Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện chính sách đối với đạo tin lành trên địa bàn tỉnh gia lai ....

Tài liệu Thực hiện chính sách đối với đạo tin lành trên địa bàn tỉnh gia lai .

.PDF
89
143
80

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN NÔ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI ĐẠO TIN LÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIA LAI LUẬN VĂN THẠC SĨ: CHÍNH SÁCH CÔNG ĐĂK LĂK- NĂM 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN NÔ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI ĐẠO TIN LÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIA LAI Ngành: Chính sách công Mã số: 8340402 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. TRẦN QUỐC CƯỜNG ĐĂK LĂK- NĂM 2019 Lời Cảm Ơn Tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn đến Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này. Để hoàn thành chương trình đào tạo Thạc sỹ chuyên ngành Chính sách công tại Học viện Khoa học xã hội, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình và những lời động viên, khích lệ, những ý kiến đóng góp hết sức quý báu từ quý thầy cô, các đồng chí lãnh đạo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Tôi xin được bày tỏ sự trân trọng và lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Trần Quốc Cường, người Thầy đã tận tâm giúp đỡ, định hướng cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Trong quá trình học tập, nghiên cứu luận văn và có được kết quả hôm nay, tôi luôn cảm ơn công lao giảng dạy, hướng dẫn của quý thầy, cô trong và ngoài học viện Khoa học xã hội. Tôi xin chân thành cảm ơn đến quý cơ quan: Ban Tôn giáo Chính Phủ, UBND tỉnh, Công an tỉnh, Ban Dân vận Tỉnh ủy, UBMTTQVN tỉnh, Ban Tôn giáo tỉnh Gia Lai đã cung cấp tài liệu, tạo điều kiện thuận lợi cho bản thân tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài. Tôi xin được nói lên lòng biết ơn sâu sắc đến cha mẹ đã sinh ra, chăm sóc, nuôi dưỡng tôi trưởng thành. Cảm ơn các anh, chị, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn chia sẽ, giúp đỡ tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Học viên Nguyễn Văn Nô LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong Luận văn là trung thực. Mọi trích dẫn, thông tin trong Luận văn đều được chỉ rõ nguồn. Những kết quả khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào. Gia Lai, ngày 10 tháng 11 năm 2019 HỌC VIÊN Nguyễn Văn Nô MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài ........................................ 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................... 6 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................................ 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ......................................................... 7 7. Kết cấu của luận văn ......................................................................................... 7 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH .................................................................................................................... 9 1.1. Khái niệm về thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành ............................. 9 1.2. Mục tiêu, nguyên tắc thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành ............... 10 1.3. Tiểu kết chương 1......................................................................................... 25 Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI ĐẠO TIN LÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIA LAI ............................................... 27 2.1. Khái quát chung về tỉnh Gia Lai .................................................................. 27 2.2. Hoạt động và một số đặc điểm của đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai 31 2.3. Thực trạng việc thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai.......................................................................................................... 46 2.4. Đánh giá chung về tình hình thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai...................................................................................... 54 2.5. Tiểu kết chương 2:........................................................................................... 61 Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI ĐẠO TIN LÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIA LAI ............... 62 3.1. Dự báo tình hình hoạt động của đạo Tin Lành trong thời gian tới .............. 62 3.2. Phương hướng công tác đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong thời gian tới ................................................................................................ 63 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai...................................................................................... 64 3.4.Tiểu kết chương 3: ........................................................................................ 72 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 73 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Nguyên nghĩa 1 BCH TW Ban chấp hành Trung ương 2 CMA Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp 3 DTTS Dân tộc thiểu số 4 HT Hội thánh 5 QLNN Quản lý nhà nước 6 UBMTTQVN Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam 7 UBND STT Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một thực thể xã hooijm tồn tại và phát triển qua nhiêu năm. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo đã tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội, từ văn hóa, xã hội đến tâm lý, đạo đức, lối sống; từ các dạng thức nghệ thuật đến phong tục, tập quán; từ các quan điểm triết học nhận định thế giới đến những ứng xử trong đời sống xã hội của nhiều quốc gia, dân tộc. Ở nước ta, tôn giáo là vấn đề lớn liên quan đến việc xây dựng, ban hành, thực hiện chính sách và luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện. Ngày 12/3/2003, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW khẳng định: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật [1]. Hiến pháp Nước CHXHCN Việt Nam năm 1992, Điều 70 khẳng định: “công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước” [30]. Đến Hiến pháp năm 2013, Điều 24 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng 1 và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” [31]. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ngày 18 tháng 6 năm 2004; ngày 18/11/2016 tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Chính phủ cũng đã ban hành các Nghị định, Chỉ thị liên quan để thực hiện chính sách tôn giáo như Nghị định số 69/NĐ-CP, ngày 21/3/1991; Chỉ thị 01/2005/CT-TTg ngày 04/02/2005; Nghị định 92/2012/NĐ-CP ngày 08/11/2012 quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Trên cơ sở các quan điểm, chủ trương, chính sách về tôn giáo nói chung, đối với đạo Tin Lành nói riêng, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Gia Lai cũng đã ban hành các văn bản để thực hiện các chính sách đó cho phù hợp với tình hình tôn giáo tại địa phương, như Tỉnh ủy ban hành: Chỉ thị số 22-CT/TU ngày 08/4/2005 về một số công tác đối với đạo Tin Lành, Kế hoạch số 136KH/TU ngày 26/6/2018 về thực hiện Chỉ thị 18-CT/TW ngày 10/01/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về công tác tôn giáo trong tình hình mới; UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 100/KH-UBND ngày 05/9/2016 về công tác đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai giai đoạn 2016-2020. Như vậy, Nhà nước ta đã ban hành các chính sách và tổ chức thực hiện các chính sách nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo hoặc không theo tôn giáo nào của mọi người, bảo đảm các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của mọi người. Triển khai thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành của Nhà nước, 2 trong thời gian qua trong cả nước nói chung cũng như tỉnh Gia Lai nói riêng đã đạt những kết quả đáng ghi nhận. Vấn đề về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân được đảm bảo, các chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo trên địa bàn tỉnh luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước; tiếp tục có những đóng góp tích cực trong công cuộc xây dựng và phát triển quê hương, đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đáng ghi nhận, tình hình hoạt động của đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai vẫn còn hạn chế, bất cập, có những diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo và tự do tôn giáo, đặc biệt là đối với đạo Tin Lành để tuyên truyền nhằm chống phá, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân vẫn còn diễn ra... còn những hạn chế, bất cập trên là do nhiều nguyên nhân trong số đó có nguyên nhân do tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo làm chưa tốt. Trong khâu tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo từ khâu phổ biến tuyên truyền chính sách, đôn đốc kiểm tra đến tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm thực hiện không kịp thời đầy đủ... bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ, đảng viên nhận thức về chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với đạo Tin Lành còn hạn chế, cứng nhắc; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn thiếu đồng bộ; biện pháp giải quyết các vấn đề liên quan đến đạo Tin Lành còn nhiều bất cập, chưa triệt để. Từ những phân tích nêu trên cho thấy nghiên cứu đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai là hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay, do đó học viên chọn đề tài “Thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai” để làm luận văn thạc sĩ với mong muốn đóng góp làm giàu thêm lý luận thông qua kinh nghiệm thực tiễn về thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành ở Gia Lai trong giai đoạn hiện nay. 3 2. Tình hình nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài Xung quanh vấn đề đạo Tin Lành và công tác đối với đạo Tin Lành đã có khá nhiều công trình, đề tài nghiên cứu đề cập ở những góc độ, những hướng tiếp cận khác nhau, những vấn đề đặt ra trong công tác lãnh đạo, quản lý Nhà nước, cũng như việc thực hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với đạo Tin Lành. Chính sách đối với các tôn giáo nói chung, đối với đạo Tin Lành nói riêng ngày càng được các nhà lý luận - chính trị, các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý quan tâm nghiên cứu. Vì vậy, đã có nhiều công trình về vấn đề này được công bố, một số công trình tiêu biểu liên quan đến đề tài: Tôn giáo - Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay của Nguyễn Đức Lữ (2009), Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội đã hệ thống hóa, phân tích cơ sở khoa học của toàn bộ quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo. Cuốn sách đã cung cấp cho luận văn những cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng chính sách cũng như quá trình đổi mới về chính sách tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Luận văn thạc sĩ “QLNN về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thị Hồng Hải (2009) đã hệ thống một cách khá hoàn chỉnh lý luận về mối quan hệ giữa Nhà nước và tôn giáo, QLNN đối với tôn giáo; từ đó đánh giá thực trạng công tác QLNN về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay; đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động tôn giáo. Các văn bản pháp luật về đất đai, xây dựng có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ (2013), đã cung cấp cho luận văn những văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai liên quan đến tôn giáo làm cơ sở để phân tích, luận giải về thực tiễn chính sách đất đai liên quan đến tôn giáo ở tỉnh Gia Lai. 4 Đạo Tin Lành ở miền Trung và Tây Nguyên của TS. Đoàn Triệu Long (2013) đã phác họa hành trình ra đời và những chặng đường phát triển của đạo Tin Lành ở miền Trung- Tây Nguyên; từ đó, nêu lên những yêu cầu khách quan của QLNN đối với đạo Tin Lành, đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường thực hiện tốt hơn chính sách cũng như công tác QLNN đối với đạo Tin Lành trên địa bàn miền Trung – Tây Nguyên hiện nay. Đây là cuốn sách có giá trị tham khảo cao bởi sự gần gũi với những gì đề tài luận văn hướng tới. Những biến động trong đời sống tôn giáo hiện nay và tác động của nó đến lối sống người Việt của PGS.TS Đỗ Lan Hiền (2017). Cuốn sách đã cung cấp về cái nhìn bao quát về tình hình tôn giáo trên thế giới và ở Việt Nam, những biến động theo chiều lịch sử của đất nước và tác động của tôn giáo đến lối sống người Việt trên các phương diện: hoạt động sản xuất, kinh doanh; ứng xử với thiên nhiên; ứng xử với xã hội. Đây là một yếu tố vô cùng quan trọng trong hoạch định các chính sách phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Luận văn QLNN đối với hoạt động của đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Kon Tum của Nguyễn Lê Huyền (2015) đã khái quát quá trình hình thành và phát triển đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Kon Tum, những vấn đề đặt ra hiện nay; từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động của đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong thời gian tới. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chủ yếu ở góc độ chính trị học, tôn giáo học, triết học, … hoặc đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau của tôn giáo, đặt vấn đề QLNN về hoạt động tôn giáo ở từng lĩnh vực, từng địa phương khác nhau; song chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về việc thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Chính vì những lý do nói trên, học viên chọn đề tài này sẽ góp phần làm rõ hơn vấn đề việc thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn 5 tỉnh Gia Lai; từ đó, đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính sách đối với đạo Tin Lành trong thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Luận văn nghiên cứu về việc thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai. 3.2. Nhiệm vụ Làm rõ cơ sở lý luận chính trị về chủ trương, chính sách đối với đạo Tin Lành; Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai thời gian qua; Dự báo tình hình hoạt động và xu hướng phát triển của đạo Tin Lành ở tỉnh Gia Lai trong thời gian tới; Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong thời gian đến. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Việc thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn toàn tỉnh Gia Lai. Về thời gian: Đề tài nghiên cứu trong giai đoạn từ khi có Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin Lành đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận 6 Luận văn được hình thành trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo nói chung, đạo Tin Lành nói riêng. Luận văn cũng xuất phát từ thực tiễn thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành ở tỉnh Gia Lai thời gian qua. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau: phương pháp nghiên cứu tài liệu; phương pháp phân tích tổng hợp, tổng kết kinh nghiệm; phương pháp so sánh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về mặt lý luận Thông qua nghiên cứu khoa học và thực tiễn của thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành tại tỉnh Gia Lai, luận văn hệ thống lại cơ sở lý luận và đề xuất một số giải pháp có thể tham khảo, bổ sung về mặt lý luận đối với việc thực hiện chính sách tôn giáo, cụ thể là đối với đạo Tin Lành tại tỉnh Gia Lai trong tình hình hiện nay. 6.2. Về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu của Luận văn là những đề xuất nhằm thực hiện tốt hơn chính sách đối với đạo Tin Lành ở tỉnh Gia Lai. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và học tập tại trường Chính trị tỉnh; cho các lớp bồi dưỡng đối với cán bộ làm công tác tôn giáo trên địa bàn tỉnh Gia Lai. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, luận văn gồm 3 chương. Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành. 7 Chương 2. Thực trạng việc thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai . Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành trên địa bàn tỉnh Gia Lai trong tình hình hiện nay. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI ĐẠO TIN LÀNH 1.1. Khái niệm về thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành 1.1.1. Khái niệm về chính sách Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”[55] Tóm lại, chúng ta có thể hiểu: Chính sách là một chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý, điều hành đề ra để giải quyết một vấn đề, hoặc một số vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. 1.1.2. Đạo Tin Lành Tin Lành là tôn giáo tách ra từ Công giáo vào thế kỷ XVI, do đó lúc này Giáo hội Công giáo gọi đạo Tin Lành bằng thuật ngữ Protestantism theo nghĩa là chống đối. Sau này trở thành phổ biến và là tên gọi thông dụng trên toàn thế giới. Protrstiantism dịch theo nghĩa Hán Việt là đạo Thệ phản nên được hiểu là đạo chống đối, phản kháng lại Giáo hội Công giáo. Là một tôn giáo cải cách từ Công giáo nên trong nhiều ngữ cảnh, đạo Tin Lành còn gọi là đạo Cải cách (Reformism). Và sau khi cải cách, đạo Tin Lành là một tôn giáo mới nên trong một số trường hợp, người ta còn gọi là Tân giáo. Khi đạo Tin Lành vào Việt Nam (1911), người Việt gọi theo cách của người Hán là đạo Thệ phản (dịch từ Protestantism). Mãi đến đầu những năm 1920, khi các giáo sỹ Tin Lành dịch Kinh Phúc âm (Evangelical) là Tin Lành, khác với cách dịch của Công giáo là Tin mừng. Từ đó tên gọi Tin Lành được 9 gọi thay cho đạo Thệ phản. Người Tin Lành giải thích Tin Lành theo nghĩa là tin tức tốt lành và vui vẻ. 1.1.3. Khái niệm về chính sách đối với đạo Tin Lành Chính sách đối với đạo Tin Lành là các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để giải quyết vấn đề đối với đạo Tin Lành theo quan điểm, chủ trương của Đảng và Hiến pháp của Nhà nước. 1.1.4. Khái niệm về thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành Thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành được hiểu là: quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực, đưa chính sách của Nhà nước đối với đạo Tin lành vào cuộc sống. 1.2. Mục tiêu, nguyên tắc thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành 1.2.1. Quá trình hình thành, phát triển đạo Tin Lành tại Việt Nam và tại Tây Nguyên *. Quá trình hình thành, phát triển đạo Tin Lành tại Việt Nam Đạo Tin Lành du nhập đến Việt Nam vào năm 1911 do các giáo sĩ của Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp (CMA) là R.A. Jaffray cùng các cộng sự truyền vào và đặt cơ sở đầu tiên tại Đà Nẵng (năm 1911). Đến năm 1975, đạo Tin Lành ở Việt Nam có khoảng 200.000 tín đồ, hơn 500 chức sắc, trên 20 tổ chức, hệ phái, hoạt động chủ yếu ở các tỉnh phía Nam. Sau năm 1975, nhiều tổ chức Tin Lành tự tan rã và phục hồi trở lại vào năm 1980. Đến cuối năm 2004, cả nước có trên 670.000 tín đồ. Hiện nay, đạo Tin Lành ở Việt Nam có trên 1 triệu tín đồ, có mặt 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, với khoảng 80 tổ chức, hệ phái và nhóm khác nhau, trong đó có 10 tổ chức đã được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động tôn giáo, gồm: Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam), Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Bắc), Hội Truyền giáo cơ đốc Việt 10 Nam, Tổng hội Bắp tít Việt Nam, Giáo hội Bắp tít Việt Nam, Hội Thánh Tin Lành Trưởng lão Việt Nam, Hội thánh Mennonite Việt Nam, Hội thánh liên hữu cơ đốc Việt Nam, Hội thánh phúc âm ngũ tuần Việt Nam, Hội thánh phúc âm Toàn vẹn Việt Nam. *. Quá trình thâm nhập của đạo Tin Lành vào Tây Nguyên Tây Nguyên hiện nay gồm 5 tỉnh: Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai, Lâm Đồng và Kon Tum, là nơi sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau. Tây Nguyên có lợi thế rất lớn về tự nhiên. Bên cạnh thiên nhiên ưu đãi, Tây Nguyên có vị trí địa lý đặc biệt quan trọng trong khu vực. Về mặt quân sự Tây Nguyên được coi là nóc nhà của Đông Dương. Ngay từ đầu những năm 30 của thế kỷ XX, Hội Truyền giáo CMA, Hội thánh Tin Lành Việt Nam và nay là Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) đã triển khai công cuộc truyền giáo lên Tây Nguyên, đặc biệt chú trọng phát triển tín đồ trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Năm 1931, Ha Sol (Hà San) dân tộc Cơho là người dân tộc thiểu số đầu tiên ở Tây Nguyên theo đạo Tin Lành. Đầu năm 1940, việc truyền giáo lên Tây Nguyên được triển khai ở quy mô rộng lớn với sự tham gia của cả hai tổ chức Hội Truyền giáo CMA và Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam). Đặc biệt, Đại hội đồng lần thứ 19 (1942), Hội thánh Tin Lành Việt Nam đã thông qua nghị quyết trong đó có nội dung nâng đỡ việc truyền giáo ở vùng dân tộc thiểu số, vùng núi ở duyên hải miền Trung và một phần của Đông Nam Bộ. Kết quả, đến năm 1945, ở vùng Tây Nguyên có 11 dân tộc với khoảng 1.000 người tin theo đạo Tin Lành; năm 1950 có thêm các dân tộc như: Stiêng (1951), Raglai (1951), Chu Ru (1952), Mạ (1953)… với khoảng gần 6.000 tín đồ với 70 chi hội và 47 mục sư, truyền đạo. Đặc biệt, từ năm 1954 đến năm 1975, khi Mỹ thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, việc truyền đạo 11 Tin Lành lên vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đã diễn ra thực sự sôi động. Việc truyền đạo Tin Lành lên Tây Nguyên ở giai đoạn 1954-1975 còn được sự hỗ trợ đắc lực của các tổ chức từ thiện xã hội, Tin Lành quốc tế, của cả phía chính phủ Mỹ thông qua Cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ với những khoản viện trợ phong phú từ thuốc chữa bệnh, thực phẩm, nhu yếu phẩm, quần áo trẻ em đến vật liệu xây dựng, vật tư nông nghiệp và đặc biệt là của các tổ chức truyền đạo chuyên nghiệp như Ngôn ngữ mùa hè, Thánh kinh hội… Đến năm 1975 ở các tỉnh Tây Nguyên có 61.500 tín đồ, 216 chi hội, 42 mục sư, 91 truyền đạo và 50 truyền đạo sinh, 216 nhà thờ (Lâm Đồng 103, Đăk Lăk 62, Gia Lai 32, Kon Tum 4); 02 trường Kinh Thánh (Buôn Ma Thuột và Đà Lạt); 07 Trung tâm truyền giáo (Đà Lạt, Buôn Ma Thuột, Pleiku, Bảo Lộc, Phước Long, Quảng Đức, Đơn Dương); 03 cơ sở y tế (01 trại phong và 2 bệnh viện). Sau năm 1975, đạo Tin Lành ở Tây Nguyên, đặc biệt một số mục sư, truyền đạo đã quan hệ với tổ chức phản động mang tên gọi: “Mặt trận thống nhất giải phóng các chủng tộc bị áp bức” (Fulro). Fulro có nguồn gốc từ phong trào Bajaraka, chỉ bốn dân tộc Banah, Jrai, Êđê và Kơho ra đời tháng 9/1958 nhằm chống lại việc chính quyền Ngô Đình Diệm đưa bộ phận di cư miền Bắc lên định cư ở Tây Nguyên. Sau giải phóng miền Nam, tổ chức Fulro đã lôi kéo một số mục sư, truyền đạo và tín đồ Tin Lành là người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên đi theo. Từ thực trạng như trên, do yêu cầu ổn định tình hình chính trị, nhà nước cho tạm ngưng các hoạt động của đạo Tin Lành ở Tây Nguyên kể cả trong người Kinh. Cách xử lý này nhằm mục đích loại Fulro ra khỏi Tin lành, 12 không cho chúng lợi dụng đạo Tin lành để chống phá cách mạng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở Tây nguyên. Đến năm 1992, lực lượng vũ trang của tổ chức Fulro tan rã và những tàn quân Fulro được đưa sang định cư ở Mỹ. Thời gian gần đây, cùng với những nguyên nhân về kinh tế, văn hóa, xã hội trong hoàn cảnh không được phép hoạt động bình thường nhưng tín đồ đạo Tin Lành ở Tây Nguyên vẫn phát triển nhanh chóng. Ngoài các địa bàn đã có đạo từ trước năm 1975 phục hồi trở lại, nay đạo Tin Lành đã phát triển lan rộng ra toàn vùng. Nhiều nơi trước đây đồng bào chỉ theo tín ngưỡng truyền thống, nay đã chuyển sang theo đạo Tin Lành. Ngoài ra còn hàng nghìn người theo đạo Tin Lành ở các địa phương khác di cư đến nơi sinh sống ở Tây Nguyên cũng là một trong những nguyên nhân làm cho tín đồ ở đây tăng lên. Nhìn chung, bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Tin Lành ở Tây Nguyên và vùng duyên hải miền Trung, cả số tín đồ có trước năm 1975 và số mới theo trong thời gian gần đây đã hình thành tình cảm, niềm tin tôn giáo khá sâu sắc, đang sinh hoạt tôn giáo ổn định tại các chi hội, các điểm nhóm ở các thôn, làng và trở thành một thực thể tôn giáo khá ổn định ở Tây Nguyên và vùng núi duyên hải miền Trung. Ở Tây Nguyên, cùng với phát triển nhanh của đạo Tin Lành là sự phục hồi và những hoạt động gây rối của tổ chức Fulro cũ với tên gọi Đêga. Được sự giúp đỡ của Mỹ và bọn phản động quốc tế, số người Thượng lưu vong ở Mỹ đã lập ra ba tổ chức: “Hội những người miền núi”; “Hội những người Thượng Đêga”;“Hội bảo vệ nhân quyền người Thượng”. Đến cuối năm 1999, ba tổ chức này lập ra cái gọi là “Nhà nước Đêga tự trị” lưu vong ở Mỹ. Sau khi hình thành tổ chức, chúng móc nối vào trong nước, dựng dậy và gom lại số Fulro cũ tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng. Đặc biệt chúng 13 đã mượn hình thức sinh hoạt của đạo Tin Lành để hoạt động và cho lập ra cái gọi là “Hội thánh Tin Lành Đêga” làm công cụ chính trị cho Nhà nước Đêga. 1.2.2. Quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với đạo Tin Lành Quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam là luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người dân; không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo trong mọi sinh hoạt xã hội. Đồng bào theo đạo Tin Lành cũng như đồng bào theo các tôn giáo khác đều được bảo đảm sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại việc lợi dụng tôn giáo để xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, chia rẽ dân tộc, gây mất ổn định xã hội. Những quan điểm đó được thể hiện rõ trong các văn bản của Đảng và Nhà nước: Ngày 16/10/1990 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 24-NQ/TW về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết đã xác định rõ: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”, “các giáo hội và tổ chức tôn giáo nào có đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục đích, điều lệ phù hợp với luật pháp Nhà nước, có tổ chức phù hợp và bộ máy nhân sự đảm bảo tốt về cả hai mặt đạo, đời thì sẽ được Nhà nước xem xét trong từng trường hợp cụ thể để cho phép hoạt động” [8]. Ngày 02/7/1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 37-CT/TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới, với 6 nguyên tắc và 7 nhiệm vụ, nêu rõ “ Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy ” [9]. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan