Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật việt nam tt...

Tài liệu Thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật việt nam tt

.PDF
20
163
96

Mô tả:

Thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật Việt Nam Nguyễn Thị Thu Hằng Khoa Luật Luận văn ThS ngành: Luật Dân sự; Mã số: 60 38 30 Người hướng dẫn: TS. Hà Thị Mai Hiên Năm bảo vệ: 2006 Abstract: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thừa kế quyền sử dụng đất, những điểm chung và những điểm đặc thù của thừa kế quyền sử dụng đất so với việc thừa kế các tài sản thông thường khác. Phân tích đánh giá thực trạng tình hình áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế quyền sử dụng đất. Đồng thời đề xuất một số ý kiến giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về thừa kế quyền sử đất và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về những tranh chấp thừa kế nói chung và thừa kế quyền sử dụng đất nói riêng, góp phần đảm bảo mối quan hệ hài hòa về lợi ích giữa Nhà nước, chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thừa kế quyền sử dụng đất và lợi ích của toàn xã hội Keywords: Luật dân sự; Luật thừa kế; Pháp luật Việt Nam; Quyền sử dụng đất Content 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài: Thừa kế và để lại thừa kế là một quyền cơ bản của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Đây là quyền thể hiện rất rõ tính chất tự do ý chí, tự do định đoạt của chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự về tài sản nói chung, quan hệ thừa kế nói riêng. Tài sản có thể tồn tại lâu hơn cuộc sống của một con người chính vì thế giải quyết vấn đề tài sản này ra sao khi người có tài sản đó qua đời là vấn đề rất quan trọng để bảo đảm cho việc định đoạt tài sản đó phù hợp với ý chí của người để lại di sản những cũng bảo đảm lợi ích hợp pháp của những người liên quan khác cũng như lợi ích chung của toàn x• hội. Đặc biệt trong trường hợp di sản là quyền sử dụng đất (QSDĐ) thì vấn đề thừa kế QSDĐ còn phải tuân thủ theo các chính sách đất đai của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, các tranh chấp về thừa kế QSDĐ diễn ra ngày càng nhiều với tính chất phức tạp, diễn biến kéo dài chính vì thế thừa kế QSDĐ là một vấn đề thời sự liên quan đến từng cá nhân, từng gia đình bởi QSDĐ là một tài sản có giá trị lớn, các vấn đề thừa kế chủ yếu là liên quan đến nhà và đất ở giữa những người có quan hệ gần gũi với nhau. Vì vậy, nếu giải quyết không dứt điểm, không phù hợp sẽ gây mất đoàn kết trong gia đình, anh em từ đó ảnh hưởng tới trật tự x• hội. Chính vì thế việc nghiên cứu các quy định pháp luật về thừa kế QSDĐ nhằm tiếp tục hoàn thiện thêm chế định pháp luật về thừa kế QSDĐ cũng như nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp về thừa kế QSDĐ là một yêu cầu khách quan. Cụ thể là, trong giai đoạn hiện nay, với xu hướng hội nhập Quốc tế, vấn đề thừa kế QSDĐ cần được nghiên cứu để mở rộng hơn nữa quyền tự định đoạt của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ; tạo sự bình đẳng hơn nữa về thừa kế và để lại thừa kế giữa cá nhân trong nước với cá nhân là người Việt nam định cư ở nước ngoài. Các quy phạm pháp luật về thừa kế QSDĐ cần được xây dựng dựa trên cơ sở bảo đảm mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ và lợi ích của toàn x• hội, tôn trọng sự tự do định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp thừa kế QSDĐ góp phần đem lại một trật tự x• hội ổn định, đồng thời xây dựng một cơ chế pháp lý đồng bộ đảm bảo thực thi một cách hữu hiệu các quy định thừa kế QSDĐ. Chính vì các lý do trên nghiên cứu vấn đề thừa kế QSDĐ là một vấn đề rất cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu: Vấn đề thừa kế QSDĐ là một vấn đề chỉ mới được đề cập trong Luật Đất Đai 1993 và BLDS 1995 vì thế các bài viết về vấn đề này không nhiều. Năm 2000, tác giả Nguyễn Văn Mạnh, Đại Học Quốc Gia Hà Nội nghiên cứu vấn đề thừa kế QSDĐ theo Luật đất Đai 1993 (và các Luật sửa đổi bổ sung Luật Đất Đai 1993) và BLDS 1995. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến nay các quy định về thừa kế QSDĐ đ• có nhiều thay đổi bằng việc nhà nước ban hành một loạt các văn bản pháp luật mới: Luật đất đai 2003; Bộ Luật Dân Sự 2005; Luật Nhà ở (Có hiệu lực thi hành 01/7/2006) và các văn bản liên quan khác. Ngoài ra, có một số bài viết trong các báo, tạp chí năm 2003 và năm 2004 của tác giả, tiến sĩ Phùng Trung Tập đề cập đến vấn đề thừa kế nói chung và một số bài viết của tiến sĩ Nguyễn Quang Tuyến (Trường đại Học Luật Hà Nội) về vấn đề đất đai và thừa kế QSDĐ. Tuy nhiên các bài viết đó chỉ dừng lại trong phạm vi một bài báo, tạp chí. So với các quy định về thừa kế QSDĐ trong Luật đất Đai 1993 và BLDS 1995 thì các quy định về thừa kế QSDĐ theo pháp luật hiện hành được quy định theo hướng mở rộng quyền tự định đoạt cho các chủ thể trong quan hệ pháp luật thừa kế nói chung và thừa kế QSDĐ nói riêng; Tạo sự bình đẳng trong quan hệ thừa kế giữa cá nhân trong nước với cá nhân là người Việt Nam định cư ở nước ngoài … Vì vậy các vấn đề mới này cần phải được nghiên cứu một cách toàn diện trên cơ sở Luật Đất Đai 2003 kết hợp với các quy định về thừa kế trong BLDS 2005 để thấy được những mặt tích cực cũng như những điểm còn chưa phù hợp từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục đảm bảo cho việc thực thi chế định thừa kế QSDĐ phù hợp với thực tế cuộc sống từ đó góp phần bảo vệ một cách hài hoà giữa lợi ích của x• hội, Nhà nước và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ. Chính vì lý do trên, tôi đ• chọn đề tài: “Thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về thừa kế QSDĐ. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về thừa kế QSDĐ luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thừa kế QSDĐ, nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án, bảo đảm mối quan hệ hài hoà về lợi ích giữa Nhà nước, chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ và lợi ích của toàn x• hội. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, luận văn đ• đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Làm sáng tỏ khái niệm thừa kế nói chung và thừa kế QSDĐ nói riêng; - Phân tích và làm rõ những đặc thù của thừa kế QSDĐ so với thừa kế những tài sản thông thường khác; - Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về thừa kế QSDĐ để thấy được những điểm phù hợp và những điểm chưa phù hợp từ đó có những đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thừa kế QSDĐ cũng như đề ra các biện pháp, cơ chế bảo đảm cho việc thực thi các quy định của pháp luật về thừa kế QSDĐ, nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về thừa kế QSDĐ. 4. phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu vấn đề thừa kế QSDĐ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận: - Triết học Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; - Đường lối, chủ trương của Đảng, nhà nước ta (về xây dựng nhà nước Pháp quyền; giải quyết các vấn đề dân sự và chính sách hội nhập Quốc tế). 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, x• hội học, logic, thống kê. 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thừa kế quyền sử dụng đất; những điểm chung và những điểm đặc thù của thừa kế QSDĐ so với việc thừa kế các tài sản thông thường khác; - Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về thừa kế quyền sử dụng đất; - Đề xuất một số ý kiến, giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về những tranh chấp thừa kế nói chung và thừa kế quyền sử dụng đất nói riêng. 7. ý nghĩa khoa học, thực tiễn của luận văn - Kết quả nghiên cứu và những ý kiến đề xuất của luận văn có ý nghĩa trong việc hoàn thiện những quy định pháp luật về thừa kế QSDĐ cũng như nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án tranh chấp về thừa kế QSDĐ tại các tòa án ở nước ta. - Luận văn có thể đơược sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật dân sự, thừa kế nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Viện kiểm sát, Tòa án... 8. Kết cấu của luận văn: Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có ba chương: Chơương 1: Cơ sở lý luận về thừa kế quyền sử dụng đất; Chươơng 2: Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế QSDĐ; Chơương 3: Thực tiễn áp dụng, phương hướng hoàn thiện và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các quy định thừa kế QSDĐ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Chương 1Cơ sở lý luận về thừa kế quyền sử dụng đất (QSDĐ) 1.1 Khái niệm chung về thừa kế 1.1.1 Khái niệm thừa kế Thừa kế là một phạm trù kinh tế, xuất hiện và tồn tại trong bất cứ chế độ x• hội nào, kể cả khi x• hội chưa có nhà nước và pháp luật, khi đó thừa kế là một quan hệ x• hội phát sinh gắn liền với sự kiện một cá nhân chết và có tài sản để lại vì vậy thừa kế chính là sự dịch chuyển tài sản từ người đ• chết sang cho người còn sống tại thời điểm mở thừa kế, qua đó bảo đảm sự chuyển giao tài sản từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Khi Nhà nước và Pháp luật ra đời, sự tác động của pháp luật vào các quan hệ thừa kế đ• làm cho các quan hệ này trở thành các quan hệ pháp luật về thừa kế, trong đó các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được ghi nhận và bảo đảm thực hiện bằng pháp luật. Từ đó khái niệm quyền thừa kế mới xuất hiện. Quyền sở hữu là tiền đề của quyền thừa kế và quyền thừa kế là căn cứ để củng cố quyền sở hữu. Thừa kế bắt nguồn từ vấn đề sở hữu, chính vì thế việc ghi nhận quyền thừa kế và để lại thừa kế cũng chính là một phương thức bảo vệ quyền sở hữu. Dưới góc độ là một chế định pháp lý, thừa kế chịu ảnh hưởng bởi cơ sở hạ tầng theo nguyên lý cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Bên cạnh đó chế định thừa kế cũng chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố của kiến trúc thượng tầng trong x• hội: trình độ lập pháp, ý chí của giai cấp cầm quyền, truyền thống và tập quán x• hội … 1.1.2 Khái niệm và những đặc điểm của QSDĐ I.1.2.1 Khái niệm QSDĐ QSDĐ là một khái niệm pháp lý được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau: Thứ nhất: QSDĐ là một bộ phận của pháp luật đất đai: Với ý nghĩa này thì QSDĐ là một chế định pháp luật đất đai bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực thực hiện các quyền của người sử dụng đất. - Thứ hai, QSDĐ là một quan hệ pháp luật về đất đai: Quan hệ pháp luật này được thể hiện trên ba phương diện sau: + Quan hệ giữa đại diện chủ sở hữu (Nhà nước) với người sử dụng đất được thể hiện trong mối quan hệ giữa các quyền: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt QSDĐ. Quyền của chủ sở hữu đối với đất đai là quyền mang tính tuyệt đối còn QSDĐ của người sử dụng đất chỉ là quyền phái sinh, chịu sự lệ thuộc vào quyền sở hữu toàn dân về đất đai; + Quan hệ giữa những người sử dụng đất với nhau. Quan hệ này được thực hiện thông qua các giao dịch mang tính dân sự như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế QSDĐ …; + Quan hệ giữa người sử dụng đất với các cơ quan quản lý Nhà nước như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường; Phòng Tài nguyên và Môi trường và ủy Ban Nhân Dân (UBND) các cấp trong quan hệ: giao đất, cho thuê đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), thu hồi đất… Dưới góc độ là một chế định pháp luật đất đai và một quan hệ pháp luật đất đai như được phân tích ở trên thì QSDĐ chính là một phương thức thực hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai. - Thứ ba, QSDĐ là một quyền năng chủ quan của chủ sở hữu và của người sử dụng đất. Theo nghĩa này, QSDĐ là cách xử sự của người sử dụng đất trong việc thực hiện các quyền mà Nhà nước trao cho họ. Những quyền chủ quan này xuất hiện trên cơ sở các quy phạm pháp luật khách quan đ• nói ở trên và do các quy phạm đó quyết định. - Thứ tư, QSDĐ là một tài sản sản đặc biệt, chính vì thế QSDĐ vừa là đối tượng trong quan hệ pháp luật đất đai vừa là đối tượng của quan hệ pháp luật dân sự. 1.1.2.2 Những đặc điểm của QSDĐ So với quyền sở hữu toàn dân về đất đai thì quyền sở hữu đất đai là quyền độc lập và đầy đủ còn QSDĐ là quyền phụ thuộc và không đầy đủ. Tính phụ thuộc và không đầy đủ của QSDĐ thể hiện ở các khía cạnh sau: - Người sử dụng đất không có đủ tất cả các quyền năng của chủ sở hữu, người sử dụng đất chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng đất còn quyền định đoạt là thuộc về nhà nước. - Không phải bất cứ người nào có QSDĐ hợp pháp cũng có đủ 09 quyền năng của người sử dụng đất. Về cơ bản, chỉ những người sử dụng đất theo hình thức giao đất có trả tiền sử dụng đất và thuê đất theo hình thức trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê hoặc đ• trả trước tiền thuê đất nhiều năm mà thời hạn thuê đất đ• được trả tiền còn lại ít nhất là 05 năm mới được pháp luật cho hưởng đầy đủ 09 quyền năng của người sử dụng đất. 1.1.3 Khái niệm thừa kế QSDĐ QSDĐ cũng là tài sản và vì thế cũng trở thành di sản của một người khi người đó qua đời. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thừa kế QSDĐ có thể được xem xét dưới các khía cạnh sau: - Trước hết, thừa kế QSDĐ là một quyền trong số 09 quyền năng mà Nhà nước trao cho người sử dụng đất, vì thế thừa kế QSDĐ là một trong những nội dung của QSDĐ; - Nếu xem xét dưới góc độ là một chế định pháp luật, thừa kế QSDĐ được hiểu là tổng thể các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh việc chuyển QSDĐ từ người đ• chết sang cho những người còn sống theo trình tự thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật; - Dưới góc độ là một quan hệ pháp luật dân sự, thừa kế QSDĐ là hình thức pháp lý của các quan hệ x• hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển QSDĐ từ người chết sang cho người còn sống. Với cách hiểu này thì thừa kế quyền sử dụng đất bao gồm ba bộ phận: Chủ thể; Khách thể; Nội dung. 1.2 Những đặc điểm của thừa kế QSDĐ Chế định thừa kế QSDĐ vừa tuân theo các quy định về thừa kế tài sản nói chung lại vừa mang những nét đặc thù riêng của thừa kế QSDĐ, bởi đất đai là một tài sản đặc biệt. 1.2.1 Những đặc điểm chung của thừa kế QSDĐ Thừa kế QSDĐ cũng là một dạng của quan hệ thừa kế tài sản, vì thế thừa kế QSDĐ cũng phải tuân theo các quy định chung về thừa kế tài sản trong Bộ Luật Dân Sự (BLDS), cụ thể là: Hình thức thừa kế Thừa kế quyền sử dụng đất được thực hiện dưới hai hình thức: Thừa kế theo di chúc và Thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc bao giờ cũng được ưu tiên trước bởi nó là sự thể hiện ý chí của người để lại di sản. Trong trường hợp không có di chúc hoặc các trường hợp khác như quy định tại Điều 675 BLDS thì mới áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật. Người để lại di sản QSDĐ Người để lại di sản QSDĐ: chỉ có thể là cá nhân, không thể là pháp nhân. - Người thừa kế QSDĐ Người thừa kế quyền sử dụng đất có thể là cá nhân (thừa kế theo pháp luật) nhưng cũng có thể là cá nhân hoặc tổ chức (thừa kế theo di chúc). Nếu là cá nhân phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Nếu là tổ chức thì phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Thực hiện các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại Người thừa kế nhận di sản là QSDĐ bên cạnh việc có quyền hưởng di sản QSDĐ nhưng cũng phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Như vậy, pháp luật thừa kế hiện hành dành cho các chủ thể quyền tự định đoạt cao nhất khi quy định những người thừa kế có thể thoả thuận về vấn đề trả nợ với nhau và với chủ nợ. Quyền từ chối nhận di sản thừa kế Đây chính là quyền tự định đoạt của người nhận thừa kế. Thời hạn từ chối nhận di sản là 06 tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau thời hạn đó, nếu không từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế. Quyền từ chối hưởng di sản bị pháp luật hạn chế trong trường hợp việc từ chối hưởng di sản nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của người đó với người khác. - Thời điểm mở thừa kế và địa điểm mở thừa kế Thời điểm mở thừa kế là mốc thời gian mà kể từ thời điểm đó quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản là QSDĐ chấm dứt đồng thời các quyền và nghĩa vụ này được chuyển cho những người thừa kế. Việc xác định thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa hết sức quan trọng để làm căn cứ: + Xác định di sản là QSDĐ do người chết để lại là bao nhiêu; trên đó có những tài sản gì và nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại; + Là thời điểm các chủ nợ của người chết có quyền yêu cầu những người thừa kế phải thanh toán nghĩa vụ tài sản của người chết để lại trong phạm vi di sản mà người thừa kế được nhận; + Là căn cứ để xác định những người thừa kế tài sản của người chết; + Là căn cứ để xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế cũng như các loại thời hạn khác trong quan hệ thừa kế; + Là căn cứ để quy trách nhiệm cho chính quyền địa phương trong việc quản lý di sản của người chết để lại nếu trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế hợp pháp của người đó; + Là thời điểm di chúc phát sinh hiệu lực và việc chia thừa kế được bắt đầu, nếu không có thoả thuận khác của những người thừa kế; + Là thời điểm những người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Về địa điểm mở thừa kế: Địa điểm mở thừa kế trước hết được xác định theo nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản. Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản, thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ di sản. Trong trường hợp người để lại di sản có tài sản ở nhiều nơi thì nơi nào có phần lớn tài sản của người đó sẽ được xác định là nơi mở thừa kế (Điều 633 khoản 2 BLDS). Việc xác định địa điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ pháp luật thừa kế quyền sử dụng đất vì tại địa điểm mở thừa kế sẽ tiến hành công việc quản lý, kiểm kê di sản; thanh toán nghĩa vụ tài sản và phân chia di sản; là nơi người thừa kế nhận di sản, từ chối nhận di sản. Bên cạnh đó, trong trường hợp có tranh chấp về thừa kế thì Toà án nơi có toàn bộ hoặc phần lớn bất động sản là Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án. - Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế QSDĐ Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Nếu thời hạn đó kết thúc thì chủ thể mất quyền khởi kiện. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế QSDĐ được quy định là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Đối với người chưa thành niên, thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế QSDĐ là 10 năm tính từ khi người đó đủ 18 tuổi. 1.2.2 Những đặc thù riêng của thừa kế QSDĐ Thứ nhất: so với các hình thức hình thức chuyển QSDĐ khác: Thừa kế QSDĐ cũng là một hình thức chuyển QSDĐ nhưng sự chuyển dịch này là từ người chết sang cho người còn sống vào thời điểm mở thừa kế. Thông qua di chúc, người để lại di sản thực hiện một giao dịch dân sự đơn phương thể hiện ý chí của mình không phụ thuộc vào ý chí của người thừa kế. Còn trong các trường hợp chuyển QSDĐ khác thì việc chuyển QSDĐ được thực hiện dựa trên cơ sở hợp đồng dân sự có sự thoả thuận của các bên tham gia (các bên đều còn sống khi thực hiện việc chuyển QSDĐ). Thứ hai: điểm khác biệt so với việc thừa kế các tài sản thông thường: Bên cạnh những đặc điểm chung với việc thừa kế các tài sản thông thường khác thì thừa kế QSDĐ có một số điểm khác biệt sau: + Đối với thừa kế QSDĐ thì người để lại thừa kế không có quyền sở hữu đất đai mà chỉ có quyền sử dụng đất. Đồng thời người hưởng thừa kế QSDĐ đến lượt mình cũng chỉ có QSDĐ mà không trở thành chủ sở hữu đất đai; + Thừa kế QSDĐ không những được quy định trong BLDS mà còn được quy định cả trong pháp luật về đất đai; + Đối với thừa kế QSDĐ thì người nhận thừa kế QSDĐ nếu là người Việt Nam định cư ở nước ngoài đáp ứng một số điều kiện nhất định của pháp luật thì mới được thừa kế QSDĐ tại Việt Nam ( Điều 121 khoản 1 Luật Đất Đai). + Đối với các tài sản thông thường khác người lập di chúc có thể định đoạt tài sản của mình cho bất cứ cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức nào (Điều 635 BLDS). Nhưng đối với QSDĐ, Nếu định đoạt di sản là QSDĐ (hoặc nhà ở gắn liền với QSDĐ ở) cho người Việt Nam ở nước ngoài không thuộc diện được mua nhà ở Việt Nam hoặc người nước ngoài thì những người đó chỉ được hưởng giá trị của QSDĐ (hoặc nhà ở đó). + Đối với hầu hết các tài sản thông thường khác khi thực hiện việc thừa kế không phải tiến hành thủ tục đăng ký thừa kế nhưng đối với thừa kế QSDĐ thì thủ tục đăng ký thừa kế QSDĐ là bắt buộc; + Trong quan hệ thừa kế quyền sử dụng đất, di sản là QSDĐ phải có sự công nhận của Nhà nước thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. + Vấn đề giải quyết tranh chấp về thừa kế QSDĐ: . Đối với việc giải quyết tranh chấp về thừa kế các tài sản khác thì hoà giải tại Uỷ Ban Nhân Dân x•, phường, thị trấn không phải là thủ tục bắt buộc còn đối với tranh chấp về QSDĐ, thì hoà giải tại UBND x•, phường, thị trấn là một thủ tục bắt buộc; . Việc giải quyết tranh chấp về thừa kế các tài sản khác cơ quan có thẩm quyền giải quyết là Toà án, còn đối với tranh chấp đất đai nói chung và tranh chấp về thừa kế QSDĐ nói riêng thì không phải bất cứ tranh chấp nào về quyền sử dụng đất đều được giải quyết theo trình tự Toà án. Tóm lại: Thừa kế QSDĐ vừa có điểm chung vừa có điểm đặc thù so với việc thừa kế các tài sản khác. Tính chất đặc thù này do tính đặc biệt của đất đai quyết định. Chính vì vậy việc thừa kế QSDĐ vừa phải tuân theo các quy định tại BLDS vừa phải tuân theo các quy định của Luật Đất Đai. 1.3 Vai trò, ý nghĩa của thừa kế QSDĐ trong giai đoạn hiện nay - Quy định một trình tự, thủ tục rõ ràng, minh bạch về thừa kế QSDĐ giúp giảm thiểu các tranh chấp về thừa kế QSDĐ, một loại tranh chấp diễn ra phổ biến và rất phức tạp trong x• hội hiện nay; - Giải quyết tốt vấn đề thừa kế QSDĐ sẽ góp phần củng cố sự đoàn kết trong gia đình, dòng tộc, x• hội từ đó đem lại một trật tự x• hội ổn định; - Giải quyết tốt vấn đề thừa kế QSDĐ sẽ tạo điều kiện để đưa QSDĐ tham gia vào các giao lưu dân sự, kinh tế, mở ra một tiềm năng lớn của đất đai, khai thông các hoạt động liên quan tới QSDĐ (chuyển nhượng, cầm cố, cho thuê, thế chấp, góp vốn… bằng giá trị QSDĐ) đó chính là động lực to lớn giúp việc sử dụng đất đai có hiệu quả tạo động lực cho việc phát triển kinh tế. 1.4 Thừa kế QSDĐ trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển 1.4.1. Thừa kế đất đai giai đoạn từ 1980 trở về trước 1.4.1.1 Thừa kế đất đai trong chế độ phong kiến Việt Nam Chế định thừa kế được thể hiện tiêu biểu trong hai bộ luật lớn là Bộ Quốc Triều Hình Luật (Bộ Luật Hồng Đức) thời Lê và Bộ Hoàng Việt Luật Lệ (Bộ luật Gia Long) thời Nguyễn. Bộ luật Hồng Đức tuy còn nhiều điểm thể hiện sự bất bình đẳng trong quan hệ thừa kế giữa nam và nữ, giữa con đẻ và con nuôi, giữa con của vợ cả và con của vợ lẽ tuy nhiên một số qui định về thừa kế nói chung và thừa kế điền sản (đất đai) nói riêng được ghi nhận trong Bộ luật Hồng Đức cho đến hiện nay vẫn có giá trị và cần được nghiên cứu để có sự kế thừa phù hợp (đặc biệt là phần qui định về ruộng đất hương hỏa). Đến thời Nguyễn, thừa kế tài sản nói chung và thừa kế đất đai (điền sản) nói riêng vẫn có sự phân chia địa vị giữa những người con của vợ cả với con của thê thiếp. Bên cạnh đó, quyền và lợi ích của người phụ nữ trong lĩnh vực thừa kế hầu như không được bảo vệ, trừ trường hợp người để lại di sản không có con trai, cháu trai. Tóm lại, Pháp luật thừa kế của các triều đại phong kiến tuy còn nhiều điểm hạn chế về mặt nội dung và hình thức cũng như kỹ thuật lập pháp nhưng những qui định về thừa kế có giá trị to lớn trong việc nghiên cứu và xây dựng các quy phạm pháp luật hiện hành về thừa kế nói chung và thừa kế QSDĐ nói riêng. 1.4.1.2 Thừa kế đất đai trong thời kỳ Pháp thuộc Trong thời Pháp thuộc, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến, do đó pháp luật dân sự ở Việt Nam mang đậm nét Thực dân – Phong kiến: cụ thể là, trong Trong Dân luật giản yếu Nam kỳ, Dân Luật Bắc Kỳ năm 1931; Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật (1936) bên cạnh những yếu tố tiến bộ mang dấu ấn của Bộ Luật Dân Sự Pháp thì các tư tưởng lạc hậu như trọng nam, khinh nữ của ý thức hệ phong kiến được bảo tồn. Địa vị của người phụ nữ trong gia đình không được coi trọng mà bị lệ thuộc vào chồng. Trong lĩnh vực thừa kế, quyền thừa kế của người vợ bị hạn chế. Đặc điểm của pháp luật thừa kế giai đoạn này là:Thừa kế được thực hiện dưới hai hình thức: theo pháp luật và theo di chúc; Việc quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng rất được coi trọng. Không có quy định riêng về vấn đề thừa kế đất đai, tuy nhiên vấn đề thừa kế đất hương hoả, đất “Hậu điền”; “Kỵ điền” được quy định rất chi tiết và chặt chẽ. Tuy nhiên, pháp luật về thừa kế giai đoạn này cũng đạt được những chuẩn mực nhất định trong việc quy định về các vấn đề thừa kế: đó chính là các quy định về điều kiện để hưởng di sản thừa kế là: Phải là người còn sống khi mở thừa kế; quy định về các trường hợp “bất xứng” không được quyền hưởng di sản; việc thanh toán các khoản nợ của người để lại di sản không vượt quá phạm vi di sản thừa kế; Quyền từ chối nhận di sản; quy định về việc tham gia của hội đồng gia tộc trong quan hệ thừa kế đất hương hoả…đây là những quy định rất tiến bộ. Bên cạnh đó vấn đề di sản thờ cúng được quy định một cách đầy đủ, chi tiết…. Nhiều nguyên tắc tiến bộ đ• được được kế thừa và phát triển cho tới ngày nay. Nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu. 1.4.1.3 Thừa kế đất đai trong chế độ chính quyền Sài Gòn Bộ Luật Dân Sự Sài Gòn 1972 về cơ bản giống Bộ Dân Luật Pháp 1804 và tương tự như các Bộ Dân Luật Bắc Kỳ, Bộ Dân Luật Trung Kỳ, Bộ Dân Luật Nam kỳ. Đặc điểm của pháp luật thừa kế giai đoạn này là không có các quy định riêng về vấn đề thừa kế đất đai mà thừa kế đất đai được quy định như thừa kế các tài sản thông thường khác. Tuy nhiên vấn đề “Ruộng đất hương hoả”; đất “Hậu điền”, “Kỵ điền” được quy định rất chi tiết. 1.4.1.4 Thừa kế đất đai giai đoạn từ khi Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời đến trước khi có Hiến pháp 1980 (Giai đoạn Hiến Pháp 1946; 1959) Sắc lệnh 97/SL (Ngày 22/05/1950) về việc sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật đ• ghi nhận một số nguyên tắc mới liên quan đến nhân thân và tài sản trong đó ghi nhận quyền bình đẳng của phụ nữ so với nam giới; Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau ngang nhau; quyền tự lập của con đ• thành niên; Vợ goá, chồng goá, các con đ• thành niên có quyền xin chia di sản ... Đây chính là những tư tưởng pháp luật tiến bộ, tuy chưa được quy định một cách hoàn thiện nhưng bước đầu đ• đặt nền móng cho việc hình thành một nền pháp luật tiến bộ, dân chủ. Quyền thừa kế của công dân lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 19 Hiến pháp năm 1959: " Nhà nước chiểu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế về tài sản tư hữu của công dân”. Chế độ thừa kế được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng nam nữ và không phân biệt đối xử giữa các con: Vợ chồng đều có quyền thừa kế tài sản của nhau; các con đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong gia đình và trong việc hưởng thừa kế, không phân biệt con trai, con gái, con trong giá thú, con ngoài giá thú, con đẻ, con nuôi (Điều 16, 23, 24 Luật Hôn Nhân Gia Đình 1959). Trong giai đoạn này, Nhà nước thừa nhận nhiều hình thức sở hữu đất đai trong đó có sở hữu tư nhân về đất đai, vì vậy các tranh chấp về thừa kế đất đai cũng được giải quyết như thừa kế các tài sản thông thường khác. 1.4.2 Thừa kế đất đai sau năm 1980 1.4.2.1 Thừa kế đất đai giai đoạn từ 1980 đến năm 1992 (Giai đoạn Hiến Pháp 1980; Luật Đất Đai 1987 và Pháp Lệnh thừa kế 1990) Các văn bản pháp luật về thừa kế trong giai đoạn này có Thông tư 81 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế; (Ngày 24/07/1981); Pháp lệnh thừa kế (Ngày30 tháng 08 năm 1990); Nghị quyết số 02/HĐTP (ngày 19/10/1990) của Hội đồng Thẩm Phán Toà án Nhân dân (TAND) Tối cao hướng dẫn các toà án áp dụng thống nhất các quy định của pháp lệnh thừa kế 1990 khi xét xử các tranh chấp về thừa kế. Đặc điểm của pháp luật thừa kế giai đoạn này là đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Chính vì thế đất đai không được coi là di sản thừa kế như các tài sản thông thường khác. 1.4.2.2 Thừa kế QSDĐ từ giai đoạn 1993 - 2001 (theo Luật đất đai 1993; Bộ Luật dân sự 1995; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai 1998; 2001) Luật đất đai 1993 được ban hành là cơ sở pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời của các quy định về thừa kế QSDĐ (Điều 76 Luật đất Đai). Tiếp theo là BLDS 1995 đ• có những quy định cụ thể về khái niệm, điều kiện thừa kế, đối tượng thừa kế quyền sử dụng đối với từng loại đất. Đặc điểm của pháp luật về thừa kế QSDĐ trong giai đoạn này như sau: - QSDĐ được coi là di sản và được để lại thừa kế theo quy định của pháp luật; - Căn cứ vào mục đích sử dụng của từng loại đất, pháp luật quy định vấn đề thừa kế đối với từng loại đất khác nhau: + Đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản, việc thừa kế được pháp luật quy định rất chặt chẽ, đòi hỏi nhiều điều kiện hơn so với thừa kế các loại đất khác. Diện chủ thể được hưởng thừa kế QSDĐ nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản bị thu hẹp. Quy định này đ• hạn chế quyền tự định đoạt của chủ thể trong quan hệ pháp luật thừa kế; + Không đặt vấn đề thừa kế đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản được nhà nước giao cho hộ gia đình sử dụng khi có một thành viên trong hộ gia đình chết; + Đối với quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được thừa kế như bất kỳ tài sản khác. Chương 2 Nội dung quy định của pháp luật hiện hành về thừa kế QSDĐ Chế định thừa kế QSDĐ trong luật đất đai 2003; BLDS 2005 đ• được sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế bằng việc xoá bỏ những gì được coi là điều kiện để hưởng di sản là QSDĐ, đồng thời trao cho người để lại di sản quyền tự do trong việc định đoạt di sản là QSDĐ theo đó mọi cá nhân, tổ chức Việt Nam đều có thể trở thành người được hưởng di sản thừa kế là QSDĐ. 2.1 Điều kiện để QSDĐ được coi là di sản thừa kế Chỉ những loại đất đáp ứng các yêu cầu quy định tại Điều 106 khoản 1 Luật Đất Đai mới được coi là di sản và được để lại thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật, đó là: 2.1.1 Có giấy chứng nhận QSDĐ (GCNQSDĐ): đây là căn cứ pháp lý quan trọng, là sự thừa nhận của nhà nước đối với QSDĐ hợp pháp của người sử dụng đất. Người sử dụng đất phải có loại giấy tờ này thì mới được để thừa kế QSDĐ đó. 2.1.2 Đất không có tranh chấp: Đây là điều kiện bảo đảm an toàn về mặt pháp lý đối với di sản là QSDĐ. Đất đang có tranh chấp là đất chưa xác định được ai là người có QSDĐ hợp pháp với QSDĐ đó vì thế mà không thể coi QSDĐ đang có tranh chấp là di sản thừa kế. 2.1.3 QSDĐ không bị kê biên để bảo đảm thi hành án: Một bản án đ• có hiệu lực pháp luật và các bên liên quan phải có nghĩa vụ thi hành bản án đó. Trong trường hợp việc thi hành bản án đó đòi hỏi phải kê biên tài sản là QSDĐ của người để lại di sản thì QSDĐ đó cũng không được coi là di sản thừa kế. 2.1.4 Trong thời hạn sử dụng đất: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, người sử dụng đất chỉ được nhà nước trao cho quyền sử dụng. Đối với loại đất sử dụng có thời hạn thì hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê và trong thời hạn được giao đất, có quyền để thừa kế QSDĐ đó. Nếu QSDĐ đất đ• hết hạn thì không được coi là di sản thừa kế bởi vì nhà nước có thể thu hồi lại đất đó. 2.2 Thời điểm người sử dụng đất được thực hiện quyền thừa kế QSDĐ Quyền của người sử dụng đất phải đi đôi với nghĩa vụ của người sử dụng đất. Vì vậy, người sử dụng đất chỉ được thực hiện quyền thừa kế của mình khi đ• thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước (trừ các trường hợp được phép chậm thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc được ghi nợ nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật). 2.3 Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ 2.3.1 Chủ thể để lại di sản thừa kế là QSDĐ: Là cá nhân sau khi chết có tài sản là QSDĐ để lại cho người khác theo trình tự thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Cá nhân bao gồm: cá nhân là người Việt Nam (bao gồm cá nhân và cá nhân là thành viên hộ gia đình) và cá nhân là người Việt Nam định cư ở nước ngoài đều là các chủ thể được để lại thừa kế QSDĐ. Đối với cá nhân và cá nhân thành viên hộ gia đình là người Việt Nam: Cá nhân và cá nhân thành viên hộ gia đình là các chủ thể được để lại thừa kế QSDĐ: Đối với cá nhân được nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất thì có quyền để lại thừa kế QSDĐ (Điều 734 BLDS). Đối với đất thuê và đất thuê lại về nguyên tắc là không đặt ra vấn để thừa kế, tuy nhiên để giải quyết những trường hợp thuê đất và thuê lại đất từ trước ngày Luật Đất Đai 2003 có hiệu lực thi hành (mà pháp luật đất đai trước đó cho phép để thừa kế QSDĐ là đất thuê và đất thuê lại trong khu công nghiệp) nên luật hiện hành quy định cho phép để thừa kế QSDĐ đất thuê (và đất thuê lại trong khu công nghiệp) từ trước ngày 1/7/2004 nếu tiền thuê và thuê lại đất đ• được trả trước cho cả thời gian thuê, thuê lại hoặc đ• trả trước tiền thuê, thuê lại đất cho nhiều năm mà thời hạn thuê, thuê lại đất đ• được trả tiền còn lại ít nhất là 05 năm có quyền để thừa kế QSDĐ trong thời hạn đ• trả tiền thuê, thuê lại đất” (Điều 114 khoản 2 Luật Đất Đai). Quy định này chỉ là giải pháp tình thế để giải quyết những trường hợp còn tồn tại, là bước “quá độ” chuyển tiếp từ các quy định cũ sang áp dụng các quy định mới của Luật Đất Đai 2003. Đối với cá nhân là người Việt Nam định cư ở nước ngoài: Pháp luật hiện hành mới chỉ quy định người Việt Nam định cư ở nước ngoài (thuộc diện được mua nhà ở gắn liền với QSDĐ ở tại Việt Nam) được để thừa kế nhà ở gắn liền với QSDĐ ở nhưng chưa cho phép họ được để thừa kế là QSDĐ đơn thuần. 2.3.2 Chủ thể nhận thừa kế QSDĐ Chủ thể nhận thừa kế QSDĐ là chủ thể được người chết để lại cho di sản QSDĐ theo di chúc hoặc được hưởng thừa kế QSDĐ theo quy định của pháp luật. Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài (thuộc diện được mua nhà ở gắn liền với QSDĐ ở tại Việt Nam) thì có quyền được nhận thừa kế là QSDĐ. Nếu là người Việt Nam định cư ở nước ngoài (không thuộc diện được mua nhà ở gắn liền với QSDĐ đất ở tại Việt Nam) hoặc cá nhân là người nước ngoài thì chỉ được hưởng giá trị của phần thừa kế đó ( Điều 113 khoản 5 Luật Đất Đai). Cá nhân có thể để thừa kế QSDĐ của mình cho một tổ chức. Tuy nhiên BLDS hiện hành không có quy định trường hợp cá nhân là người Việt Nam hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài (thuộc diện được mua nhà ở gắn liền với QSDĐ đất ở tại Việt Nam) để thừa kế QSDĐ cho tổ chức nước ngoài. 2.4 Các hình thức thừa kế QSDĐ 2.4.1 Thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc Thừa kế theo di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân người sử dụng đất nhằm chuyển tài sản là quyền sử dụng đất của mình cho người khác sau khi chết (Điều 646 BLDS). Người lập di chúc có quyền tự định đoạt QSDĐ bằng việc chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng QSDĐ của người thừa kế. Tuy nhiên quyền này của người có di sản bị pháp luật hạn chế trong các trường hợp quy định tại điều 669 BLDS (Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc). Người lập di chúc có quyền dành một phần hoặc toàn bộ quyền sử dụng đất để dùng vào việc thờ cúng. Pháp luật hiện hành không giới hạn phần di sản dùng vào việc thờ cúng là bao nhiêu vì thế có thể hiểu “một phần” là một ít hoặc toàn bộ di sản. Điều này khiến nảy sinh nhiều tranh chấp liên quan đến di sản dùng vào việc thờ cúng, đặc biệt khi có liên quan đến quyền sử dụng đất. Vì vậy pháp luật nên có quy định cụ thể “một phần” di sản thờ cúng là bao nhiêu. Người lập di chúc có quyền dành một phần di sản để di tặng: Người lập di chúc có thể dành một phần di sản là QSDĐ để tặng cho người khác (Điều 671 BLDS). Pháp luật không giới hạn phần di sản QSDĐ dùng vào việc di tặng là bao nhiêu vì thế người để lại thừa kế có thể dành một phần hoặc toàn bộ di sản QSDĐ của mình để di tặng. Pháp luật hiện hành chưa có quy định trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài, tổ chức nước ngoài nhận di tặng là QSDĐ hoặc nhà ở gắn liền với QSDĐ ở tại Việt Nam. Trong trường hợp người được di tặng chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người di tặng thì tài sản QSDĐ được di tặng theo di chúc sẽ được giải quyết như thế nào? Nếu người được di tặng có các hành vi quy định tại điều 643 (người không được quyền hưởng di sản) thì có quyền nhận di tặng không? theo quan điểm của chúng tôi, trong trường hợp này họ không có quyền nhận di tặng; Ngoài ra, pháp luật cũng chưa có quy định về việc từ chối nhận di tặng: đây là quyền của người được di tặng: họ có quyền nhận hay không nhận di tặng, cần có quy định tương tự như trường hợp khước từ nhận di sản. Người thừa kế theo di chúc nhận di sản là QSDĐ phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Người thừa kế quyền sử dụng đất chỉ phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản QSDĐ được nhận, “trừ trường hợp có thoả thuận khác”. ở đây pháp luật đề cao quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự: các bên có quyền thoả thuận về việc trả nợ miễn là thoả thuận đó không trái pháp luật và đạo đức x• hội. Người lập di chúc có quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế và những người thừa kế phải tuân theo những quy định trong di chúc. Nhưng pháp luật không quy định trong trường hợp người thừa kế không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ mà người để lại di sản giao cho thì họ có được hưởng di sản hay không? Theo quan điểm của chúng tôi, trường hợp này tuỳ thuộc vào ý chí của người để lại di sản QSDĐ thể hiện trong di chúc mà cho hay không cho họ nhận di sản QSDĐ. 2.4.2 Thừa kế QSDĐ theo pháp luật Trong trường hợp không có di chúc, di chúc không hợp pháp hoặc vì các lý do khác mà không thể phân chia di sản theo di chúc thì khi đó di sản QSDĐ được chia theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp thừa kế theo pháp luật, diện và hàng thừa kế được xác định dựa theo sự phỏng đoán ý chí của người để lại di sản vì thế di sản của họ chỉ được chia cho những người có mối quan hệ thân thiết, gần gũi với người để lại di sản được xác định dựa trên các mối quan hệ: huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần QSDĐ bằng nhau, những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đ• chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. Thừa kế thế vị được đặt ra nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cháu, chắt của người để lại di sản mà người để lại di sản là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cụ nội, cụ ngoại trong trường hợp bố mẹ của cháu, chắt chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông, bà, cụ. Khi đó cháu, chắt sẽ vẫn được hưởng phần di sản là QSDĐ mà cha mẹ cháu nếu còn sống được hưởng. Pháp luật hiện hành không quy định cháu được thừa kế thế vị trong truờng hợp: con của người để lại di sản chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản nhưng người con đó khi còn sống đ• bị kết án về một trong các hành vi theo quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS (Người không được quyền hưởng di sản). Theo quan điểm của chúng tôi trong trường hợp này để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các cháu thì pháp luật nên cho các cháu, chắt được thừa kế thế vị vì các cháu, chắt không có lỗi. Pháp luật cũng quy định các trường hợp người thừa kế không được quyền hưởng di sản điều đó thể hiện sự trừng phạt của pháp luật đối với các hành vi đáng bị lên án của họ. BLDS hiện hành không quy định trong trường hợp cha mẹ không được hưởng di sản vì có các hành vi được quy định tại điều 643 BLDS (người không được quyền hưởng di sản) thì con cháu của người đó có được hưởng phần di sản đó hay không? Tuy nhiên, đối với những người không được quyền hưởng di sản, BLDS hiện hành vẫn dành quyền định đoạt tối cao cho người để lại di sản khi quy định: những người này vẫn được hưởng di sản nếu người để lại di sản biết hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc (Điều 643 khoản 2 BLDS). 2.5 Trình tự, thủ tục đăng ký thừa kế quyền sử dụng đất QSDĐ là một tài sản đặc biệt, chính vì thế người thừa kế khi nhận thừa kế QSDĐ phải làm thủ tục đăng ký thừa kế QSDĐ tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. 2.6 Giải quyết tranh chấp thừa kế QSDĐ Tranh chấp về thừa kế QSDĐ là một trong những loại tranh chấp về đất đai nói chung vì thế việc hoà giải tại Uỷ Ban Nhân Dân X• (UBND) x•, Phường, Thị trấn là thủ tục bắt buộc. Trong trường hợp một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí được thì về nguyên tắc nếu QSDĐ đó có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) (hoặc một số loại giấy tờ tương đương khác theo quy định của Luât Đất Đai) thì thẩm quyền thuộc Toà án, nếu không có GCNQSDĐ (hoặc một số loại giấy tờ tương đương khác theo quy định của Luât Đất Đai) thì thẩm quyền do UBND hoặc Bộ trưởng Bộ tài nguyên và môi trường giải quyết. Trường hợp không có các loại giấy tờ trên nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác gắn liền với QSDĐ đó thì toà án sẽ căn cứ vào sự xác nhận của UBND có thẩm quyền đối với việc sử dụng QSDĐ đó (việc sử dụng đất đó có hợp pháp hay không ? đất có tranh chấp không? đất có vi phạm quy hoạch không?) để giải quyết tranh chấp về tài sản và QSDĐ đất đó hoặc chỉ giải quyết tranh chấp di sản là tài sản trên đất (trong trường hợp UBND có thẩm quyền cho biết việc sử dụng đất đó là không hợp pháp). Chương 3 Thực tiễn áp dụng, phương hướng hoàn thiện và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các quy định pháp luật về thừa kế QSDĐ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay 3.1 Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về thừa kế QSDĐ và một số vấn đề đặt ra 3.1.1 Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về thừa kế QSDĐ Tranh chấp QSDĐ nói chung và tranh chấp về thừa kế QSDĐ nói riêng là loại tranh chấp diễn ra phổ biến trong giai đoạn hiện nay với tính chất phức tạp và tình trạng khiếu kiện kéo dài. Phần lớn các tranh chấp về thừa kế là liên quan tới nhà và đất, đây cũng là loại tranh chấp phức tạp vì giá trị tranh chấp lớn, người tham gia tố tụng đông và có tỉ lệ kháng cáo, kháng nghị cao. Thống kê từ hoạt động xét xử của TAND Thành Phố Hà Nội, chúng tôi có thể rút ra nhận xét là: + Số lượng các vụ án tranh chấp về thừa kế theo xu hướng ngày càng tăng; + Số lượng bản án, quyết định bị phúc thẩm khá nhiều. Khi xét xử phúc thẩm, số lượng bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm được giữ nguyên chiếm tỉ lệ thấp. Tỉ lệ bản án, quyết định của cấp sơ thẩm bị sửa chiếm tỉ lệ lớn, trong đó bản án, quyết định bị sửa do nguyên nhân sai sót của cấp sơ thẩm chiếm tỉ lệ cao (năm 2005 chiếm 62%) điều đó cho thấy trình độ xét xử của các toà án cấp sơ thẩm còn có nhiều hạn chế. + Số lượng các vụ án có người bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho đương sự còn thấp đặc biệt là ở cấp sơ thẩm. Điều này cho thấy các bên chưa chú trọng tới việc nhờ người bảo vệ quyền lợi cho mình một phần do không có khả năng kinh tế, một phần do chưa ý thức được tầm quan trọng của việc này. Bên cạnh đó trong thực tế vai trò của luật sư trong toà án cũng chưa được coi trọng. Một trong những sai sót thường gặp của các Toà án khi xét xử các tranh chấp về thừa kế QSDĐ là: Bỏ sót, không đưa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố tụng Việc xác minh, kiểm tra, đánh giá chứng cứ không kỹ; Khi xem xét tính hợp pháp của QSDĐ không tính đến việc thực hiện các chính sách đất đai của nhà nước. 3.1.2 Một số vấn đề đặt ra 3.1.2.1 Vấn đề xác định tài sản chung khi đ• hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế Trong trường hợp thời hiệu khởi kiện về thừa kế đ• hết thì những người thừa kế có quyền gì đối với di sản thừa kế đó không? để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những người thừa kế, đồng thời tôn trọng sự tự nguyện thoả thuận của họ, pháp luật quy định trong thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi đ• hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó trở thành tài sản chung của các đồng thừa kế, khi có tranh chấp và yêu cầu toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế mà sẽ áp dụng theo hướng chia tài sản chung (Nghị Quyết số 02 của Hội Đồng Thẩm Phán TAND Tối cao ngày 10/8/2004). 3.1.2.2 Xác định sở hữu tài sản là QSDĐ khi hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Khi thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đ• hết, các đương sự không còn quyền khởi kiện chia di sản thừa kế, vậy khối di sản đó sẽ thuộc về ai ? Bộ luật dân sự hiện hành không có quy định. Theo chúng tôi, trong trường hợp hết thời hiệu khởi kiện mà di sản là QSDĐ vẫn đang do một hoặc một số người trong những người thừa kế quản lý sử dụng, thì di sản này được xác lập quyền sở hữu cho người đang quản lý, sử dụng hợp pháp di sản đó. 3.1.2.3 Chia thừa kế QSDĐ là tài sản chung của vợ, chồng khi một bên chết trước mà thời hiệu khởi kiện về thừa kế của người đó đ• hết Trường hợp chia thừa kế đối với tài sản chung của vợ chồng nếu một bên vợ hoặc chồng chết trước và thời hiệu khởi kiện để chia di sản thừa kế của người này đ• hết, còn người vợ (hoặc chồng) chết sau vẫn còn thời hiệu khởi kiện thì: - Nếu người vợ hoặc chồng chết trước chỉ có một thừa kế ở hàng thứ nhất chính là người vợ hoặc chồng còn sống, và người này đ• thực hiện trên thực tế việc hưởng thừa kế của người chết trước thì khối di sản của người chết sau đ• bao gồm phần di sản của người chết trước. Do đó thời hiệu khởi kiện đối với phần di sản của người vợ hoặc chồng chết trước đ• hết không ảnh hưởng gì đến việc những người thừa kế của người chết sau xin chia toàn bộ khối di sản đó. - Nếu phần di sản của người vợ hoặc chồng chết trước, chưa chuyển hoá sang người khác, nay thời hiệu khởi kiện không còn, các thừa kế kiện yêu cầu chia di sản của người này thì Toà án không thụ lý giải quyết. Nếu họ yêu cầu chia di sản thừa kế phần di sản của người vợ hoặc chồng chết sau (còn thời hiệu) thì thụ lý giải quyết. Trường hợp này, Toà án cần tách phần di sản của người chết trước và phần di sản của người chết sau và chỉ giải quyết phân chia phần di sản còn thời hiệu khởi kiện theo thủ tục chung (Báo cáo công tác ngành tòa án 2003). 3.1.2.4 Thừa kế QSDĐ của người Việt nam định cư ở nước ngoài Luật Đất Đai cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài (thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với QSDĐ tại Việt Nam) được nhận thừa kế QSDĐ nhưng lại không quy định họ được để lại thừa kế QSDĐ đơn thuần. Theo quan điểm của tôi, nếu pháp luật đ• cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài (thuộc diện được mua nhà ở gắn liền với QSDĐ ở tại Việt Nam) được thừa kế QSDĐ thì nên thừa nhận cho họ quyền được để thừa kế QSDĐ bình đẳng như những cá nhân là người Việt Nam khác. Bên cạnh đó, luật nên quy định cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài (thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 điều 121 Luật đất đai) thuê đất của nhà nước trước ngày 01/7/2004 mà đ• trả tiền thuê đất cho cả thời gian thuê mà thời hạn thuê còn lại ít nhất là 05 năm thì có quyền để thừa kế QSDĐ đó. 3.1.2.5 Vấn đề di sản là QSDĐ dùng vào việc thờ cúng và thừa kế QSDĐ của họ tộc - Vấn đề di sản là QSDĐ dùng vào việc thờ cúng Điều 670 BLDS quy định sự kiện xác lập quyền sở hữu đối với di sản dùng vào việc thờ cúng: “ Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đ• chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”. Quy định này của pháp luật chưa đặt ra và giải quyết được các vấn đề sau: - Trong trường hợp người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng không phải là người thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản mà những người thừa kế theo di chúc đều đ• chết thì di sản dùng vào việc thờ cúng cũng không thuộc sở hữu của người đang quản lý, vậy nó thuộc về ai? - Hoặc trường hợp, không có người thừa kế theo di chúc khi đó di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ được giải quyết theo quy định nào và nó thuộc về ai khi người được chỉ định quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng chết? Bên cạnh đó, pháp luật cần có sự quy định rõ thời hạn sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng là trong khoảng thời gian bao lâu? và quy định giới hạn đối với phần di sản thờ cúng (chẳng hạn di sản dùng vào việc thờ cúng không được vượt quá 1/2 di sản; hoặc bằng một suất thừa kế theo pháp luật). Để đảm bảo sự công bằng giữa những người thừa kế và đảm bảo khai thác, phát huy được công dụng của tài sản trong x• hội, pháp luật cần quy định đối với tài sản tăng thêm từ di sản thờ cúng (hay những khoản tiền sinh ra từ di sản thờ cúng) thì được chia thừa kế. Ngoài ra, pháp luật cần quy định rõ quyền lợi, nghĩa vụ của người quản lý di sản thờ cúng. Trong trường hợp QSDĐ được để lại làm di sản thờ cúng thì pháp luật cần quy định cụ thể việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với loại đất này như thế nào và sẽ phải thể hiện nội dung đó là đất thờ cúng, người quản lý có thể đứng tên trong GCNQSDĐ nhưng không được bán và chia thừa kế đối với đất đó. - Vấn đề thừa kế QSDĐ của họ tộc Pháp luật cần phải có quy định coi đất của họ tộc là di sản dùng vào việc thờ cúng của dòng họ, và tương tự như di sản thờ cúng, đất này không được coi là di sản thừa kế. Người sử dụng loại đất này chỉ được hưởng hoa lợi trên đất, không được tự ý chuyển nhượng hoặc thay đổi mục đích sử dụng của đất. Nếu người sử dụng đất chết thì giao lại cho một người được dòng họ chỉ định tiếp tục quản lý và sử dụng vào mục đích thờ cúng. Trong trường hợp này pháp luật cần quy định sự tham gia của hội đồng gia tộc trong việc cử người quản lý di sản thờ cúng, định đoạt di sản thờ cúng, tôn tạo, sửa sang di sản thờ cúng… 3.1.2.6 Vấn đề từ chối quyền hưởng di sản QSDĐ Khoản 3 điều 642 BLDS quy định sự từ chối quyền hưởng di sản chỉ có hiệu lực trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Điều đó cũng có nghĩa là, nếu người thừa kế từ chối nhận di sản sau thời hạn 06 tháng thì sự từ chối đó vô hiệu, khi đó người thừa kế bắt buộc phải nhận di sản. Vấn đề đặt ra là, khi sự từ chối nhận di sản không được thừa nhận do đ• quá thời hạn luật định mà người thừa kế vẫn quyết định từ chối quyền hưởng di sản thì phần di sản bị từ chối này sẽ do ai hưởng?. Theo chúng tôi, để bảo vệ lợi ích hợp pháp của con, cháu người để lại di sản thì pháp luật nên quy định: trong trường hợp một người từ chối quyền hưởng di sản thì khi đó di sản mà đáng lẽ người từ chối được hưởng sẽ truyền cho con cháu của họ (trừ khi chính những người này cũng khước từ). 3.2 Phương hướng hoàn thiện và một số giải pháp nâng cao hiệu quả của các quy định thừa kế QSDĐ Qua việc nghiên cứu chế định thừa kế QSDĐ của pháp luật Việt Nam hiện hành, chúng tôi có một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các chế định pháp luật thừa kế nói chung và thừa kế QSDĐ nói riêng cũng như nâng cao hiệu quả công tác xét xử các tranh chấp về thừa kế QSDĐ, như sau: 1- Pháp luật cần tạo sự bình đẳng hơn nữa trong các vấn đề thừa kế nói chung và thừa kế QSDĐ nói riêng giữa cá nhân tổ chức trong nước với các cá nhân tổ chức nước ngoài, đặc biệt là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc diện quy định tại khoản 1 điều 121 Luật Đất Đai, cụ thể là: + Đối với vấn đề thừa kế QSDĐ của người Việt nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng quy định tại khoản 1 điều 121 Luật Đất Đai, nên quy định thêm để họ có quyền để lại thừa kế QSDĐ đơn thuần; + Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc diện quy định tại khoản 1 điều 121 Luật Đất Đai đ• về Việt Nam cư trú từ 06 tháng trở lên thì được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ (Điều 126 khoản 2 Luật Nhà ở). Pháp luận cần quy định theo hướng cho phép họ khi tham gia các chương trình dự án trong nước thì được mua nhà ở các địa phương nơi họ thực hiện dự án. +Nhà nước nên có những quy định cho phép người Việt Nam định cư ở nước ngoài (thuộc diện được mua nhà ở gắn liền với QSDĐ ở) được được phép tham gia hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Tuy nhiên khi thừa nhận người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép mua đất thì cũng phải giải quyết vấn đề thừa kế và để lại thừa kế là QSDĐ đất đó. Pháp luật hiện hành cần cho phép họ được để thừa kế QSDĐ đơn thuần. +Cần có quy phạm pháp luật điều chỉnh việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài nhận di tặng là QSDĐ; cá nhân là người Việt Nam để thừa kế QSDĐ hoặc nhà ở gắn liền với QSDĐ ở cho tổ chức nước ngoài và việc tổ chức nước ngoài nhận thừa kế QSDĐ hoặc nhà ở gắn liền với QSDĐ ở của cá nhân là người Việt Nam. 2 - Xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ về thừa kế QSDĐ: Khẩn trương ban hành Luật đăng ký Bất động sản vì Luật quy định chủ sở hữu phải đăng ký quyền sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật về đăng ký bất động sản nhưng cho đến nay (02/8/06) Luật Đăng Ký Bất Động Sản vẫn chưa được ban hành; Các văn bản hướng dẫn phải được ban hành đầy đủ, kịp thời, phù hợp với sự phát triển chung của x• hội để đưa pháp luật vào cuộc sống, trong đó Uỷ Ban thường vụ Quốc hội cần có văn bản cụ thể hoá các đối tượng khác là người Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép mua nhà ở gắn liền với QSDĐ ở tại Việt Nam (như quy định tại điều 121 khoản 1 điểm đ Luật Đất Đai). Căn cứ vào quy định của 126 khoản 2 Luật Nhà ở (về việc cư trú của người Việt Nam định cư nước ngoài), cần tiến hành làm “thẻ cư trú” cho người Nước Ngoài để các đối tượng cư trú từ 06 trở lên có căn cứ để mua nhà ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật. 3 - Cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cấp GCNQSDĐ cho người sử dụng đất để họ có thể thực hiện được quyền để thừa kế QSDĐ một cách thuận lợi; 4 - Trong trường hợp QSDĐ là di sản dùng vào việc thờ cúng hoặc QSDĐ là đất của dòng họ để dùng vào việc thờ cúng thì pháp luật cần quy định cụ thể việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với loại đất này sao cho thể hiện được nội dung đó là đất thờ cúng, người được giao nhiệm vụ quản lý có thể đứng tên trong GCNQSDĐ nhưng không được bán và chia thừa kế đối với đất đó. 5 - Pháp luật thừa kế cần có quy định sự tham gia của Hội đồng gia tộc (dòng họ) trong việc bàn bạc đưa ra quyết định đối với việc quản lý, sử dụng, tôn tạo di sản thờ cúng là QSDĐ hoặc nhà thờ gắn liền với QSDĐ. 6 - Không ngừng kiện toàn và nâng cao trình độ đối với đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử bởi đây chính là những người trực tiếp đưa các quy định của pháp luật vào thực tế cuộc sống. Pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu nhưng nếu người áp dụng không hiểu đúng tinh thần và áp dung sai thì cũng là vô nghĩa, chính vì thế yếu tố con người luôn là yếu tố cần có sự quan tâm hàng đầu; 7 - Nâng cao các biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế QSDĐ nói riêng. Bên cạnh đó cần tuyên truyền giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống theo hướng coi trọng tình cảm đặc biệt là tình cảm gia đình vì điều đó giúp giảm bớt các tranh chấp về thừa kế QSDĐ. Kết luận Thừa kế là một phạm trù kinh tế xuất hiện từ khi x• hội chưa có giai cấp, chưa có nhà nước. Thừa kế luôn gắn liền với vấn đề sở hữu, khi xuất hiện sở hữu thì cũng xuất hiện vấn đề thừa kế. Thừa kế và sở hữu luôn gắn bó với nhau: sở hữu là tiền đề cho thừa kế và ngược lại thừa kế là cơ sở để thiết lập quan hệ sở hữu mới. Khi nhà nước và pháp luật xuất hiện, thừa kế được điều chỉnh bởi pháp luật. Trong mỗi nhà nước khác nhau, vấn đề thừa kế được ghi nhận ở các mức độ khác nhau, chính vì thế pháp luật về thừa kế cũng mang tính giai cấp. Trong x• hội phong kiến, pháp luật thừa kế mang nặng yếu tố bất bình đẳng: bất bình đẳng giữa con trai, con gái; giữa vợ và chồng…; quyền quyết định và tự định đoạt đối với tài sản của người phụ nữ bị hạn chế… Ngày nay, thừa kế và để lại thừa kế là một quyền dân sự cơ bản của công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Pháp luật thừa kế hiện đại quy định theo hướng mở rộng quyền tự do định đoạt cho các chủ thể, bên cạnh đó, sự bình đẳng về thừa kế và để lại thừa kế của các chủ thể được pháp luật tôn trọng và đề cao. Thừa kế QSDĐ là một đặc thù của chế định thừa kế bởi đất đai là một tài sản đặc biệt vì thế vấn đề thừa kế QSDĐ vừa được điều chỉnh bởi BLDS lại vừa tuân theo các quy định trong Luật Đất Đai. Tuy nhiên, các quy định về thừa kế QSDĐ của nhà nước ta trong mỗi thời kỳ khác nhau được ghi nhận ở những mức độ khác nhau điều đó phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Pháp luật thừa kế QSDĐ hiện hành đ• mở rộng quyền tự do định đoạt của cá nhân trong việc định đoạt di sản QSDĐ bằng việc xoá bỏ những gì là điều kiện ràng buộc người thừa kế và người nhận thừa kế di sản là QSDĐ. Tuy nhiên, để phù hợp với nền kinh tế thị trường với xu hướng hội nhập Quốc tế ngày càng cao, pháp luật cần mở rộng hơn nữa quyền quyết định và tự định đoạt của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về thừa kế QSDĐ cũng như bảo đảm mối quan hệ hài hoà về mặt lợi ích giữa Nhà nước với các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thừa kế QSDĐ. References CÁC VĂN BẢN LUẬT : 1. Hiến Pháp 1980. 2. Hiến Pháp 1992. 3. Bộ Luật Dân Sự 1995. 4. Bộ Luật Dân Sự 2005. 5. Luật Đất Đai 1987. 6. Luật Đất Đai 1993. 7. Luật Đất Đai 2003. 8. Luật Nhà ở 2005. 9. Sắc lệnh 97-SL ngày 22/5/1950. 10. Pháp lệnh thừa kế ngày 30/08/1990. 11. Nghị Định 17/1999/NĐ-CP ngày 29/03/1999 của Chính Phủ về thủ tục chuyển nhượng, thế chấp, chuyển đổi, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất; 12. Nghị định 81/2001/NĐ-CP ngày 05/11/2001 Về việc Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở tại Việt Nam. 13. Nghị Định 181 ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai 2003. 14. Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội Đồng Thẩm phán Toà án Nhân Dân Tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình. 15. Thông tư 81 ngày 24/07/1981 của TANDTC hướng dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế. 16. Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT- TANDTC – VKSNDTC – TCĐC ngày 03/01/2002 Hướng dẫn về thẩm quyền của Toà án Nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Sách, luận án: 17. Bộ Tư Pháp, Viện Nghiên cứu khoa học Pháp lý (1995), Bình luận khoa học Bộ Luật Dân Sự Nhật Bản, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội. 18. Dương Bạch Long – Nguyễn Xuân Anh (2005), Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thừa kế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia. 19. Trần Huy Liệu (2005), Tìm hiểu những quy định mới về thực hiện quyền sử dụng đất, Nhà xuất bản Tư Pháp, Hà Nội. 20. Nhà Pháp Luật Việt-Pháp (1998), Bộ Luật dân sự của nước Cộng Hoà Pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội. 21. Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia (1995), Bộ Luật Bộ Luật Dân sự và Thương mại Thái Lan. 22. Nhà xuất bản Pháp Lý (1991), Quốc Triều Hình Luật. 23. Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội (1992), Hoàng Việt Luật Lệ. 24. Nhà xuất bản Văn hoá, Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật (Bộ dân luật Trung Kỳ 1939). 25. Lê Thị Sơn (chủ biên) (2004), Quốc Triều Hình Luật, lịch sử hình thành nội dung và giá trị, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. 26. Đinh Trung Tụng (Chủ biên) (2005), Bình luận những nội dung mới của Bộ Luật Dân sự năm 2005, Nhà xuất bản Tư Pháp, Hà Nội. 27. Phùng Trung Tập (2004), Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ 1945 đến nay, Luận án tiến sỹ. 28. TAND Tối cao (2004), Các báo cáo chuyên đề : Báo cáo tham luận của Toà Dân Sự TANDTC tại Hội nghị tổng kết ngành TAND năm 2004. 29. TAND Tối cao (2006), Báo cáo tổng kết công tác năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2006 của ngành TAND. 30. TAND Thành Phố Hà Nội, Bảng thống kê công tác xét xử các vụ án về dân sự, hôn nhân gia đình năm 2000; 2002; 2003 ; 2004 ; 2005. 31. Tối cao pháp viện (1973), Bộ Dân luật 1972 (của Chính quyền Sài Gòn). Tạp chí: 32. Tưởng Duy Lượng (2004a), “Một số vấn đề trong giải quyết các tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất”, Tạp chí TAND (02), 2- 8. 33. Tưởng Duy Lượng (2004b), “Một số vấn đề cơ bản về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai”, Tạp chí TAND (5), 23 - 29. 34. Lê Đình Nghị (2004), “Một số ý kiến xung quanh các quy định về thừa kế trong Bộ Luật Dân Sự”, Tạp chí TAND (02). 35. Phùng Trung Tập (2003), “Về các quy định thừa kế theo pháp luật trong BLDS năm 1995: Những vướng mắc và giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật (6), 31-36. 36. Phùng Trung Tập (2004), “Những hạn chế và bất cập của các quy định về thừa kế trong BLDS 1995”, Tạp chí TAND (4), 16 -19. 37. Phùng Trung Tập (2006), “Tiến trình phát triển pháp luật thừa kế Việt Nam trong 60 năm qua”, Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật (2), 33-38. 38. Nguyễn Quang Tuyến (2003), “Một số suy nghĩ về thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật hiện hành”, Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật (2), 47 - 53. 39. Nguyễn Quang Tuyến (2004), “Quyền và nghiã vụ của người nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam”, Tạp Chí Dân Chủ và Pháp Luật (10).
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan