Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo từ thực tiễn huyện quế sơn, tỉ...

Tài liệu Thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo từ thực tiễn huyện quế sơn, tỉnh quảng nam .

.PDF
81
168
50

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ ĐÌNH LÂM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TỪ THỰC TIỂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ ĐÌNH LÂM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TỪ THỰC TIỂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành: Chính sách công Mã số : 8 34 04 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Hồ Sỹ Sơn. Các tài liệu, tư liệu, số liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, trung thực dựa trên sự khảo sát trực tiếp và tổng hợp của bản thân. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo qui định của Học viện Khoa học xã hội. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Võ Đình Lâm DANH MỤC VIẾT TẮT Nghĩa đầy đủ STT Từ viết tắt 1 HVHC Hành vi hành chính 2 HĐND Hội đồng nhân dân 3 QĐHC Quyết định hành chính 4 UBND Ủy ban nhân dân DANH MỤC BẢNG Số hiệu 2.1 2.2 Tên bảng Tổng hợp kết quả giải quyết khiếu nại tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam Tổng hợp kết quả giải quyết tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam Trang 47 54 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO ............................................................................. 9 1.1. Nhận thức khái quát về chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo .............. 9 1.2. Khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc, chủ thể, các giai đoạn và vai trò của thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo ..................................... 15 1.3. Những yếu tố xã hội tác động đến việc thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo ..................................................................................................... 27 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM ........ 32 2.1. Thực trạng các yếu tố xã hội tác động đến việc thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ....................... 32 2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam .................................................................................. 38 2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách giải quyết tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam .................................................................................. 45 CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM............................................................................................. 55 3.1. Yêu cầu của việc tăng cường thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam ..................................................... 55 3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.......................................................... 57 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 70 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là một trong số 08 đặc trưng của xã hội Việt Nam thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân là Nhà nước thuộc về nền dân chủ phát triển, xuất phát từ nguyên lý chủ quyền nhân dân. Quyền lực nhân dân là tối cao, là gốc của quyền lực. Quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là quyền lực phát sinh từ quyền lực nhân dân, Nhà nước được nhân dân trao quyền để thực hiện, ý chí, nguyện vọng của mình, phục vụ lợi ích của mình. Nhà nước bằng hệ thống pháp luật, tổ chức bộ máy của mình có nghĩa vụ bảo đảm, thực thi quyền dân chủ của nhân dân trên thực tế. Bộ máy nhà nước nói chung nhất là bộ máy hành chính nhà nước vốn thực thi quyền hành pháp có khả năng bảo đảm, bảo vệ quyền, lợi ích của con người, công dân. Song cũng chứa đựng khả năng xâm phạm đến quyền và lợi ích của họ. Do vậy cần có cơ chế để con người (công dân) được nói lên tiếng nói của mình một khi quyền và lợi ích của chính mình hoặc của xã hội bị xâm phạm. Giải quyết khiếu nại, tố cáo vì vậy là hoạt động không thể thiếu trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Hoạt động giải quyết khiếu nại phản ánh rõ nhất đặc tính của Nhà nước pháp quyền, nhà nước dân chủ. Giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn được Đảng ta quan tâm, coi trọng, nhằm mục tiêu xây dựng, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, giải quyết khiếu nại, tố cáo một cách đúng đắn, nhanh chóng, công khai, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, hiệu lực, hiệu quả và uy tín của bộ máy nhà nước trở thành chủ trương, đường lối của Đảng. Cũng bởi vậy Trung ương Đảng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. 1 Chủ trương, đường lối của Đảng về giải quyết khiếu nại, tố cáo được Nhà nước ta không chỉ cụ thể hóa vào chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo mà còn thể chế hóa vào hiến pháp và các văn bản pháp luật chuyên ngành về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo như: Pháp lệnh về việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991; Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 và luật sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004 và năm 2005, hiện nay là Luật số 02/2011/QH13, ngày 11/11/2011 của Quốc hội về Luật khiếu nại và gần đây nhất là Luật số 25/2018/QH14, ngày 12/6/2018 của Quốc hội về Luật Tố cáo. Trên cơ sở đó, trong những năm vừa qua, hoạt động thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước, nhất là tại địa bàn cấp huyện đạt được nhiều kết quả góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên số lượng đơn khiếu nại, tố cáo ở các cấp, nhất là cấp huyện chưa được giải quyết hay giải quyết chưa thỏa đáng vẫn còn khá nhiều; chất lượng giải quyết đơn thuộc thẩm quyền nhất là của UBND cấp huyện chưa cao. Cơ chế đánh giá trách nhiệm của UBND cấp huyện về công tác tiếp dân, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo còn chưa được chú trọng. Vẫn còn xảy ra tình trạng đơn thư tồn đọng kéo dài, đơn khiếu kiện vượt cấp, đông người. Quế Sơn là một huyện trung du thuộc tỉnh Quảng Nam với 14 xã, thị trấn. Trong những năm qua, triển khai quá trình đô thị hóa, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, liên quan đến việc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, kiểm kê, bồi thường, tái định cư và công tác giải quyết chế độ chính sách đối với người có công nên việc phát sinh khiếu nại, tố cáo của công dân có chiều hướng gia tăng, nội dung và tính chất ngày càng gay gắt, phức tạp. UBND huyện hàng năm tiếp công dân, nhận và xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, thuộc thẩm quyền khá lớn. Song thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải 2 quyết đơn vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, vướng mắt cả về lý luận và thực tiễn cần nghiên cứu trao đổi, tìm ra các giải pháp để tháo gỡ. Như vậy, để khắc phục tình trạng đó, cần có những công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nhằm góp phần bé nhỏ vào việc đó học viên lựa chọn đề tài “thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo từ thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính sách công của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Để nghiên cứu chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo học viên tham khảo các công trình nghiên cứu có liên quan trong số đó có: - Các luận án tiến sĩ: “Bảo đảm pháp lý thực hiện quyền khiếu nại hành chính của công dân ở nước ta hiện nay”, của tác giả Nguyễn Tuấn Khanh (2013), Học viện khoa học xã hội; “Phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền hành chính ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng (2013), Trường Đại học Luật Hà Nội; “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo” của tác giả Trần Văn Sơn (2006); - Đề tài cấp nhà nước: “Khiếu nại, tố cáo hành chính – Cở sở lý luận, thực trạng giải pháp” do TS. Lê Tiến Đào, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ làm chủ nhiệm năm 2011. Đề tài cấp cơ sở: “Cơ sở khoa học của việc hoàn thiện hệ thống các quy định nghiệp vụ về giải quyết khiếu nại, tố cáo” của Viện Khoa học Thanh tra chính phủ năm 2011. Đề tài cấp bộ: “Trách nhiệm pháp lý của Chủ tịch UBND các cấp trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng” do Th.S Nguyễn Tuấn Khanh, Phó Viện trưởng Viện khoa học Thanh tra làm chủ nhiệm năm 2011); Đề tài cấp bộ: “Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, khiếu nại, tố cáo những 3 vấn đề lý luận và thực tiễn” do Th.S Nguyễn Văn Kim, Phó Vụ trưởng Vụ pháp chế Thanh tra Chính Phủ làm chủ nhiệm năm 2010). Luận văn thạc sỹ: Giải quyết khiếu nại về đất đai từ thực tiễn thành phố Hà Nội của tác giả Nguyễn Minh Ngọc (2014), Học viện Khoa học xã hội; Giải quyết tố cáo hành chính của công dân từ thực tiễn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội của tác giả Hồ Thị Na (2015), Học viện Khoa học xã hội; Thanh tra trong việc giải quyết khiếu nại hành chính từ thực tiễn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Nam (2015), Học viện Khoa học xã hội; Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội thực trạng và giải pháp của tác giả Lê Thị Sáu (2014); Giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước qua thực tiễn thành phố Hải Phòng của tác giả Trình Văn Thảo (2014). - Các bài tạp chí: TS. Trần Kim Liễu (2011), Đối tượng khiếu kiện vụ án hành chính và việc thực hiện hóa Luật tố tụng hành chính 2010, Tạp chí khoa học pháp lý số 3/2011; Phạm Hồng Thái (2013), Quyết định hành chính nhà nước – một số vấn đề lý luận, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học, tập 29, số 2 (2013). Tìm hiểu kết quả nghiên cứu của các công trình trên cho thấy, các đề tài, công trình khoa học trên đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề cả lý luận và thực tiễn về khiếu nại hành chính, hoàn thiện về pháp luật và áp dụng pháp luật trong quản lý nhà nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các công trình trên đã phân tích, luận giải, làm rõ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cấp chính quyền ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên chưa có công trình nào tiếp cận từ góc độ nghiên cứu vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính và hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước tại địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Điều này cho phép khẳng định, đề tài luận văn của tác giả không trùng lặp với các công trình đã được triển khai 4 nghiên cứu. Tuy nhiên tri thức, kết quả nghiên cứu của những công trình khoa học đó được học viên tiếp thu, phát triển trong khi thực hiện luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận các văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa chính sách khiếu nại, tố cáo, thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo nhất là giải quyết khiếu nại trong quản lý hành chính và đội ngũ công chức trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam luận văn đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường giải quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên đây luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ: - Phân tích những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo. - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. - Từ sự phân tích đánh giá hiện trạng (kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân) để đề xuất các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Là những vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo, về chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo, các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo hành chính. Thực tiễn thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. 5 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về mặt không gian: Nghiên cứu thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. - Về mặt thời gian: Nghiên cứu công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính trên địa bàn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018. - Về nội dung: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo trong lĩnh vực hành chính. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nội dung nghiên cứu được tiếp cận dưới góc độ khoa học chính sách công và các khoa học liên ngành. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây: Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp; Phương pháp đối chiếu - so sánh. Cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp thu thập thông tin, tổng hợp các tư liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu như các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương; các bài viết trên sách, báo, tạp chí và công trình nghiên cứu khác liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo ở nước ta nói chung và thực tiễn huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam nói riêng; kết hợp phương pháp phân tích, đánh giá, dự báo để phân tích thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn là công trình nghiên cứu lý luận và thực trạng thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo ở cấp huyện, thông qua việc mô tả chi tiết thực trạng hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương cấp huyện. Luận văn làm rõ thêm một số khía cạnh lý luận, pháp lý chung về khiếu nại, tố cáo và hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước. Nội dung luận văn cung cấp thông tin về hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của chính quyền cơ sở đánh giá việc áp dụng Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, các văn bản hướng dẫn và quy định pháp luật chuyên ngành như đất đai, xây dựng tài chính - ngân sách trong thực tiễn hoạt động của chính quyền cơ sở. Từ đó Luận văn cung cấp “những tình huống có vấn đề” trong áp dụng pháp luật của chính quyền địa phương; cung cấp các luận cứ cho cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nghiên cứu định hướng hoàn thiện chính sách pháp luật. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn cung cấp những thông tin, luận điểm qua việc phân tích, đánh giá hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của chính quyền cơ sở. Do đó Luận văn góp phần đóng góp những giải pháp mang tính thực tiễn để cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức tham khảo, có thể áp dụng trong thực tế công tác ở cơ quan đơn vị mình. Đây cũng là tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, học tập, giảng dạy; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương: 7 Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo. Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo tại cấp huyện ở nước ta hiện nay. 8 CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO 1.1. Nhận thức khái quát về chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo 1.1.1. Một số quan niệm về giải quyết khiếu nại, tố cáo 1.1.1.1. Một số quan niệm về khiếu nại Trong thực tiễn giải quyết khiếu nại hiện nay ở nước ta, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì còn nhận được nhiều đơn khác với nội dung khiếu nại nhưng được dùng với nhiều thuật ngữ khác nhau như: “đơn kêu oan”, “đơn kêu cứu khẩn cấp”, “đơn trình bày”… Do vậy, trước hết cần phải làm rõ thuật ngữ “khiếu nại”. Thuật ngữ “khiếu nại” được hiểu theo nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Trong “Đại từ điển tiếng việt” thì “khiếu nại” có nghĩa là: “thắc mắc đề nghị xem xét lại những kết luận, quyết định do cấp có thẩm quyền đã làm, đã chuẩn y” [28,tr.904]. Luật Khiếu nại năm 2011, được Quốc hội Khóa XIII, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 11/11/2011 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2012, tại khoản 1 điều 2 quy định: “Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại QĐHC, HVHC của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình” [10]. Việc phân tích nội dung của các quan niệm trên cho thấy điểm giống nhau cơ bản của chúng thể hiện ở chỗ: khiếu nại là một hình thức phản ứng tự vệ của công dân, cơ quan, tổ chức trước các quyết định, hành vi mà theo họ là 9 xâm phạm tới quyền, lợi ích của mình. Đồng thời việc phân tích các quan niệm nêu trên cho thấy chúng khác nhau về phạm vi, khách thể khiếu nại, trong đó cách quan niệm về khiếu nại trong Luật Khiếu nại là hẹp nhất. Từ những phân tích khái quát trên đây có thể khẳng định khiếu nại xuất hiện khi quyền, lợi ích của bản thân chủ thể khiếu nại bị xâm hại, do đó có thể coi khiếu nại là một hình thức phản kháng của cá nhân, cơ quan, tổ chức trước quyết đinh, hành vi của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác xâm phạm đến quyền, lợi ích của mình thông qua việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đó xem xét lại quyết định, hành vi của họ. 1.1.1.2. Một số quan niệm về tố cáo Tố cáo xét ở phương diện xã hội là việc người tố cáo thể hiện sự bất bình đối với hành vi vi phạm pháp luật, báo việc đó đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm. Ở phương diện chính trị - pháp lý tố cáo là quyền dân chủ cơ bản của công dân, là phương thức để công dân tham gia hoạt động quản lý nhà nước (thực hiện nguyên lý chủ quyền nhân dân) bảo vệ trật tự pháp luật, lợi ích nhà nước, tổ chức, công dân. Theo Luật tố cáo 2018 thì Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân [11]. Luật cũng phân loại nội dung tố cáo theo các hành vi thực hiện công vụ của cán bộ, công chức và hành vi vi phạm thuộc các lĩnh vực quản lý chuyên ngành: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vậy là việc công dân báo cáo cho cơ 10 quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội là việc công dân báo cáo cho cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đối với việc chấp hành quy định pháp luật về quản lý hành chính nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. 1.1.2. Một số quan niệm chính sách giải quyết khiếu nại, tố cáo 1.1.2.1. Một số quan niệm về Chính sách giải quyết khiếu nại Trong hệ thống các quyền cơ bản của con người, quyền khiếu nại thuộc phạm vi các quyền dân sự, chính trị, đó là nhóm quyền có liên quan mật thiết đến quyền tự do cá nhân. Khi quyền và lợi ích của con người bị vi phạm, họ có thể sử dụng quyền khiếu nại để bảo vệ, lên án những vi phạm đó. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra chủ trương, đường lối về giải quyết khiếu nại. Bởi vậy giải quyết khiếu nại luôn được coi là nhiệm vụ chính trị của cả hệ thống chính trị. Việc giải quyết khiếu nại có hiệu lực, hiệu quả chính là một trong những cơ sở, điều kiện để ngăn ngừa xung đột xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “đồng bào có ai oan ức hay chưa hiểu rõ về chính sách của Đảng và Chính phủ mới khiếu nại”. Câu nói đó thể hiện sự chia sẻ và quan điểm vì dân, luôn đứng về phía người dân của Hồ Chủ tịch. Đảng, Nhà nước ta xác định tranh chấp dân sự và khiếu kiện của dân là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về chính sách, luật pháp chưa hoàn chỉnh; trong lãnh đạo, quản lý kinh tế, xã hội, một số cán bộ hoặc cấp uỷ và chính quyền các cấp có những khuyết điểm, sai phạm. Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, Chính phủ, Bộ Chính trị đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức đảng, chính quyền, 11 đoàn thể tổ chức quán triệt đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức nhân dân có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên; tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, nhất là giữa các cơ quan chức năng trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và lợi ích của người dân, nhất là trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên, đầu tư, tài chính..., bảo đảm tính đồng bộ phù hợp thực tiễn. Phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước; lấy hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo làm tiêu chí đánh giá năng lực, kết quả công tác. Các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, tòa án, công an nâng cao trách nhiệm trong việc chủ trì, phối hợp xử lý theo thẩm quyền, giải quyết dứt điểm những vụ việc khiếu kiện phức tạp, kéo dài. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần làm tốt vai trò đại diện quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên, đoàn viên, kiến nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết khi có tranh chấp. Đẩy mạnh công tác hòa giải, đối thoại, vận động, thuyết phục công dân chấm dứt khiếu nại, tố cáo không đúng, giảm thiểu các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo từ cơ sở. Kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp dân và tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thông nghiệp vụ, có khả năng hướng dẫn, giải thích, thuyết phục để công dân hiểu và chấp hành đúng pháp luật. Bố trí trụ sở, trang bị phương tiện và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác tiếp công dân, bảo đảm thuận lợi cho công dân và cán bộ, công chức tiếp công dân. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan thông tin đại chúng trong việc cung cấp thông tin, bảo đảm chính xác, kịp thời, trung thực, khách quan; khi có sai sót phải 12 kịp thời cải chính, góp phần định hướng dư luận xã hội và hỗ trợ công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trên cơ sở chủ trương đường lối của Đảng về giải quyết khiếu nại, Nhà nước ta hoạch định và ban hành chính sách về giải quyết khiếu nại. Đó là những quyết định ở tầm tư tưởng, định hướng chiến lược cho việc giải quyết khiếu nại. Trên cơ sở chính sách đó, Nhà nước ban hành pháp luật về khiếu nại. Như vậy, pháp luật về khiếu nại là phương tiện thể chế hóa chính sách giải quyết khiếu nại. Chính vì vậy, việc khiếu nại của công dân là quyền được ghi nhận trong các bản Hiến pháp năm 1959 (Điều 29) Hiến pháp 1980 (Điều 73); Hiến pháp 1992 (Điều 74); Hiến pháp 2013 (Điều 30) và các văn bản pháp luật khác. Khiếu nại là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị xâm phạm. Công dân sử dụng quyền khiếu nại là thể hiện quyền dân chủ trực tiếp. Giải quyết khiếu nại hành chính trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước là biện pháp bảo đảm cho quyền khiếu nại của công dân thực hiện trên thực tế. Mọi hoạt động của Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước đều nhằm mục đích cuối cùng là để phục vụ nhân dân, những quy định của pháp luật về quyền khiếu nại chỉ được thực hiện tốt, đáp ứng được yêu cầu, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có trách nhiệm, đề cao và thực hiện tốt việc khiếu nại hành chính, tôn trọng sự thật khách quan, đặt lợi ích của nhà nước, lợi ích của nhân dân lên trên hết. 1.1.2.2. Một số quan niệm về chính sách giải quyết tố cáo Cũng như cách tiếp cận chính sách giải quyết khiếu nại, chính sách giải quyết tố cáo cũng bắt nguồn từ đường lối, chủ trương của Đảng về giải quyết tố cáo, từ đó được Nhà nước hoạch định thành chính sách và được thể chế hóa vào pháp quật về giải quyết tố cáo. Những năm qua, công tác giải quyết tố cáo 13 hành chính đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã thu được những kết quả đáng ghi nhận. Thông qua việc giải quyết tố cáo hành chính của công dân, các cơ quan đã kịp thời chấn chỉnh những yếu kém, sơ hở trong quản lý nhà nước; sửa đổi, bổ sung các văn bản, chính sách phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới; khuyến khích công dân tích cực tham gia phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong giải quyết tố cáo. Quyền tố cáo được thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật của nhà nước ta. Các cơ quan thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ trên thực tế các quyền này. Khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Thường xuyên chú trọng việc hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và lợi ích của người dân, bảo đảm tính đồng bộ phù hợp thực tiễn. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giải quyết tố cáo theo hướng nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan thanh tra; của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, của HĐND, đại biểu HĐND trong việc thực hiện chức năng giám sát; của người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo. Quy định rõ trách nhiệm, chế tài xử lý vi phạm trong lĩnh vực tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Có quy chế đối thoại với công dân, công khai kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận luôn nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thường xuyên. Năm 2011 Quốc hội ban hành Luật Tố cáo số 03/2011/QH13 và đến năm 2018 Quốc hội ban hành Luật Tố cáo số 25/2018/QH14 về việc “quy 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan