Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện vị xu...

Tài liệu Tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện vị xuyên, tỉnh hà giang.

.PDF
104
1082
88

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI N U ỄN SON N ỌC THAM VẤN CHO CHA MẸ TRONG GIÁO DỤC TRẺ EM TỪ 11 TUỔI ĐẾN 14 TUỔI TẠI HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG Ngành: Công tác xã hội Mã số: 876 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔN TÁC XÃ HỘI N ƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS NGUYỄN HỮU MINH HÀ NỘI, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Song Ngọc MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1. NHỮN TRON VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THAM VẤN CHO CHA MẸ IÁO DỤC TRẺ EM TỪ 11 TUỔI ĐẾN 14 TUỔI...................... 11 1.1. CÁC KHÁI NIỆM CHÍNH .......................................................................... 11 1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƢỚC VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC GIA ĐÌNH.. 19 1.3. LÝ THUYẾT CÔNG TÁC XÃ HỘI ỨNG DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU ............. 22 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VỀ THAM VẤN CHO CHA MẸ TRON IÁO DỤC TRẺ EM TỪ 11 TUỔI ĐẾN 14 TUỔI TẠI HU ỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ IAN .......................................................................... 26 2.1 ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU ................ 26 2.2 THỰC TRẠNG VỀ GIÁO DỤC TRẺ EM TỪ 11 TUỔI ĐẾN 14 TUỔI TẠI HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG ............................................................................... 27 2.3 THỰC TRẠNG VỀ THAM VẤN CHO CHA MẸ TRONG GIÁO DỤC TRẺ EM TỪ 11 ĐẾN 14 TUỔI TẠI HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG.................................... 51 Chƣơng 3. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG THAM VẤN CHO CHA MẸ TRONG GIÁO DỤC TRẺ EM TỪ 11 ĐẾN 14 TUỔI TẠI HUYỆN VỊ XUYÊN, TỈNH HÀ GIANG ............. 67 3.1. VỀ CHỦ TRƢƠNG, CHÍNH SÁCH ............................................................... 67 3.2. VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG LĨNH VỰC GIA ĐÌNH ............................................................................................................. 68 3.3 VỀ TRUYỀN THÔNG NÂNG CAO NHẬN THỨC ............................................ 69 3.4 VỀ TĂNG CƢỜNG MỐI QUAN HỆ GIỮA GIA ĐÌNH, NHÀ TRƢỜNG VÀ XÃ HỘI 71 KẾT LUẬN .................................................................................................... 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 81 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Phân chia trách nhiệm chính giữa vợ và chồng trong chăm sóc, giáo dục con .............................................................................................................................28 Bảng 2.2: Tỷ lệ cha mẹ dạy con biết quý trọng sức lao động và cách sử dụng đồng tiền .............................................................................................................................40 Bảng 2.3: Tỷ lệ cha mẹ dạy con nhận biết thủ đoạn lừa đảo, buôn bán và bắt cóc ..44 Bảng 2.4: Tỷ lệ cha mẹ giáo dục, răn đe con tránh xa các tệ nạn xã hội, trò chơi game, quán internet ...................................................................................................45 Bảng 2.5: Nguồn cung cấp thông tin, kiến thức về giáo dục gia đình ......................61 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Vai trò của cha, mẹ trong định hƣớng nghề nghiệp, chọn trƣờng cho con phân theo trình độ học vấn (%) .........................................................................32 Biểu đồ 2.2: Hoạt động phổ biến kiến thức nuôi dạy, giáo dục con của Hội phụ nữ (%) .............................................................................................................................56 Biểu đồ 2.3: Hoạt động phổ biến kiến thức tổ chức cuộc sống gia đình của Hội phụ nữ (%) ........................................................................................................................57 Biểu đồ 2.4: Hoạt động cung cấp tài liệu truyền thông của Hội phụ nữ (%) ............58 Biểu đồ 2.5: Hoạt động hỗ trợ phụ nữ vay vốn của Hội phụ nữ (%) .......................60 Biểu đồ 2.6: Hoạt động “Hỏi chuyên gia tƣ vấn, tham vấn” phân theo trình độ học vấn cha mẹ (%) ..........................................................................................................62 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gia đình là chiếc nôi để hình thành, giáo dục, nuôi dƣỡng nhân cách của mỗi con ngƣời. Gia đình trong xã hội hiện đại ngày nay càng có vai trò quan trọng, từ định hƣớng, nuôi dƣỡng nhân cách cũng nhƣ giáo dục con ngƣời từ khi sinh ra đến lúc trƣởng thành, trở thành những công dân có ích đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của xã hội. Trong bối cảnh xã hội phát triển và hội nhập, gia đình Việt Nam đang có những biến đổi mạnh mẽ về cấu trúc, hình thái, quy mô và các mối quan hệ trong gia đình, trong đó có mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Trẻ em ở lứa tuổi vị thành niên (từ 10 – 19 tuổi) là giai đoạn phát triển đặc biệt, là thời kỳ chuyển tiếp và trƣởng thành của “trẻ em” để trở thành “ngƣời lớn”. Giai đoạn này diễn ra hàng loạt những thay đổi về cơ thể, thay đổi về tâm lý và cả về các mối quan hệ xã hội. Cụ thể hơn, trẻ em từ 11 đến 14 tuổi là độ tuổi có nhiều sự xáo trộn trong tâm sinh lý và các mối quan hệ xung quanh. Vì vậy, trẻ ở độ tuổi này rất cần sự quan tâm, giáo dục, định hƣớng của cha mẹ và các thành viên trong gia đình. Cho đến nay, việc tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ vẫn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức. Nhiều cha mẹ hiện đại rơi vào tình cảnh “hoang mang khi dạy con” - không biết dạy nhƣ thế nào cho phù hợp. Những giá trị, chuẩn mực truyền thống đã và đang bị tác động, thay đổi, xen lẫn với những chuẩn mực, hành vi của xã hội mới. Cha mẹ gặp phải những khó khăn, rào cản trong quá trình giao tiếp với trẻ, giáo dục, định hƣớng cho trẻ. Cha mẹ không biết phải bắt đầu từ đâu, làm nhƣ thế nào và không tìm kiếm đến sự hỗ trợ của những nhà chuyên môn để giải quyết vấn đề của mình. Cha mẹ thƣờng tìm hiểu thông tin qua mạng, hoặc thông qua những cha mẹ khác có cùng vấn đề và tự tạo ra cách thức can thiệp với con mình nhƣng chƣa đem lại những kết quả khả quan và phù hợp. 1 Tham vấn là hoạt động trợ giúp có ý nghĩa lớn lao với mỗi cá nhân, gia đình. Việc tham vấn cho cha mẹ theo hƣớng cung cấp kiến thức, phƣơng pháp và kỹ năng cho cha mẹ trong giáo dục trẻ từ 11 đến 14 tuổi là rất cần thiết để giúp cha mẹ thay đổi hành vi của mình trong ứng xử, giao tiếp với con và hỗ trợ cha mẹ trong việc giáo dục trẻ. Vị Xuyên là một huyện miền núi biên giới phía Bắc Việt Nam, nằm bao quanh thành phố Hà Giang. Đời sống kinh tế - xã hội của ngƣời dân còn gặp nhiều khó khăn, trình độ học vấn thấp, nhận thức của dân cƣ về vấn đề giáo dục, chăm sóc trẻ em còn nhiều hạn chế. Nhiều cha mẹ bận rộn làm kinh tế chƣa thực sự quan tâm, dành thời gian giáo dục con cái, đặc biệt là khi trẻ bƣớc vào độ tuổi từ 11 – 14 tuổi. Đồng thời, cho đến nay còn ít các nghiên cứu về chủ đề này đối với các bậc cha mẹ thuộc dân tộc thiểu số từ góc độ công tác xã hội.. Với lý do đó, tôi chọn đề tài “Tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang” để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1 Một số nghiên cứu về tham vấn Ngay từ buổi sơ khai, khi cá nhân hay gia đình có vấn đề và không tự giải quyết đƣợc, họ thƣờng tìm tới những ngƣời đƣợc xem là có uy tín, có kinh nghiệm. Khi này sự trợ giúp thƣờng là lời khuyên hay giải pháp cho vấn đề của họ. “Nhà tham vấn” ở đây có thể là ngƣời lớn tuổi hơn, ngƣời có kinh nghiệm, ngƣời đứng đầu nơi họ sinh sống… Cùng với sự phát triển của khoa học, sự trợ giúp có tính chuyên nghiệp dần đƣợc hình thành. Thuật ngữ Counseling (tham vấn) đƣợc sử dụng lần đầu tiên bởi Jesse B.Davis, khi ông thiết lập trung tâm tham vấn hƣớng nghiệp giáo dục tại Detroit (Hoa Kỳ) năm 1898[15, tr.46]. Vào những năm cuối của thế kỷ XIX, qua quá trình trợ giúp những gia đình nghèo khổ, ngƣời ta nhận thấy sự giúp đỡ đơn thuần bằng vật chất đã không đem lại kết quả nhƣ mong muốn. Việc sử dụng các cuộc thăm hỏi thân thiện, tiếp cận trực tiếp và trao đổi trò chuyện nhằm tìm hiểu nhu cầu, hoàn 2 cảnh của họ đã tỏ ra khá hiệu quả. Kết quả từ phƣơng pháp này đã góp phần làm thay đổi hình thức giúp đỡ[15, tr.47]. Một nhu cầu xã hội khác đã tham gia vào thúc đẩy sự phát triển cả về lý luận cũng nhƣ thực tiễn của tham vấn đó là tƣ vấn hƣớng nghiệp. Tƣ vấn hƣớng nghiệp là một trong những lĩnh vực có lịch sử phát triển sớm nhất so với các lĩnh vực tham vấn chuyên sâu khác. Frank Parsons (1854 – 1908) là ngƣời đánh dấu cho sự ra đời của chuyên ngành hƣớng dẫn tƣ vấn nghề nghiệp ở Mỹ. Bắt đầu từ một nhà công tác xã hội, F. Parsons thành lập văn phòng làm việc tại Boston – Mỹ với mục đích hỗ trợ cá nhân lựa chọn đƣợc một nghề, chuẩn bị cho họ một nền tảng để khởi xƣớng sự nghiệp có hiệu quả. Những ƣớc vọng của F. Parsons không chỉ dừng lại của định hƣớng nghề nghiệp mà còn phát triển thành một lý thuyết. Các nguyên tắc của Parsons đƣa ra trong hƣớng nghiệp dƣờng nhƣ trở thành nguyên lý cơ bản cho tham vấn ngày nay. Chính điều này đã tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển rầm rộ của ngành hƣớng dẫn tƣ vấn nghề [15, tr.48]. Những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỉ XX, Tham vấn phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh ba hƣớng tiếp cận chính là tiếp cận phân tâm học (Freud), tiếp cận trực tiếp (Williamson) và tiếp cận thân chủ trọng tâm (Rogers), thời kỳ này có thêm sự ra đời của vô số các cách tiếp cận mới nhƣ của Albert Ellis (1957) về phép trị liệu hành vi cảm xúc (Rational Emotive Therapy) giới thiệu cách thức trợ giúp đối tƣợng xóa bỏ những niềm tin phi lý, hành vi tiêu cực; Frederick Perls với phép trị liệu Gestalt (Gestalt Therapy – 1969) tập trung vào kinh nghiệm hiện tại và việc nâng cao nhận thức của đối tƣợng. Các hƣớng tiếp cận tham vấn này đã giúp ích cho sự phát triển rực rỡ của ngành tham vấn trong giai đoạn đó. Vào nửa giữa thế kỷ XX, ảnh hƣởng của sự phát triển của các khoa học xã hội khác nhau nhƣ xã hội học đã khiến cho ngƣời ta xem xét con ngƣời trong bối cảnh xã hội và với sự ảnh hƣởng của nó. Do vậy những hƣớng nghiên cứu trong tham vấn cũng đƣợc thay đổi. Khi này các nghiên cứu trong tham vấn đã quan tâm nhiều hơn tới việc trợ giúp cá nhân trong bối cảnh của 3 nhóm xã hội. Cũng từ đây các lý thuyết tiếp cận trong tham vấn gia đình và tham vấn nhóm ra đời. Các mô hình can thiệp cấu trúc gia đình, mô hình học tập xã hội, mô hình can thiệp tập trung vào giải pháp, mô hình can thiệp hệ thống gia đình hay cách tiếp cận năng động tâm lý và giao tiếp trong gia đình lần lƣợt đƣợc ra đời (C. Kilpatrick & Thomas P. Holland, 1993; Ackerman và Satir, M. Bowen, 1959) [15, tr.51]. Tóm lại, hoạt động tham vấn mang tính chuyên nghiệp trên thế giới đã phát triển và đƣợc ứng dụng phổ biển nhằm đáp ứng nhu cầu về bảo vệ sức khỏe tâm thần và nâng cao chất lƣợng cuộc sống của các cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, tham vấn tâm lý đang là một ngành khoa học tƣơng đối mới và chƣa có nhiều nghiên cứu có giá trị ứng dụng cao. Hoạt động tham vấn tâm lý thƣờng đƣợc tích hợp vào trong các vai trò của các bác sĩ, nhất là những bác sĩ tâm thần và bác sĩ nhi khoa. Nhìn từ lịch sử ngành Công tác xã hội, trƣớc năm 1945 tại một số bệnh viện ở phía Bắc nhƣ Bệnh viện Bạch Mai đã có mặt của một số cán sự xã hội và họ sử dụng kỹ năng công tác xã hội trong đó có tham vấn vào quá trình trợ giúp bệnh nhân chữa trị tại bệnh viện. Ở phía Nam, trƣớc những năm 1975, cùng với hoạt động công tác xã hội theo hƣớng chuyên nghiệp thì hoạt động tham vấn cho cá nhân, gia đình tại cộng đồng cũng đã đƣợc triển khai. Nội dung đào tạo tham vấn cũng đƣợc đề cập tới trong chƣơng trình đào tạo cán sự xã hội phía Nam vào thời gian này. Các hoạt động công tác xã hội theo hƣớng chuyên nghiệp trong đó có tham vấn dƣờng nhƣ chững lại sau năm 1975. Đến cuối những năm 80 và đầu 90 của thế kỷ XX, công tác xã hội chuyên nghiệp đƣợc phát triển trở lại [15, tr.53]. Các hình thức tƣ vấn/tham vấn tâm lý trên đài, điện thoại và báo chí cũng đƣợc áp dụng ở nƣớc ta trong nhiều năm qua. Các chuyên mục nhƣ chị Thanh Tâm, chị Hạnh Dung trong các báo Phụ nữ; Cửa sổ tình yêu trên Đài Tiếng nói Việt Nam; tƣ vấn qua điện thoại nhƣ Đƣờng dây nóng 1088, đƣờng dây nóng bảo vệ trẻ em 111 … cũng đã đem lại những thông tin, câu trả lời 4 chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất định. Đặc biệt với nhu cầu bức xúc về tƣ vấn tâm lý, kiến thức, kỹ năng giải quyết các vấn đề trong cuộc sống, có khá nhiều trung tâm đã đƣợc thành lập và đi vào hoạt động nhƣ Trung tâm Tƣ vấn tâm lý, Trung tâm Giáo dục tình yêu hôn nhân – gia đình, Trung tâm Tƣ vấn Phụ nữ - Trẻ em và Gia đình của Hội phụ nữ quản lý ở các địa phƣơng, tỉnh/thành trong cả nƣớc. Có thể nói, các hình thức dịch vụ xã hội trên đã nhanh chóng đáp ứng phần nào nhu cầu cần thiết về tham vấn tâm lý, tham vấn kiến thức và kỹ năng, góp phần giải quyết các vấn đề tâm lý, mối quan hệ xã hội của cá nhân, gia đình cũng nhƣ nhiều đối tƣợng khác trong xã hội. Nói tóm lại, nhu cầu tham vấn ngày một tăng và nhận đƣợc nhiều sự quan tâm ủng hộ. Tuy nhiên, cũng cần phát triển hoạt động này theo hƣớng bài bản, chuyên môn, chuyên nghiệp, góp phần đáp ứng nhu cầu của một bộ phận trong xã hội nhằm nâng cao chất lƣợng cuộc sống cho cá nhân, gia đình và cộng đồng. 2.2 Một số nghiên cứu về vai trò của cha mẹ trong giáo dục con Trên thế giới đã có nhiều công trình, bài viết, nghiên cứu về vai trò của cha mẹ trong giáo dục con: Trong các công trình "Giáo dục trong gia đình Mác" của Petrecnhicova (1977); "Giáo dục các con trong gia đình" của Ambacdian (1977); "Nói chuyện về giáo dục gia đình" của A.Macarenco (1978)… khẳng định việc giáo dục con cái trong gia đình phải đƣợc bắt đầu ngay từ thời thơ ấu. Nếu công tác giáo dục gia đình không đƣợc thực hiện sớm, việc “cải tạo” sẽ tốn hơn rất nhiều công sức không chỉ của gia đình, mà cả xã hội phải quan tâm. Trong "Dạy con yêu lao động" (1980) của I.A-Pesecnicova đã khẳng định: Muốn cho con cái của chúng ta lớn lên đƣợc mạnh khỏe, vui tƣơi, yêu đời và cống hiến đƣợc nhiều cho xã hội, thì lúc còn nhỏ phải đƣợc giáo dục về lao động (lao động học tập, lao động gia đình và lao động xã hội...) bởi phẩm chất đạo đức hình thành ở trẻ em, trƣớc hết là trong quá trình lao động. Với xã hội phƣơng Tây các nghiên cứu về gia đình với các quan điểm 5 nhƣ "Thuyết đạo đức tương đối", "Hôn nhân không con", "Cha mẹ công nghiệp", "Gia đình thoáng qua"... lƣu hành khá phổ biến, trong đó tiêu biểu có quan điểm của Alvin Toffler trong cuốn "Làn sóng thứ ba", đã khái quát: Đại gia đình gia trƣởng là hình thức gia đình của nền văn minh nông nghiệp, gia đình một vợ một chồng với một đến hai con là hình thức của gia đình văn minh công nghiệp, còn nền văn minh hậu công nghiệp sẽ có nhiều hình thức gia đình... Alvin Toffler và những ngƣời theo lí thuyết ấy cho rằng, mọi giá trị đã có là chủ quan, cá nhân có quyền lựa chọn bình đẳng, trong nền văn minh thứ ba sẽ không có một hình thức gia đình nào giữ yếu tố chủ đạo, mà sẽ bao gồm nhiều hình thức: gia đình đa phụ mẫu, gia đình đoàn thể, gia đình có 2 đàn ông hoặc 2 phụ nữ (gia đình đồng tính) [1]. Với một số nghiên cứu nêu trên, cho thấy tầm quan trọng của công tác giáo dục gia đình trong quá trình hình thành, phát triển nhân cách của trẻ. Các nghiên cứu đề cập một cách chung chung, mà không phân chia theo từng giai đoạn của trẻ em để nghiên cứu, phân tích; đƣa ra những khó khăn của cha mẹ gặp phải trong quá trình giáo dục trẻ ở những độ tuổi khác nhau; để từ đó đề xuất các giải pháp hỗ trợ, tham vấn cho cha mẹ nhằm tháo gỡ những khó khăn này. Tại Việt Nam, một số công trình tiêu biểu đƣợc phân chia thành 2 nhóm: Nhóm thứ nhất, về vai trò của các thành viên trong gia đình với giáo dục con cái với các công trình nhƣ “Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay” (2000) của tác giả Nghiêm Sĩ Liêm; “Gia đình Việt Nam và phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của tác giả Đỗ Thị Bình… chủ yếu tập trung nghiên cứu về vai trò của từng thành viên, ƣu điểm nổi trội của họ đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, chứ chƣa đi sâu nghiên cứu vai trò của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ. Nhóm thứ hai, về gia đình và vai trò của gia đình với các công trình nhƣ: - “Khoa học giáo dục con em trong gia đình” của Ủy ban Thiếu niên nhi đồng Trung ƣơng (1979) giới thiệu một số quan điểm về giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh vai trò, đặc điểm của giáo dục gia đình, cung cấp 6 những cơ sở lí luận, những nội dung và yêu cầu của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ. - “Dạy con nên người” của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (1991) cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu biết cần thiết về gia đình, về trách nhiệm làm cha, làm mẹ trong việc giáo dục con cái nên ngƣời, trên những mặt cơ bản của nội dung giáo dục: Đức, trí, thể, mỹ và lao động, mà các thế hệ làm cha mẹ luôn luôn hƣớng tới. - Công trình “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình” của Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ (1994) nghiên cứu về gia đình Việt Nam và việc thực hiện các chức năng của gia đình, một số vấn đề chủ yếu trong nghiên cứu gia đình Việt Nam. Những vấn đề lý luận, phƣơng pháp luận của việc thực hiện các chức năng của gia đình Việt Nam hiện nay, những vấn đề kiến nghị về chính sách đối với vai trò của giáo dục gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con ngƣời Việt Nam… - “Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam”, (1996) do giáo sƣ Lê Thi làm chủ biên đề cập đến vai trò của gia đình trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong những năm cuối thế kỷ XX đang đem đến những tiến bộ vƣợt bậc cho cuộc sống của cá nhân, gia đình, xã hội cả về vật chất và tinh thần. Bên cạnh những tiến bộ vƣợt bậc do con ngƣời tạo ra, thì hàng loạt những sai lầm, thiếu hụt, những hành động dã man, điên cuồng, những tệ nạn xấu xa, nguy hiểm đang tồn tại trên khắp thế giới... cũng lại do con ngƣời gây ra. Hậu quả đó đang làm cho hàng triệu gia đình tan tác, chia ly, cùng khổ. Tác giả khẳng định, sự phát triển ổn định của xã hội không thể tách rời sự phát triển của con ngƣời và vai trò của gia đình trong việc bồi dƣỡng, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng nhân cách con ngƣời… Tuy nhiên, hiện tại chƣa có nhiều nghiên cứu tập trung đi sâu vào phân tích thực trạng, những khó khăn của cha mẹ việc giáo dục con tuổi 11 - 14 giai đoạn trẻ cần sự quan tâm và định hƣớng từ gia đình và cha mẹ cần đƣợc cung cấp kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm trong quá trình giáo dục trẻ, để cha mẹ có thể làm bạn, đồng hành cùng trẻ ở giai đoạn này nói chung và đối với 7 các gia đình ở miền núi nói riêng. Từ đó, việc nghiên cứu về vấn đề tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục con tại một huyện miền núi nhƣ Vị Xuyên (thuộc tỉnh Hà Giang) là rất cần thiết và đóng vai trò quan trọng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu thực trạng và hiệu quả các hoạt động có liên quan đến tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang; Từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả của tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan đến vấn đề tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em (tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi, nội dung tham vấn, kỹ năng tham vấn); các văn bản quy định của Nhà nƣớc Việt Nam về công tác giáo dục gia đình. - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng về giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi và hoạt động tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. - Nghiên cứu, đánh giá hiệu quả các hoạt động tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi của chính quyền địa phƣơng, các đoàn thể trong đó có Hội phụ nữ tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. - Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả trong công tác giáo dục gia đình nói chung và tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi nói riêng tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang và nhân viên công tác xã hội làm việc với cha mẹ. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang 8 4.2 Khách thể nghiên cứu - Cha mẹ có con từ 11 đến 14 tuổi - Trẻ em từ 11 đến 14 tuổi - Cán bộ địa phƣơng (đại diện chính quyền/đoàn thể) 4.3 Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi thời gian: từ tháng 3 đến hết tháng 7/2018 - Phạm vi không gian: xã Đạo Đức và thị trấn Vị Xuyên, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp nghiên cứu, văn bản tài liệu Phân tích, tổng hợp, hệ thống các tài liệu sẵn có từ nguồn tài liệu chính thức, từ các công trình nghiên cứu của các tác giả trƣớc đây, từ báo cáo của địa phƣơng, Hội phụ nữ… Tham khảo, sử dụng số liệu từ báo cáo kết quả nghiên cứu đánh giá nhận thức và thực trạng giáo dục gia đình của Ban Gia đình – Xã hội thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tháng 11 năm 2017. 5.2. Phương pháp điều tra bảng hỏi Khảo sát 134 bảng hỏi với cha mẹ tại 2 xã Đạo Đức và thị trấn Vị Xuyên, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Cuộc khảo sát này do ban Gia đình – Xã hội thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành tháng 11 năm 2017 tại 4 tỉnh Hà Giang, Quảng Bình, Đắc Lắc, Tiền Giang. Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chỉ sử dụng số liệu nghiên cứu tại Hà Giang. Tác giả luận văn là một thành viên tham gia và đƣợc phép sử dụng số liệu thu đƣợc từ khảo sát để phân tích. Những phân tích trong luận văn là kết quả riêng của tác giả luận văn. Đặc điểm của mẫu khảo sát đƣợc trình bày ở chƣơng 2. 5.3. Phương pháp phỏng vấn sâu 08 phỏng vấn sâu (04 cha và mẹ có con từ 11 tuổi đến 14 tuổi; 02 trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi; 02 cán bộ địa phƣơng). 9 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Hệ thống lại một số nghiên cứu về tham vấn, tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục con tuổi vị thành niên, lý thuyết tiếp cận trong công tác xã hội có liên quan đến tham vấn cha mẹ trong giáo dục trẻ từ 11 đến 14 tuổi. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ bản chất hoạt động tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi trên nền tảng của công tác xã hội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài luận văn có 3 chƣơng: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi. Chƣơng 2: Thực trạng về tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Chƣơng 3: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. 10 Chƣơng 1 NHỮN VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THAM VẤN CHO CHA MẸ TRON IÁO DỤC TRẺ EM TỪ 11 TUỔI ĐẾN 14 TUỔI 1.1. Các khái niệm chính 1.1.1. Khái niệm về gia đình Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (sửa đổi năm 2014), gia đình đƣợc định nghĩa là “tập hợp những ngƣời gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dƣỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định của Luật này” (Điều 3 Giải thích từ ngữ). Nhƣ vậy, khái niệm gia đình trong Luật pháp của Việt Nam quy định gia đình bao gồm ba hình thức: quan hệ do hôn nhân, ví dụ nhƣ vợ chồng, quan hệ huyết thống giữa ông bà, cha mẹ và con cái cùng huyết thống và cả quan hệ nuôi dƣỡng, ví dụ nhƣ con nuôi hay bố mẹ nuôi. Tác giả Mai Huy Bích đƣa ra một khái niệm tổng quát về gia đình nhƣ sau: “Gia đình là khái niệm đƣợc sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân (quan hệ tính giao và quan hệ tình cảm) và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha, mẹ, con cái, ông, bà, họ hàng nội ngoại)”. Gia đình có thể hiểu nhƣ một đơn vị xã hội vi mô, nó chịu sự chi phối của xã hội, song có tính ổn định, độc lập tƣơng đối. Nó có quy luật phát triển riêng với tƣ cách một thiết chế xã hội đặc thù. Những thành viên gia đình đƣợc gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi kinh tế, văn hóa, tình cảm một cách hợp pháp, đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận và bảo vệ. Nhƣ vậy, khái niệm về gia đình đƣợc diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau. Những khái niệm này đều chứa đựng những điểm tƣơng đồng về quan hệ hôn nhân, huyết thống. Tuy nhiên, gia đình cần đƣợc hiểu mang tính bao quát không chỉ ở quan hệ hôn nhân, huyết thống mà cả quan hệ nuôi dƣỡng. 11 1.1.2. Khái niệm Trẻ em; Phân chia giai đoạn phát triển của trẻ; Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ giai đoạn từ 11 đến 14 tuổi 1.1.2.1 Khái niệm Trẻ em Công ƣớc Quốc tế về quyền Trẻ em xác định trẻ em có nghĩa là bất kỳ ngƣời nào dƣới 18 tuổi, trừ trƣờng hợp pháp luật có thể đƣợc áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn. Theo Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam (2004): trẻ em là công dân Việt Nam dƣới 16 tuổi; ngƣời chƣa thành niên là ngƣời dƣới 18 tuổi. Theo Điều 1, Luật Trẻ em năm 2016 quy định: Trẻ em là ngƣời dƣới 16 tuổi. Khái niệm nêu trong Luật Trẻ em 2016 đƣợc áp dụng trong luận văn này. 1.1.2.2 Phân chia giai đoạn phát triển của trẻ Erik Erikson – nhà tâm lý học phân tâm, đánh giá cao vai trò của tác nhân xã hội với sự phát triển tâm lý của con ngƣời. Ông chia đời ngƣời thành 8 giai đoạn. Trẻ em có 4 giai đoạn: Giai đoạn 1 (từ 0 – 1 tuổi), Giai đoạn 2 (từ hơn 1 – 3 tuổi), Giai đoạn 3 (từ 3 – 6 tuổi), Giai đoạn 4 (từ 6 – 12 tuổi), Giai đoạn 5: Vị thành niên (từ 13-18 tuổi)… Theo Tổ chức Y tế thế giới, lứa tuổi vị thành niên nằm trong khoảng từ 10 đến 19 tuổi, đƣợc chia thành ba thời kỳ phát triển: Vị thành niên sớm (từ 10 đến 13 tuổi); Vị thành niên giữa (từ 14 đến 16 tuổi); Vị thành niên muộn (từ 17 đến 19 tuổi). Ngoài ra, ngƣời ta còn phân loại hai lớp ngƣời dựa theo tuổi là: Ngƣời trẻ tuổi (từ 10 đến 14 tuổi); Thanh niên (từ 15 đến 24 tuổi). Tuy nhiên sự lớn lên và trƣởng thành ở mỗi cá thể có thể diễn ra với mức độ khác nhau: Có em tuy ở tuổi 15 (lứa tuổi vị thành niên giữa) nhƣng cơ thể đã phát triển và có những hành vi ứng xử nhƣ những em ở lứa tuổi vị thành niên muộn (17 – 19 tuổi); ngƣợc lại, có những em tuy ở tuổi đó nhƣng vẫn chỉ có hành vi ứng xử nhƣ các em ở tuổi vị thành niên sớm. Điều này phụ thuộc vào các yếu tố sinh học (di truyền), tâm lý, các hoàn cảnh xã hội và văn hóa của từng dân tộc, từng vùng miền… Do đó, sự phân chia giai đoạn phát triển của trẻ chỉ có tính chất tƣơng đối. 12 Tóm lại, trong khuôn khổ của đề tài, tác giả sử dụng sự phân chia giai đoạn phát triển của trẻ theo quan điểm của Tổ chức Y tế Thế giới. Trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi đƣợc hiểu trong giai đoạn vị thành niên sớm và đầu của giai đoạn vị thành niên giữa. Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ con sang ngƣời lớn. Biểu hiện nổi bật ở lứa tuổi này là những thay đổi về tâm sinh lý, nhận thức và cảm xúc. 1.1.2.3 Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ giai đoạn từ 11 tuổi đến 14 tuổi Về mặt sinh lý, trẻ ở giai đoạn này có nhiều sự biến đổi nhƣ sự tăng về chiều cao, sự phát triển của các cơ quan sinh sản… khiến ngoại hình các em có những thay đổi. Các hoóc môn tạo nên chiều cao và những biến đổi cơ thể một phần đã đƣợc hình thành ngay từ giai đoạn phôi thai. Nhƣng chúng đƣợc sản sinh mạnh mẽ vào khoảng 10 – 11 tuổi đối với nữ và 12 – 13 tuổi đối với nam tạo sự phát triển bùng phát về chiều cao và thể lực, kèm theo sự thay đổi về tỉ lệ của cơ thể. Tuyến nội tiết dƣới da hoạt động mạnh mẽ dẫn đến việc xuất hiện mụn trứng cá trên mặt, tuyến mồ hôi cũng làm việc tích cực và tạo ra thứ mùi đặc trƣng của cơ thể. Về mặt tâm lý, tình cảm các em bắt đầu có tƣ duy trừu tƣợng, ý thức đƣợc mình không còn là “trẻ con” nữa, muốn đƣợc ngƣời lớn tôn trọng và bắt đầu có những hành động muốn thử sức mình để khám phá những điều mới lạ nhằm khẳng định mình đã lớn. Các em thƣờng quan tâm đến những thay đổi của cơ thể khi so sánh với các bạn cùng lứa (đặc biệt là các em gái), dễ băn khoăn, lo lắng, buồn rầu về những nhƣợc điểm trên cơ thể mình. Ở lứa tuổi này, các em bắt đầu phát triển tƣ duy trừu tƣợng một cách rõ rệt. Thích khám phá, tò mò, thử nghiệm những hành vi liên quan đến tính dục (tính cách thể hiện sự khác biệt giữa nam và nữ). Các em cũng bắt đầu quan tâm đến bè bạn, đặc biệt là bạn khác giới, muốn tách khỏi sự bảo hộ của bố mẹ, gia đình. Trẻ cũng không còn tâm sự với cha mẹ nhiều nhƣ khi còn nhỏ. Tuy nhiên, các em còn quá trẻ, vẫn phải phụ thuộc vào ngƣời lớn. Đôi lúc, trẻ thất vọng, ấm ức vì cha mẹ chƣa nhận thấy mình đã lớn. Điều này khiến trẻ dễ bị những rối loạn liên quan đến cảm xúc và hành vi với những biểu hiện thích chống đối nhƣ: không thích vâng lời cha mẹ, hay lý sự, làm theo 13 ý mình, trốn học, bỏ nhà, hung bạo, muốn khẳng định tính độc lập… Đây là thời kỳ cha mẹ phải luôn quan tâm, gần gũi với con. Nếu cha mẹ ít gần gũi, thiếu giáo dục với con trẻ thì ngay những trẻ rất ngoan cũng dễ trở nên hƣ hỏng hoặc gặp bất trắc. Tuy nhiên, không phải lúc nào sự thay đổi này của trẻ cũng nhận đƣợc sự thấu hiểu và nắm bắt kịp thời từ phía gia đình, cha mẹ và ngƣời lớn. Điều này làm cho các bậc cha mẹ gặp không ít khó khăn trong việc tiếp cận để tìm hiểu, giáo dục con trẻ. Trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi là giai đoạn trẻ phát triển mạnh về cơ thể, thay đổi tâm lý của bản thân nhƣ tâm lý thích phô trƣơng, muốn khẳng định bản thân, dễ bị lôi kéo, dụ dỗ… dẫn đến những hành vi sai lệch trong các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, trẻ ở giai đoạn này rất cần sự chỉ bảo, hỗ trợ, động viên, tình yêu thƣơng của cha mẹ và những ngƣời thân thiết. Cha mẹ cần có cách ứng xử phù hợp để giúp trẻ phát triển và vƣợt qua những khó khăn của giai đoạn này. 1.1.3. Giáo dục gia đình và giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi 1.1.3.1 Giáo dục gia đình Về mặt giải thích thuật ngữ, đƣợc hiểu chung là toàn bộ những tác động của gia đình đối với sự hình thành và phát triển nhân cách con ngƣời, trƣớc hết của lớp trẻ. Trẻ không thể có sự hình thành và phát triển nhân cách một cách đầy đủ và bền vững nếu không có một môi trƣờng giáo dục gia đình thuận lợi. Đó là một dạng giáo dục đặc biệt của xã hội loài ngƣời. Với mỗi cá nhân, quá trình hình thành và hoàn thiện nhân cách đƣợc xây dựng trên cơ sở tiếp nhận kiến thức từ 3 hệ thống giáo dục: Gia đình – Nhà trƣờng – Xã hội. Trong đó, giáo dục gia đình là môi trƣờng đầu tiên, có tính quyết định trong việc hình thành nên tính cách của một đứa trẻ - một con ngƣời. Môi trƣờng giáo dục nhà trƣờng và xã hội là các nhân tố quan trọng giúp định hình và hoàn thiện nhân cách đã có đƣợc từ giáo dục gia đình. Giáo dục gia đình còn bao hàm cả tự giáo dục. Giáo dục gia đình đƣợc thực hiện thông qua cách thức tổ chức đời sống gia đình, quá trình chăm sóc trẻ, tổ chức các hoạt động của trẻ và cơ bản là dựa trên nền tảng của sự gƣơng mẫu, sự nêu gƣơng của các bậc ông bà, cha, mẹ. 1.1.3.2 Giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi 14 Gia đình là nơi thực hiện chức năng giáo dục trẻ. Môi trƣờng gia đình là nơi giúp trẻ em hình thành nhân cách, lối sống và đặc biệt là nhân sinh quan. Theo Điều 72 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 (sửa đổi năm 2014) quy định: “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập. Cha mẹ tạo điều kiện cho con đƣợc sống trong môi trƣờng gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gƣơng tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trƣờng, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con”. Trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi là giai đoạn cơ thể trẻ có những thay đổi sâu sắc, mạnh mẽ cả về thể chất và tâm lý. Những thay đổi về thể chất có ảnh hƣởng nhiều đến thay đổi tâm lý và hành vi của trẻ. Vì vậy, giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi là trách nhiệm của cha mẹ và các thành viên trong gia đình. Cha mẹ cần quan tâm, yêu thƣơng, đồng hành cùng con giúp con có những định hƣớng trong học tập và nghề nghiệp tƣơng lai của trẻ. 1.1.4. Khái niệm Tham vấn và tham vấn cho cha mẹ trong giáo dục trẻ em từ 11 tuổi đến 14 tuổi 1.1.4.1 Tham vấn (trong tiếng Anh là Counseling) đƣợc định nghĩa ở nhiều góc độ khác nhau. Carl Rogers (1952) mô tả tham vấn nhƣ là quá trình nhà tham vấn hay trị liệu sử dụng mối quan hệ tích cực để tạo nên môi trƣờng an toàn giúp đối tƣợng chia sẻ, chấp nhận và hƣớng tới thay đổi. Hoạt động tham vấn không chỉ dừng lại ở việc giúp đối tƣợng có lối thoát mà còn hƣớng tới mục tiêu nâng cao khả năng tự nhận thức và tự giải quyết vấn đề [15, tr.5-6]. Tác giả Trần Thị Minh Đức nhấn mạnh vai trò của thái độ đạo đức nghề nghiệp, của kỹ năng chia sẻ giúp thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế, tự tìm kiếm tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của mình [15, tr.6]. Bản chất của tham vấn không phải là cho lời khuyên mà là hoạt động nâng cao năng lực. Nó không chỉ giúp thân chủ có khả năng giải quyết đƣợc vấn đề gặp phải trong cuộc sống mà còn giúp họ phát triển khả năng đó. Một ý nghĩa khá quan trọng khác của hoạt động tham vấn, đó là tham vấn không chỉ dừng lại ở mục đích giải quyết vấn đề mà còn hƣớng tới việc 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan