Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tạo biểu tƣợng lịch sử cho học sinh dân tộc thiểu số ở sơn la khi dạy bài 9 “các...

Tài liệu Tạo biểu tƣợng lịch sử cho học sinh dân tộc thiểu số ở sơn la khi dạy bài 9 “cách mạng mùa thu” và bài 10 “bác hồ đọc tuyên ngôn độc lập” sách giáo khoa lịch sử và địa lý lớp 5

.PDF
76
582
64

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC KHOA TIỂU HỌC – MẦM NON ------o0o------ LÊ THỊ KIM CHI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TẠO BIỂU TƢỢNG LỊCH SỬ CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở SƠN LA KHI DẠY BÀI 9: “CÁCH MẠNG MÙA THU” VÀ BÀI 10 “BÁC HỒ ĐỌC TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÝ LỚP 5 Sơn La, tháng 5 năm 2014 TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC KHOA TIỂU HỌC – MẦM NON ------o0o------ LÊ THỊ KIM CHI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TẠO BIỂU TƢỢNG LỊCH SỬ CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở SƠN LA KHI DẠY BÀI 9: “CÁCH MẠNG MÙA THU” VÀ BÀI 10 “BÁC HỒ ĐỌC TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP” SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ VÀ ĐỊA LÝ LỚP 5 Chuyên ngành: Phƣơng pháp dạy hoc Tự nhiên – Xã hội Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Phạm Văn Lực Sơn La, tháng 5 năm 2014 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến TS. Phạm Văn Lực, người đã tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành khóa luận này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong khoa Tiểu học - Mầm non, Thư viện, Phòng Đào tạo Đại học trường Đại học Tây Bắc, trường tiểu học Quyết Tâm - Sơn La đã tạo điều kiện cho em trong quá trình thực hiện khóa luận. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo để đề tài thêm hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Ngƣời thực hiện Lê Thị Kim Chi DANH MỤC VIẾT TẮT CNXH Chủ nghĩa xã hội XHCN Xã hội chủ nghĩa SGK Sách giáo khoa NXB Nhà xuất bản GV Giáo viên HS Học sinh HSDTTS Học sinh dân tộc thiếu số MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 1 3. Đối tượng nghiên cứu, pham vi nghiên cứu, mục đích, nhiệm vụ, đóng góp của đề tài................................................................................................................ 3 3.1. Khách thể và địa bàn nghiên cứu ................................................................... 3 3.2. Giả thiết khoa học .......................................................................................... 3 3.3. Mục đích, nhiêm vụ nghiên cứu ..................................................................... 4 3.4. Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 4 4. Cơ sở tài liệu, phương pháp nghiên cứu ........................................................... 4 4.1. Cơ sở tài liệu .................................................................................................. 4 4.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4 5. Cấu trúc của khóa luận ...................................................................................... 5 NỘI DUNG........................................................................................................... 6 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TẠO BIỂU TƢỢNG LỊCH SỬ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC .......................................... 6 1.1. Cơ sở lí luận ................................................................................................... 6 1.2. Cơ sở thực tiễn của việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh ...................... 16 TIỂU KẾT ........................................................................................................... 20 CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO BIỂU TƢỢNG CHO HỌC SINH KHI DẠY LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG TIỂU HỌC ................................... 21 2.1. Các biện pháp chung để tạo biểu tượng cho học sinh .................................. 21 2.2. Áp dụng các biện pháp để tạo biêu tượng cụ thể ......................................... 28 2.3. Tạo biểu tượng khi dạy bài 9: Cách mạng mùa thu và bài 10: Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập ............................................................................................ 41 TIỂU KẾT ........................................................................................................... 43 CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ................................................... 44 3.1. Mục đích thể nghiệm sư phạm ..................................................................... 44 3.2. Đối tượng và thời gian thực nghiệm ............................................................ 44 3.3. Nội dung, phương pháp thực nghiệm........................................................... 44 3.4. Kết quả thực nghiệm .................................................................................... 47 TIỂU KẾT ........................................................................................................... 48 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .......................................................................... 49 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 50 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nói về con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người XHCN”. Để góp phần đào tạo con người mới toàn diện về mọi mặt Đức – Trí – Thể - Mỹ và Lao động phải có sự đóng góp của tất cả các môn học, trong đó có môn lịch sử và phải được giáo dục, rèn luyện ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, trước hết ở cấp học Mầm Non - Tiểu học. Trong dạy học lịch sử nói chung, ở cấp học Tiểu học nói riêng, môn học lịch sử trang bị cho học sinh hệ thống kiến thức cơ bản về tiến trình phát triển hợp quy luật của lịch sử xã hội loài người và dân tộc, cung cấp cho học sinh những hiểu biết bước đầu nhưng rất quan trọng về các “biểu tượng” lịch sử trên cơ sở đó góp phần hình thành trong các em tư tưởng, tình cảm, lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa và tự hào dân tộc…đây lại là những phẩm chất cơ bản của con người mới Việt Nam xã hội nghĩa. Do đặc trưng của môn Lịch sử không thể trực tiếp tri giác được các sự kiện, hiện tượng lịch sử đã xảy ra, không thể tái hiện lịch sử trong phòng thí nghiệm. Chính vì vậy, việc tái tạo lịch sử bằng cách tạo biểu tượng đúng đắn, sinh động về các sự kiện, hiện tượng lịch sử vừa là nguyên tắc vừa là biện pháp trong việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông, giúp cho giờ học thêm sinh động, học sinh hứng thú với môn học. Vì thế, việc lựa chọn: “Tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh dân tộc thiểu số (HSDTTS) ở Sơn La khi dạy bài 9: Cách mạng mùa thu và bài 10: Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập” SGK Lịch sử và Địa lý lớp 5” làm đề tài nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh tiểu học đã đươc đề cập trong một số công trình, bài viết cụ thể: + “Biểu tượng lịch sử với học sinh tiểu học” của tác giả Trần Văn Lưu trường THSP Thanh Hóa- Hội Giáo dục Lịch sử (thuộc hội khoa học Lịch sử 1 Việt Nam), khoa Sử trường Đại học Sư phạm (Đại học Quốc gia Hà Nội), trung tâm nội dung phương pháp (Viện Khoa học Giáo dục), “Đổi mới việc dạy học lịch sử lấy học sinh làm trung tâm”, . Tìm hiểu về một số biện pháp cụ thể hóa sự kiện, nhân vật lịch sử [6]. + Trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” tập 1, 2; Giáo sư Phan Ngọc Liên (chủ biên), Phó giáo sư. Tiến sĩ Trịnh Đình Tùng, Giáo sư. Tiến sĩ NguyễnThị Côi, Nhà xuất bản Đại học sư phạm 2010, nêu lên một vài tri thức lịch sử tác động tới việc tạo biểu tượng lịch sử, những vấn đề khái quát nhất về biểu tượng lịch sử. Giúp chúng ta hiểu thế nào là biểu tượng lịch sử, vai trò và việc phân loại biểu tượng, các biện pháp sư phạm để taọ biểu tượng lịch sử [5]. + Trong cuốn “Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong SGK lịch sử THCS phần lịch sử Việt Nam” và cuốn “Kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường THPT” tập 1 phần lịch sử Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Thị Côi chủ biên, cho chúng ta nắm được và lựa chọn các phương pháp phù hợp để tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh. Vì đặc điểm của tri thức lịch sử ở cấp tiểu học cũng như ở các cấp học cao hơn, chỉ khác là nó ở mức đơn giản hơn nhưng ta có thể vận dụng [1]. + Nguyễn Thị Côi, (2011), “Các con đường biện pháp để nâng cao hiệu quả bài học lich sử ở nhà trường phổ thông”, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội. Đề cập đến một số biện pháp tạo biểu tượng nhân vật lịch sử, đặc biệt là tổ chức tham quan học tập ở nhà bảo tàng cách mạng, nhà truyền thống, di tích lịch sử và từ đó khẳng định vai trò của biện pháp này đó là “làm giàu cho càc em những biểu tượng lịch sử cụ thể và là chỗ dựa để hình thành các kết luận khái quát” [1]. + Nguyễn Anh Dũng, Trần Vĩnh Tường, (2003), “Những vấn đề chung về bộ môn phương pháp dạy học Lịch sử ở trường Cao đẳng sư phạm”, NXB Đại học sư phạm, nêu lên vai trò, nhiệm vụ của phân môn lịch sử ở trường phổ thông [3]. + Nguyễn Thị Côi (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Trần Viết Thụ, Nguyễn Mạnh Khởi, Đoàn Văn Hưng, Nguyễn Thị Thúy Bình, (2011), “Rèn luyện kĩ năng 2 nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử”, NXB Đại học sư phạm nêu lên những kĩ năng cơ bản mà người GV cần phải có, làm gì để có được những kĩ năng đó [2]. + Phạm Văn Lực (1996): “ Cải tiến phương pháp dạy học lịch sử phù hợp các trường phổ thông ở Tây Bắc” - Hội Giáo dục Lịch sử (thuộc hội khoa học Lịch sử Việt Nam), khoa Sử trường Đại học Sư phạm (Đại học Quốc gia Hà Nội), trung tâm nội dung phương pháp (Viện Khoa học Giáo dục), (1996), “Đổi mới việc dạy học lịch sử lấy học sinh làm trung tâm”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, để ra cách thức, nhiệm vụ cần làm để đối mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực lấy HS làm trung tâm, ý nghĩa của phương pháp này đối với kết quả giảng dạy [7]. + Về việc tạo biểu tượng các nhân vật lịch sử đã được đề cập khá rõ trong cuốn “Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử” do Phan Ngọc Liên – Trịnh Đình Tùng – Nguyễn Thị Côi – Trần Vĩnh Tường đồng chủ biên. Bài viết của tiến sĩ Đặng Văn Hồ - Khoa lịch sử - Đại học sư phạm – Đại học Huế với nhan đề “tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử để giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh” đã nêu lên những lí luận cơ bản về tạo biểu tượng nhân vật lịch sử, vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng các nhân vật lịch sử, các nguyên tắc và một số biện pháp cụ thể [4]. 3. Đối tƣợng nghiên cứu, pham vi nghiên cứu, mục đích, nhiệm vụ, đóng góp của đề tài. 3.1. Khách thể và địa bàn nghiên cứu Học sinh khối 5 trường Tiểu học Quyết Tâm- thành phố Sơn La – tỉnh Sơn La. 3.2. Giả thiết khoa học Hiện nay việc tạo biểu tượng cho học sinh trong dạy học Lịch sử ở trường Tiểu học còn chưa được chú trọng và kết quả chưa cao. Nếu đưa ra một số giải pháp cho việc việc tạo biểu tượng ở trong các bài học nhằm đổi mới phương pháp dạy học để giúp các em khắc sâu kiến thức hơn, từ đó đạt kết quả học tập cao hơn. 3 3.3. Mục đích, nhiêm vụ nghiên cứu 3.3.1. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu về vấn đề tạo biểu tượng lịch sử cho HSDTTS ở Sơn La khi dạy “ bài 9 Cách mạng mùa thu và bài 10 Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập”. 3.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Qua nghiên cứu đề tài nhằm: - Tìm hiểu vai trò của biểu tượng trong dạy học lịch sử ở trường Tiểu học. - Tìm hiểu thực tế của việc sử dụng biểu tượng trong dạy học ở các trường tiểu học hiện nay. - Tìm hiểu nội dung chương trình, SGK Lịch sử và Địa lý lớp 5. - Phương pháp tạo biểu tượng lịch sử cho HSDTTS trong SGK Lịch sử và Địa lý lớp 5. 3.4. Đóng góp của đề tài - Cụ thể hóa và làm phong phú thêm hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử ở trường tiểu học. -Thiết thực đổi mới phương pháp, tạo sự sinh động cho bài giảng, gây hứng thú học tập cho học sinh . -Nâng cao chất lượng dạy học lịch sử đáp ứng yêu cầu của cải cách giáo dục, khắc phục tình trạng chán học môn lịch sử. 4. Cơ sở tài liệu, phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở tài liệu - Để thực hiện khóa luận này, tôi đã sử dụng các tài liệu lưu trữ ở trung ương và địa phương kết hợp khai thác các tài liệu đã được công bố trong các công trình nghiên cứu sẽ được cụ thể hóa trong danh mục tài liệu tham khảo. - SGK Lịch sử và Địa lí lớp 5. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện khóa luận này, tôi đã sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính là nghiên cứu lí luận và điều tra thực tiễn. - Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc tham khảo tài liệu, phân tích tổng hợp hóa, khái quát hóa các vấn đề tài liệu liên quan để lá cơ sở lí luận cho đề tài. 4 - Phương pháp điều tra thực tiễn: Với mục đích tìm hiểu thực trạng học tập Lịch sử nói chung và việc sử dụng biểu tượng trong dạy học Lịch sử nói riêng tôi đã tiến hành quan sát, phỏng vấn đàm thoại với một số giáo viên và học sinh lớp. 5. Cấu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục đề tài gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn Chương 2: Một số biên pháp tạo biểu tượng cho học sinh khi dạy lịch sử ở trường Tiểu học Chương 3: Thực nghiệm sư phạm 5 NỘI DUNG CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TẠO BIỂU TƢỢNG LỊCH SỬ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC 1.1. Cơ sở lí luận 1.1.1 Mục tiêu, nhiêm vụ của phân môn Lịch sử ở trường phổ thông Theo Nghị quyết của Đại hội X (năm 2006) mục tiêu của giáo dục phổ thông là: “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Nhiều văn kiện chính trị cũng khẳng định mục tiêu giáo dục phổ thông là đào tạo những con người có năng lực, phẩm chất, đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ. Trong giai đoạn hiện nay mục tiêu đào tạo là xây dựng nên con người Việt Nam XHCN. Để đạt được mục tiêu trên mỗi môn học có vai trò, vị trí nhất định, trong đó phân môn Lịch sử có ưu thế đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, hình thành thế giới quan cho thế hệ trẻ. Phần lịch sử trong môn Tự nhiên và Xã hội có 3 nhiệm vụ cơ bản: giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Cùng với các môn học khác phân môn lịch sử với chức năng và nhiệm vụ của mình góp phần tích cực cùng xã hội hoàn thành sứ mạng giáo dục thế hệ trẻ trong điều kiện hiên nay.  Giáo dưỡng Phần lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản của khoa học lịch sử, trang bị cho các em hiểu biết ban đầu, tương đối có hệ thống về quá trình phát triển lịch sử với những nhân vật, sự kiện năm tháng nổi bật ở từng thời kì lịch sử khác nhau của dân tộc. Dạy lịch sử giúp các em có những biểu tượng về lịch sử nhờ đó thấy được vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, nhớ 6 được các công lao của các anh hùng dân tộc. Qua đó, học sinh hiểu rõ hơn lịch sử dân tộc, thêm yêu mến các vị anh hùng dân tộc.  Giáo dục Môn học Tự nhiên và Xã hội ở Tiểu học góp phần vào việc giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh.Ví như phần địa lí dạy cho học sinh hiểu rõ đất nước mình để tăng thêm lòng yêu Tổ quốc, yêu quê hương, có ý thức bảo vệ thiên nhiên. Song phần lịch sử lại có những ưu thế riêng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ cho học sinh mà ở những môn khác không có được. Những con người và những việc làm của quá khứ sẽ có sức thuyết phục, có sự rung cảm mạnh mẽ với thế hệ trẻ. Những tấm gương anh dũng tuyệt vời của các chiến sĩ đấu tranh và hi sinh cho độc lập tự do của Tổ quốc đều nêu gương cho học sinh học tập, suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với đất nước. Sự tàn ác dã man, sự phản phúc của bè lũ cướp nước và bán nước sẽ gây cho học sinh sự căm phẫn. Cảnh sống lầm than và sự đấu tranh quật khởi của những người người nghèo khổ, những số phận bị áp bức của dân tộc thuộc địa sẽ khơi dậy cho học sinh sự đồng tình, đồng cảm sâu sắc. Lịch sử không chỉ giáo dục học sinh tình cảm yêu ghét trong đấu tranh giai cấp mà còn bồi dưỡng cho học sinh biết yêu quí trân trọng lao động và các giá trị lao động, yêu cái đẹp có óc thẩm mỹ, biết cách ứng xử đúng đắn trong cuộc sống hàng ngày. Như vậy tác dụng của lịch sử là giáo dục thái độ học sinh ham học hỏi, tìm hiểu kiến thức trong học tập và vận dụng vào cuộc sống, hình thành tình cảm gắn bó, yêu quê hương, đất nước, niềm tự hào dân tộc. Tôn trọng, giữ gìn, bảo vệ các giá trị văn hóa mà ông cha ta đã xây dựng.  Phát triển Những bài học lịch sử trong môn Tự nhiên và Xã hội giúp học sinh hình thành năng lực tư duy và thực hành. Cụ thể là: - Phát triển các năng lực: quan sát sự vật, tìm hiểu các nguồn tư liệu, thông tin trong SGK và các tài liệu khác. 7 - Phát triển khả năng đặt câu hỏi, đưa ra thắc mắc, nghi vấn trong quá trình học tập và lựa chọn các thông tin để giải đáp. Phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh. - Nhận biết đúng các sự kiên, sự vật lịch sử. Có kiến thức hiểu biết đúng đắn về lịch sử, các em sẽ có vốn hiểu biết về các sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc. Ví dụ: Sự kiện ngày 2 – 9 – 1945 có ý nghĩa to lớn đối với dân tộc ta, là ngày khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. - Khả năng diễn đạt, trình bày các quan điểm bằng nhiều hình thức khác nhau: sơ đồ, tranh ảnh, ngôn ngữ… Những bài học lịch sử cần sử dụng nhiều tranh ảnh sơ đồ…để tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh, các em được làm quen tiếp xúc nhiều với các phương tiện đó nên học sinh có được khả năng vận dụng tốt. - Khả năng vận dụng những hiểu biết vào cuộc sống. Như vậy, mục tiêu của phần lịch sử trong môn Tự nhiên và Xã hội ở trường Tiểu học là cung cấp kiến thức cơ bản ban đầu về lịch sử của dân tộc và xã hội loài người. Trên cơ sở đó giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc cho các em và phải được thực hiện một cách hoàn chỉnh các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên có nhiều yếu tố chi phối, tác động đó là sự quan tâm của xã hội với lịch sử, sự đầu tư trang thiết bị dạy học. Song yếu tố quyết định là vấn đề phương pháp dạy học lịch sử. Gần đây liên tục có những hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử. Trong đó các nhà giáo dục khá quan tâm đến việc tạo biểu tượng cho học sinh Tiểu học khi dạy lịch sử nhằm gây hứng thú học tập và khắc sâu kiến thức. 1.1.2. Vai trò của biểu tượng trong dạy học lịch sử ở trường Tiểu học 1.1.2.1. Một vài đặc điểm của tri thức lịch sử tác động tới việc tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử Để xác định đúng đắn các biện pháp sư phạm nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức lịch sử với tri thức của nhiều bộ môn khoa học khác, tri thức lịch sử có những đặc điểm rất nổi bật, đó là tính quá khứ, tính không lặp lại, tính cụ thể, tính hệ thống, sự thống nhất giữa “sử” và “luận”. 8 * Tính quá khứ Lịch sử là quá trình hợp quy luật của xã hội loài người từ lúc con người và xã hội hình thành đến nay. Tất cả những hiện tượng lịch sử được chúng ta nhắc đến đều là những chuyện đã xảy ra, nó mang tính quá khứ. Đây là điều khác biệt giữa hiện tượng lịch sử với những hiện tượng tự nhiên. Bởi vậy, người ta không trực tiếp quan sát được lịch sử quá khứ mà chỉ nhận thức được chúng một cách gián tiếp thông qua các tài liệu được lưu lại, hoặc giả, dựa vào các hiện tượng lịch sử tương tự của cái mới, của các dân tộc khác để phân tích, suy nghĩ những vấn đề lịch sử mà chúng ta đang nghiên cứu; dùng các tài liệu này để tham khảo chứ không để thay thế hiên tượng lịch sử khách quan mà chúng ta đang nghiên cứu. Và như vậy, trong việc giảng dạy lịch sử có những khó khăn nhất định, song xét từ góc độ khác, nó cũng mang lại cho việc giảng dạy lịch sử những ưu thế mà bộ môn khác không thể có được; chẳng hạn, nó rất có ích cho chúng ta bồi dưỡng trí tượng tượng của học sinh (tất nhiên trí tưởng tượng tái tạo này khác với sự tưởng tượng sáng tạo, hư cấu trong văn học nghệ thuật, tuy rằng cả hai loại tưởng tượng đều xuất phát từ hiện tượng khách quan và phản ánh sự chân thực của quá khứ với những hình thức, phương tiện phù hợp với bộ môn). * Tính không lặp lại Tri thức lịch sử nhìn chung mang tính không lặp lại về thời gian và cả không gian. Mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử chỉ xảy ra trong một thời gian và không gian nhất định, trong những thời gian và không gian khác nhau. Không có một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào xảy ra cùng thời điểm, trong các thời kì khác nhau là hoàn toàn giống nhau; dù có điểm giống nhau; lặp lại mà là sự kế thừa, phát triển, “sự lặp lại trên cơ sở không lặp lại” [5]. Đời sống của xã hội loài người, cũng như của mỗi dân tộc trong quá trình phát triển lịch sử của mình đã trải qua những sự thay đổi lớn lao. Tất cả mọi lĩnh vực từ trình độ sản xuất, chế độ chính trị, quan hệ xã hội, đến ăn, ở, đi lại, tư tưởng triết lí, đạo đức đều đã trải qua những biến cố không ngừng. Chính điều này buộc các nhà giảng dạy lịch sử khi trình bày một sự kiện, hiện tượng nào đó trong lịch sử phải xem xét tính cụ thể gian và cả về thời gian 9 và không gian làm nảy sinh sự kiện, hiện tượng đó. Qua đó nhận thấy các sự kiện lịch sử cụ thể, riêng biệt song có mối quan hệ với kế thừa. * Tính cụ thể Lịch sử là khoa học nghiên cứu tiến trình lịch sử cụ thể của các nước, các dân tộc khác nhau và quy luật của nó. Mặt khác các quốc gia, các dân tộc khác nhau sống trên những khu vực khác nhau, tuy bị những quy luật chung, trải qua quá trình phát triển, trình độ sản xuất không ngừng nâng cao, đời sống văn hóa tinh thần của con người ngày càng phong phú, đa dạng nhưng tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc không hoàn toàn giống nhau. Ví dụ: Các Việt Nam trải qua tiến trình lịch sử từ thời nguyên thủy, xã hội phong kiến, rồi đến xã hội chủ nghĩa song ở một số nước tư bản như Pháp, Mĩ lại có chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ tư bản chủ nghĩa nó không nhảy vọt như nước ta. Thậm chí cùng một loại hình kinh tế - xã hội, các dân tộc, quốc gia khác nhau cũng có các mặt kinh tế, thể chế nhà nước, hình thái ý thức khác nhau, mang sắc thái riêng. Chính đặc điểm này đòi hỏi việc trình các sự kiện, hiện tượng lịch sử càng cụ thể bao nhiêu, càng sinh động bao nhiêu lại càng hấp dẫn bấy nhiêu. Ví dụ: Chế độ phong kiến ở Việt Nam khác với chế độ phong kiến ở Trung Quốc. * Tính hệ thống Khoa học lịch sử vừa bao gồm các sự kiện hiện tượng về cơ sở kinh tế đấu tranh xã hội, vừa bao gồm nội dung của kiến trúc thượng , tình hình sản xuất và quan hệ sản xuất…Nội dung tri thức lịch sử như vậy rất phong phú, đề cập tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội loài người, bao gồm cả chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật v.v…Phân môn lịch sử ở trường Tiểu học tuy giản lược song cũng phải bao quát được các mặt đó. Những nội dung tri thức lịch sử đó lại có mối quan hệ chằng chịt, phức tạp. 10 Điều này đòi hỏi người giáo viên phải luôn luôn chú ý đến mối quan hệ ngang dọc, trước sau của vấn đề lịch sử cũng như mối quan hệ ngang, nội tại giữa các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa để cung cấp cho học sinh những tri thức lịch sử khoa học mang tính hệ thống và hoàn chỉnh, nêu được cái lôgic (cái bản chất, cái lõi của lịch sử), dễ hiểu (cái lôgic). * Tính thống nhất giữa “sử” và “luận” Sử học là một ngành của khoa học xã hội. Nó xuất hiện từ rất sớm. Từ trước đến nay, nhiều quốc gia, nhiều dân tộc trên thế giới đã xuất hiện nhiều sử gia nổi tiếng. Họ ghi chép lại nhiều sự kiện lịch sử và hiện tượng lịch sử mà họ cho rằng có ý nghĩa quan trọng, nhằm để lại cho hậu thế những trước tác lịch sử quí báu. Họ đã tích lũy được những tư liệu lịch sử phong phú và cũng trình bày những quan điểm tư tưởng về sử học và phương pháp giải quyết những vấn đề lịch sử. Những ghi chép về quá trình phát triển xã hội loài người từ những góc độ khác nhau đó đều là những nội dung quan trọng của di sản văn hóa nhân loại. Thế nhưng, lí luận lịch sử cũng như quan điểm lịch sử trước khi có chủ nghĩa Mác, về cơ bản đều xuất phát từ lập trường bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột. C. Mác và Ph. Ăngghen là những người đầu tiên vạch ra được quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội loài người. Các ông đứng trên lập trường của giai cấp vô sản, vận dụng những nguyên lí của chủ nghĩa duy vật biện chứng giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, từ đó vạch ra quá trình nói chung của sự phát triển tuần tự các hình thái kinh tế xã hội, đã chứng minh: lao động sản xuất và đấu tranh giai cấp là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của xã hội, rằng quần chúng nhân dân là người sáng tạo thực sự của lịch sử. Và như vậy, sử học mới bắt đầu trở thành một khoa học thực sự, chân chính. Mặt khác, do mục tiêu lí tưởng đấu tranh của giai cấp vô sản cùng với sự phát triển hợp qui luật của lịch sử mà nhân dân lao động, và giai cấp vô sản đã trân trọng sự thật lịch sử, đấu tranh cho quan điểm, đường lối của giai cấp vô sản mà đại diện là Đảng Cộng sản chân chính theo chủ nghĩa Mác. Vì vậy, việc nghiên cứu và dạy học lịch sử đấu tranh chống sự xuyên tạc lịch sử của các giai 11 cấp bóc lột cần dựa vững chắc vào những nguyên lí của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để quan sát, nghiên cứu quá trính phát triển của xã hội loài người thì những nhận định, kết luận rút ra mới đảm bảo tính khoa học, vận dụng có hiệu quả vào cuộc sống. Từ đặc điểm này mà trong giảng dạy lịch sử người giáo viên phải đảm bảo sự thống nhất giữa trình bày sự kiện với giải thích bình luận. Mọi giải thích, bình luận đều phải xuất phát từ sự kiện lịch sử cụ thể chính xác, đáng tin cậy và không có sự kiện, hiện tượng nào không được giải thích làm sáng tỏ bản chất của sự kiện hiện tượng đó. Đó là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính đảng của nghiên cứu và dạy học lịch sử theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. 1.1.2.2. Đặc điểm của nhận thức lịch sử Quá trình học tập lịch sử cũng như một quá trình nhận thức cho nên việc nhận thức môn học này cũng tuân thủ theo quy luật chung của nhận thức: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về với thực tiễn. Song xuất phát từ những đặc trưng của môn lịch sử mà quá trình nhận thức lịch sử cũng có những đặc điểm riêng. Trong học tập lịch sử, học sinh không thể trực tiếp quan sát (trực quan sinh động) đối tượng nghiên cứu như trong học tập các mon khoa học tự nhiên. Trong việc học tập lịch sử, không thể tiến hành các thí nghiệm để tái hiện lịch sử quá khứ khách quan (trừ một vài trường hợp đặc biệt, với những hình thức phù hợp với bộ môn, như đóng vai, diễn kịch, tranh ảnh….). Nhận thức lịch sử bao giờ cũng phức tạp vì con người là một bộ phận không thể tách rời được của đối tượng nghiên cứu – xã hội loài người. Chương trình lịch sử cấu tạo các sự kiện từ quá khứ đến hiện tại, mà trình độ nhận thức phù hợp với trình độ học sinh phải từ gần đến xa do đó học sinh dễ rơi vào tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử. Do những đặc điểm như vậy, quá trình lịch sử bắt đầu từ việc nắm các sự kiện. Khoa học chân chính khác với các quan niệm duy tâm ở chỗ nó dựa trên các sự kiên chân thực: “Bất cứ lĩnh vực khoa học trong lĩnh vực tự nhiên cũng như xã hội, lịch sử phải xuất phát từ sự kiện chúng ta biết được” [5]. 12 Từ những điều đã nói ở trên việc tổ chức dẫn dắt học sinh tạo biểu tượng lịch sử là cái chốt để đi vào khám phá lịch sử. 1.1.2.3. Khái quát về biểu tượng Biểu tượng là khái niệm được giải thích ở các mức độ và lĩnh vực nhận thức khác nhau. Theo tâm lí học, biểu tượng là biểu tượng của kí ức. Tức là những hình ảnh của các sự vật, hiện tượng không phải đang được tri giác mà là đã được tri giác trước đây. Trong quá trình tri giác thế giới khách quan, con người phản ánh sự vật và hiện tượng xung quanh mình dưới dạng các hình ảnh và sự phản ánh đó mang tính trực quan. Các hình ảnh trực quan đó luôn tác động lên các cơ quan thụ cảm khác nhau của hệ thần kinh con người và được duy trì một khoảng thời gian nhất định trong ý thức của họ. Với quan niệm trên P. A. Ruđích cho rằng biểu tượng là “Những sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh được giữ lại trong ý thức và hình ảnh trên cơ sở tri giác và cảm giác xảy ra trước đó” [5]. Tuy nhiên, trong thưc tế các biểu tương thường mê nhát hơn các tri giác và những dấu hiệu về các sự vật, hiện tượng đã tri giác được có thể không có trong biểu tượng. Quá trình tri giác luôn mang tính trực quan cụ thể. Các hình ảnh của biểu tượng phản ánh đặc điểm bên trong của sự vật.Đó là nhận thức của hoạt động tư duy. Như vậy, theo tâm lí học biểu tượng là những hình ảnh trực quan nảy sinh trong não người về những sự vật và hiện tượng đã được tri giác trước đây. Do đặc trưng của nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không bắt đầu từ trực quan sinh động. Vì lịch sử là những cái đã qua, không thể trực tiếp quan sát quá khứ cũng như tái tạo lại nó trong phòng thí nghiệm như toán học … Bởi vậy, việc học tập lịch sử phải bắt đầu từ việc nắm các sự kiện và tạo biểu tượng lịch sử. Trong học tập lịch sử không có biểu tượng nảy sinh từ trực giác đối với các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Mà việc hình thành nên những biểu tượng lịch sử phải dựa trên những sự kiện, hiện tượng đã được con người nhận thức từ trước để nhằm tái tạo lại một cách chính xác và sinh động. Ví dụ: Khi tạo biểu tượng lịch sử về không gian địa lí Điện Biên Phủ trong chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. Chúng ta không được trực tiếp 13 quan sát trận địa Điện Biên Phủ tại thời điểm đó giữa ta và địch như thế nào. Muốn tạo biểu tượng chúng ta phải sử dụng những hình ảnh, ghi chép lại…khi đó biểu tượng lịch sử sẽ được hình thành dựa trên cơ sở của sự tri giác gián tiếp. Với những quan điểm trên , có thể định nghĩa biểu tượng lịch sử “Là hình ảnh về những sự kiện, nhân vật lịch sử, điều kiện địa lý v.v… được phản ánh trong óc học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất” [5]. Như vậy, nội dung của một sự kiện lịch sử được học sinh nhận thức thông qua việc tạo nên hình ảnh về quá khứ, bằng những hoạt động của các giác quan: thị giác tạo nên những hình ảnh trực quan, thính giác đem lại những hình ảnh về quá khứ thông qua lời giảng của giáo viên… Cũng như biểu tượng nói chung, biểu tượng lịch sử tái hiện những đặc trưng cơ bản của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Tuy nhiên, việc tạo biểu tượng lịch sử cho học sinh không chỉ dừng lại ở miêu tả bề ngoài mà còn đi sâu vào bản chất sự kiện, nêu đặc trưng, tính chất của sụ kiện để tiến tới việc nắm khái niệm lịch sử. Vì vậy, biểu tượng lịch sử rất gần với khái niệm sơ đẳng (còn gọi là khái niệm đơn giản). Nói cách khác, biểu tượng lịch sử là cơ sở để hình thành khái niệm.  Các loại biểu tượng với học sinh tiểu học Có nhiều cách phân lọai biểu tượng lịch sử. Cụ thể các biểu tượng sau: - Biểu tượng về hoàn cảnh địa lý Một sự kiện lịch sử bao giờ cũng diễn ra trong một không gian nhất định. Không gian của sự kiện có thể là một khu vực rộng lớn hoặc diễn ra ở phạm vi hẹp như địa điểm của một trận đánh hay một cuộc khởi nghĩa. Vì vậy tạo biểu tượng về hoàn cảnh địa lý nơi xảy ra sự kiện là yêu cầu trong dạy học lịch sử để xác định không gian lịch sử. - Biểu tượng về văn hóa vật chất Đó là những hình ảnh về những thành tựu của loài người trong việc chế ngự thiên nhiên, trong lao động sáng tạo sản xuất ra của cải vật chất cũng như văn hóa tinh thần của xã hội loài người. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan