng, nhiều chợ mọc lên, các thành thị nhờ buôn bán trở nên phồn thịnh. Đây cũng chính là thời kì hưng thịnh nhất của các đô thị ở Việt Nam ở thời kỳ phong kiến, là trung tâm kinh tế lớn, có quan hệ kinh tế buôn bán rộng rãi với nhiều vùng xung quanh. Ở đó có các phường thủ công và các phố xá buôn bán. Số thương nhân, thợ thủ công và cư dân tập trung ở các đô thị ngày càng đông. Thăng Long lúc bấy giờ được người nước ngoài đánh giá là một thành thị loại lớn ở châu Á, tuy nhiên nếu so sánh với châu Âu thì vẫn còn thua xa bởi lúc này họ đã tiến vào thời kì tiền công nghiệp và có nền kinh tế phát triển khá nhanh. Từ đó mãi về sau đến thời nhà Nguyễn, việc phát triển đô thị không còn được quan tâm chú trọng nhiều nữa mà chủ yếu là xây dựng một số thành quách. Và các tỉnh Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 18 Khóa luận tốt nghiệp tạo nên các điểm tập trung các quan lại và binh lính, tạo nên hệ thống quản lý hành chính của triều đình để cai quản đất nước. Duy chỉ có việc dời đô từ Thăng Long vào Huế đã kéo theo sự phát triển các đô thị ở miền Trung. Kinh thành Huế trở thành trung tâm chính trị của cả nước và là một đô thị ở miền Trung. Lúc này nước ta có 3 đô thị lớn ở 3 miền Bắc, Trung, Nam là Thăng Long, Huế, Gia Định. 1. Đô thị hoá Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc Dưới thời Pháp thuộc người Pháp đã áp dụng chính sách chia để trị nên tổ chức mạng lưới đô thị hành chính cùng với các đồn trú rải đều trên khắp lảnh thổ nước ta. Các đô thị này thực hiện chức năng hành chính là chủ yếu, còn kinh tế kém phát triển. Sự nổi bật của thời kỳ này là hệ thống quản lý kiểu Pháp được hình thành. Nhà cửa và cơ sở hạ tầng được quy hoạch, đường sá được mở mang, môi trường được cải thiện. Các hoạt động sản xuất và thương mại đi vào chuyên môn hoá cao hơn. Các tầng lớp xã hội đô thị hình thành rõ nét như thương nhân, trí thức, viên chức. 2. Đô thị hoá Việt Nam sau ngày độc lập năm 1945 đến năm 1975 Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, nhưng chẳng lâu sau thực dân Pháp quay trở lại, chính phủ Việt Nam kêu gọi nhân dân “tiêu thổ kháng chiến”. Nên tất cả các đô thị phải phá huỷ để tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Duy chỉ có 2 thành phố Hà Nội và Sài Gòn do Pháp chiếm đóng là còn nguyên vẹn trong suốt 9 năm kháng chiến. Năm 1954 hoà bình lập lại đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành 2 miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Sự phát triển kinh tế ở miền Bắc được tiến hành theo hướng “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời phát triển công nghiệp nhẹ”. Các đô thị được xây dựng theo kiểu tầng bậc rải đều trên khắp cả lãnh thổ nhằm xoá bỏ dần sự cánh biệt giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị, miền xuôi và miền ngược... Chiến lược phát triển đô thị là kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng. Những thành phố được xây dưng trong thời kì chống Mỹ như Việt Trì, Thái Nguyên, Uông Bí. Trong khi đó miền Nam đi theo một chiến lược đô thị khác. Các đô thị miền Nam hình thành nhanh chóng nhờ có sự viện trợ của Mỹ cùng với những căn cứ quân sự, các thị tứ hình thành cùng với các ấp chiến lược. Mục tiêu chủ yếu của các đô thị là phục vụ cho bộ máy quân sự của Mỹ. Khu công nghiệp duy nhất là khu công nghiệp Biên Hoà. Thành phố được đầu tư chủ yếu là Sài Gòn với đầy đủ các công trình phúc lợi. Các đô thị khác thực chất là các đô thi quân sự và hành chính. Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 19 Khóa luận tốt nghiệp 3. Đô thị hoá sau ngày thống nhất đất nước năm 1975 đến nay Sau năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, hệ thống đô thị hai miền NamBắc có những khác nhau về cấu trúc đô thị. Để phù hợp với tiến trình chung của cả nước, chúng ta phải tiến hành điều chỉnh từ sự phân bố các khu công nghiệp cho đến phân bố dân cư trên lãnh thổ nhằm đạt được sự phân bố lực lượng sản xuất hợp lý. Đánh giá chung là hệ thông đô thị của ta rải đều trên khắp lãnh thổ với đủ các loại hình: đô thị công nghiệp, đô thị cảng, đô thị hành chính, đô thị du lịch, đô thị tổng hợp song quy mô còn nhỏ bé. Hiện nay, mạng lưới đô thị cả nước được hình thành và phát triển trên cơ sở các đô thị trung tâm, gồm 5 thành phố trung tâm cấp Quốc gia như thủ đô Hà Nội, các thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ; 14 thành phố trung tâm cấp vùng; các thành phố, thị xã, tỉnh lị khác; các đô thị trung tâm cấp thị xã bao gồm các thị trấn thị xã lỵ và các thị xã là vùng trung tâm chuyên ngành của tỉnh và các đô thị trung tâm cấp tiểu vùng, bao gồm các thị trấn là trung tâm đô thị các cụm khu dân cư nông thôn hoặc là các đô thị vệ tinh trong các vùng ảnh hưởng của đô thị lớn. Các đô thị trung tâm các cấp được phân bố hợp lý trên 10 vùng đô thị hoá đặc trưng của cả nước. Bảng 2: Tình hình phát triển dân số đô thị của Việt Nam Chỉ tiêu Dân số Dân số đô thị Tỉ lệ dân số đô thị Đvt 1990 2000 2010 2025 (triệu người) 66,15 79,8 92,06 108,6 (triệu người) 14,18 21,65 32 50,68 21,89 27,4 34,76 47,73 (%) (Nguồn: Theo dự báo của Liên Hợp Quốc) Như đã nói ở trên, công nghiệp hóa và cùng với nó là đô thị hóa đã trở thành xu thế chung cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Điều này cũng có nghĩa là đô thị hóa càng phát triển thì quỹ đất của xã hội giành cho nông nghiệp có xu hướng giảm. Đất đai cũng như các nguồn lực khác, không có nó thì không thể tiến hành sản xuất đối với bất cứ ngành kinh tế nào đặc biệt là trong nông nghiệp. Đất đai lại không giống các nguồn lực khác ở chỗ nó là sản phẩm của tự nhiên, có giới hạn và không thể thay thế được. Trong Mai Thị Thảo Nguyên - Lớp K42B – KTNN 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan