VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI TẤN CƯỜNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH NCC
VỚI CÁCH MẠNG TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ
TAM KỲ TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI – năm 2018
1
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI TẤN CƯỜNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH NGƯỜI CÓ CÔNG
VỚI CÁCH MẠNG TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ TAM KỲ, TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành
: Chính sách công
Mã số
:
834 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHẠM MINH PHÚC
HÀ NỘI - 2018
2
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam liên tục phải đối
mặt với chiến tranh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ ở thế kỉ XX,
những tổn thất của nhân dân ta về người và của, về cơ hội để phát triển đất nước là
vô cùng to lớn, không chỉ ảnh hưởng đến những người của thời chiến đã trực tiếp
tham gia và đã đóng góp công sức vào cuộc kháng chiến “thần thánh” đó, mà những
di chứng của nó vẫn gieo rắc lên các thế hệ tương lai.
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, đền ơn đáp nghĩa với NCC bảo vệ tổ quốc là
truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những vết thương
vẫn còn đau buốt trên thân thể những người lính; nỗi cơ đơn của những người vợ,
người mẹ, thân nhân liệt sĩ vẫn còn đó; đó chính là những tổn thất và thể xác và tâm
hồn mà NCC và thân nhân của họ phải gánh chịu.
Vì vậy, chúng ta phải có trách nhiệm thương yêu, giúp đỡ NCC và thân nhân
của họ. Việc thực hiện chính sách thương binh, liệt sỹ, chăm sóc thương binh, bệnh
binh, gia đình liệt sỹ, gia đình có công giúp đỡ cách mạng là bổn phận, trách nhiệm
của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội với tinh thần đền ơn đáp nghĩa nghĩa, tri ân đối
với NCC. Trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng, Nhà nước ta khẳng định thực
hiện tốt chính sách ưu đãi đối với NCC vừa là tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm
cao cả của cả hệ thống chính trị và toàn dân đối với người có cách mạng, đồng thời
là giải pháp góp phần bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.
Phát biểu tại Lễ Kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ, đồng chí Nguyễn Phú
Trọng, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Các anh hùng liệt sĩ đã
anh dũng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Suốt mấy chục năm qua,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, chế độ đối với thương binh,
bệnh binh, gia đình liệt sỹ, người và gia đình có công giúp đỡ cách mạng và thường
3
xuyên bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ cách mạng, đến nay đã hình
thành một hệ thống chính sách mà các nội dung đều gắn liền với việc thực hiện
chính sách kinh tế - xã hội và liên quan đến đời sống hàng ngày của hàng triệu
NCC. Các chính sách ưu đãi này đã góp phần xoa dịu nỗi đau, giảm bớt những khó
khăn về vật chất trong cuộc sống hành ngày, là nguồn động viên, khích lệ NCC
vươn lên trong cuộc sống.
Tuy nhiên, do Việt Nam là một nước nghèo, thiên tai hạn hán, lũ lụt thường
xuyên, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước gặp nhiều khó khăn, nguồn
lực của Nhà nước chỉ đáp ứng một phần, nên công tác “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc
sức khỏe và nâng cao đời sống cho NCC với cách mạng vẫn còn nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó, thực tế thực hiện chính sách còn nhiều tồn tại từ nhiều nguyên
nhân khác nhau mà gây khó khăn, cản trở cho cả cán bộ, công chức thực hiện chính
sách và khó khăn cho người thụ hưởng chính sách. Ví dụ: Pháp lệnh Ưu đãi NCC
tuy đã được sửa đổi, bổ sung kịp thời, nhưng một số văn bản hướng dẫn thực hiện
Pháp lệnh vẫn chưa bảo đảm sự thống nhất. Một số quy định liên quan công tác xác
nhận NCC, thực hiện chính sách ưu đãi… còn bất cập, gây khó khăn cho công tác tổ
chức, thực hiện. Đối tượng thuộc diện thụ hưởng chính sách ưu đãi ngày càng mở
rộng, chế độ ưu đãi ngày càng nâng cao, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
thực tế, nguyện vọng chính đáng của đối tượng NCC; vẫn còn đối tượng NCC chưa
được công nhận để thụ hưởng chính sách ưu đãi; đời sống của một bộ phận NCC
còn gặp nhiều khó khăn…
Xuất phát từ yêu cầu khách quan, cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc và lý do như đã nêu ở trên, nên tôi đã lựa chọn vấn đề “Thực hiện chính
sách NCC với cách mạng từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam” làm đề
tài luận văn tốt nghiệp của mình.
4
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Những nghiên cứu, bài viết, đánh giá về thực hiện chính sách NCC với cách
mạng tại các địa phương cụ thể đã được những nhà hoạch định chính sách, các tác
giả và độc giả quan tâm. Đến nay, đã có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu cũng
như sách, báo, tạp chí viết về vấn đề này, tiêu biểu như:
- Cuốn sách “Một số vấn đề chính sách xã hội ở nước ta hiện nay” của tác
giả Hoàng Chí Bảo. Tác giả khẳng định: Chính sách xã hội không ngừng thay đổi
để phù hợp với đối tượng áp dụng. Đất nước ngày càng phát triển thì việc yêu cầu
các chính sách phải xuất phát từ thực tiễn, gắn liền với lợi ích của đối tượng. Chính
sách đối với NCC được thay đổi qua các thời kỳ, sự thay đổi đó có những mặt tích
cực và tiêu cực trong việc triển khai, thực hiện chính sách.
- Luận án Phó tiến sỹ Luật học (1996) “Hoàn thiện pháp luật ưu đãi NCC ở
Việt Nam - Lý luận thực tiễn” của tác giả Nguyễn Đình Liêu. Luận án đã nêu những
vấn đề cơ bản như: Khái niệm Pháp luật ưu đãi NCC, lịch sử hình thành và phát triển
của pháp luật này, thực trạng của pháp luật này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
và việc hoàn thiện pháp luật ưu đãi NCC.
- Trong cuốn “Những điều cần biết về chính sách với NCC”, tác giả đã nêu
rõ những căn cứ pháp lý về thực hiện chính sách ưu đãi với NCC ở nước ta. Bài viết
đã đề cập đến các căn cứ pháp lý cụ thể và rõ ràng để mọi người và chính bản thân
NCC biết được những quyền lợi nào họ được hưởng.
- Năm 2005, Nguyễn Thị Hằng, nguyên Bộ trưởng Bộ LĐTB&XH có bài:
Tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa chính sách ưu đãi xã hội đối với thương binh, gia
đình liệt sỹ, NCC với cách mạng trên Tạp chí Cộng sản số 7/2005.
- Bài “Chủ trương của Đảng đối với thương binh, liệt sỹ thời kỳ đổi mới”
của tác giả Nguyễn Danh Tiên đăng trên Tạp chí Khoa học Quân sự tháng 7/2012.
Bài viết đã khái quát những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
đối với công tác thương binh, liệt sỹ từ năm 1986 đến năm 2012. Đồng thời, đưa ra
những đánh giá thực trạng để thấy được sự bất cập, những tồn tại quá trình thực
hiện.
5
- Cũng trong năm 2012, Nguyễn Duy Kiên - Phó Cục trưởng Cục NCC, Bộ
LĐTBXH có bài Chính sách NCC - là trách nhiệm của toàn dân, Tạp chí Tuyên
giáo số 7/2012. Bài viết này đã khái quát một số thành tựu của chính sách ưu đãi
NCC trong những năm qua, đi sâu vào đánh giá tìm hiểu nguồn lực thực hiện chính
sách ở nước ta. Tác giả bài viết nhận định: Đối với việc thực hiện các nguồn trợ cấp,
ưu đãi thường xuyên đối với NCC với cách mạng thì Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Nguồn lực này có ý nghĩa lớn đối với việc ổn định đời sống của NCC, bởi lẽ họ
thường là những người không có lương cũng như bảo hiểm xã hội.
Các bài viết, các nghiên cứu trên đã góp phần vào việc đánh giá, nhận định
các vấn đề về chính sách, thực hiện chính sách ưu đãi đối với NCC với cách mạng.
Luận văn “Thực hiện chính NCC với cách mạng từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam” tuy không thuộc một chủ đề mới, nhưng điểm mới của luận văn
chính là tìm hiểu, đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách NCC với cách mạng trên
địa bàn cụ thể là thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam; điều này có ý nghĩa quan
trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả của chính sách ưu đãi xã hội với đối
tượng NCC với cách mạng trên địa bàn thành phố Tam Kỳ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu các khái niệm, các vấn đề lý luận về thực hiện chính sách NCC với
cách mạng để có cơ sở khoa học đánh giá thực trạng thực hiện chính sách tại thành
phố Tam Kỳ; nêu lên những tồn tại, hạn chế, phân tích các nguyên nhân, từ đó đề
xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách NCC với cách mạng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu các khái niệm, quan điểm dưới góc độ lý luận và thực tiễn về
thực hiện chính sách NCC với cách mạng ở nước ta.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách NCC với cách mạng
tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
- Xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách NCC với cách mạng ở thành phố Tam Kỳ.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
6
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Là toàn bộ chính sách, chủ thể thực hiện chính sách, các điều kiện thực hiện
chính sách NCC.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu các quan điểm, chính sách, tình hình thực hiện chính sách NCC
ở Việt Nam; thực trạng thực hiện chính sách NCC với cách mạng ở thành phố Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam từ năm 2012 đến nay và đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách NCC với cách mạng ở nước ta trong thời gian tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng, đặt
vấn đề nghiên cứu trong mối quan hệ với các vấn đề xung quanh và trong mối
quan hệ giữa lý thuyết với thực tế.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên việc khai thác thông tin dữ liệu từ các nguồn
có sẵn liên quan, bao gồm: các văn bản của Đảng, Nhà nước ở cả Trung ương và địa
phương; thu thập thông tin trên mạng internet, một số sách, báo, tạp chí và công
trình nghiên cứu khác như các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban ngành
đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp, gián tiếp tới vấn đề chính sách NCC với
cách mạng ở nước ta nói chung và thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Ý nghĩa lý luận của luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý
luận về thực hiện chính sách công ở Việt Nam nói chung và thực hiện chính sách
NCC với cách mạng thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Thể hiện ở chỗ đã đề xuất các giải pháp mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, các
kinh nghiệm góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách NCC với
cách mạng tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Luận văn có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về chuyên đề chính
7
sách ưu đãi xã hội, chính sách ưu đãi NCC với cách mạng chuyên ngành chính sách
công ở nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1: Các khái niệm về thực hiện chính sách NCC với cách mạng.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đối với NCC với cách mạng
thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Quan điểm, mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách đối với NCC với cách mạng ở nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN
8
CHƯƠNG 1
CÁC KHÁI NIỆM VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1.1 . Khái niệm NCC với cách mạng và chính sách NCC với cách mạng
1.1.1. Người có công
Cho đến nay, chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu lịch sử nào đề cập đến khái
niệm NCC; tuy nhiên, từ các dấu tích lịch sử để lại như đền thờ, miếu thờ, đình
làng... được Nhân dân lập ra để thờ cúng Thành hoàng làng, những anh hùng kiệt
xuất trong lịch sử dân tộc, thậm chí một số nhân vật truyền thuyết đã có công lập
nước, lập làng, mở mang bờ cõi hoặc có công lao trong các cuộc kháng chiến chống
giặc ngoại xâm; có thể suy luận rằng quan niệm về NCC trong lịch sử khá rộng,
không chỉ là những NCC trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, mà còn
bao gồm cả những NCC đóng góp công sức để mở mang bờ cõi, lập nước, lập làng
giúp dân vượt qua thiên tai, địch họa.
Tuy nhiên, khái niệm thương binh, liệt sĩ chính thức được sử dụng, đề cập
trong các văn bản cùng với sự thành công của Cách mạng tháng Tám và sự ra Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Càng về sau thì các đối tượng càng được mở
rộng hơn và được gọi chung là: NCC. Khái niệm “NCC” được gắn với việc quy
định chế độ chính sách ưu đãi trong Pháp lệnh ưu đãi NCC với cách mạng năm
1994 và được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và 2012 như sau:
(1) Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 - 01 - 1945 là người tham gia
hoạt động cách mạng trước ngày 01-01-1945; được kết nạp vào Đảng Cộng sản
Đông Dương hoặc được kết nạp lại trước ngày 19-8-1945, được cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền công nhận theo quy định tại Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 24-12-1977 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IV) về chính sách, chế độ đối với cán bộ, đảng
viên hoạt động lâu năm và Thông tri số 07-TT/TC ngày 21-3-1979 của Ban Tổ
chức Trung ương hướng dẫn vận dụng tiêu chuẩn và xác nhận những đối tượng
hưởng chính sách, chế độ đối với người hoạt động cách mạng trước ngày 19-8-
9
1945 [14, tr.2].
(2) Người HĐCM từ ngày 01- 01-1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm
1945 là người hoạt động cách mạng thoát ly người đã tham gia trong các tổ chức
cách mạng, lực lượng vũ trang từ cấp huyện hoặc cấp hành chính tương đương trở
lên trong khoảng thời gian từ ngày 01-01-1945 đến ngày khởi nghĩa của từng địa
phương và sau đó tiếp tục tham gia một trong hai cuộc kháng chiến (trừ trường hợp
do yêu cầu giảm chính, phục viên hoặc không đủ sức khỏe) [14, tr.5].
(3) Liệt sĩ là người hy sinh thuộc một trong các trường hợp: Chiến đấu bảo
vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia; trực tiếp phục vụ chiến
đấu trong khi địch bắn phá: tải đạn, cứu thương, tải thương, đảm bảo thông tin liên
lạc, cứu chữa kho hàng, bảo vệ hàng hóa và các trường hợp đảm bảo chiến đấu; làm
nghĩa vụ quốc tế mà bị chết trong khi thực hiện nhiệm vụ hoặc bị thương, bị bệnh
phải đưa về nước điều trị và chết trong khi đang điều trị; trực tiếp tham gia đấu
tranh chống lại hoặc ngăn chặn các hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc các tội
được quy định trong Bộ luật Hình sự; dũng cảm thực hiện công việc cấp bách, nguy
hiểm phục vụ quốc phòng và an ninh; dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà
nước và nhân dân; do ốm đau, tai nạn trong khi đang làm nhiệm vụ quốc phòng và
an ninh ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của
pháp luật; khi đang trực tiếp làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ do cơ
quan có thẩm quyền giao… [14, tr.8].
(4) Bà mẹ Việt Nam anh hùng: Danh hiệu cao quý này được ban hành theo
Pháp lệnh ngày 29 tháng 8 năm 1994 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và được quy định trong Luật Thi đua khen thưởng
năm 2003.
(5) Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân: là danh hiệu cao quý được Nhà
nước phong tặng hoạt truy tặng theo quy định của pháp luật.
(6) Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến bao gồm: là danh hiệu
cao quý được Nhà nướctuyên dương vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong
lao động, sản xuất phục vụ kháng chiến.
(7) Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh là người bị
10
thương trong các trường hợp: chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, an ninh quốc gia; trực tiếp phục vụ chiến đấu trong khi địch bắn phá: tải đạn,
cứu thương, tải thương, đảm bảo thông tin liên lạc, cứu chữa kho hàng, bảo vệ hàng
hóa và các trường hợp đảm bảo chiến đấu; hoạt động cách mạng hoặc hoạt động
kháng chiến bị địch bắt, tra tấn vẫn không khuất phục, kiên quyết đấu tranh, để lại
thương tích thực thể; Làm nghĩa vụ quốc tế mà bị thương trong khi thực hiện nhiệm
vụ… [14, tr.12].
(8) Bệnh binh là người bị mắc bệnh thuộc một trong các trường hợp sau:
chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia; trực tiếp
phục vụ chiến đấu trong khi địch bắn phá; hoạt động liên tục ở địa bàn có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật từ 15 tháng trở lên;
hoạt động ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định
của pháp luật chưa đủ 15 tháng nhưng có đủ 10 năm trở lên công tác trong quân đội
nhân dân, công an nhân dân…. [14, tr.16].
(9) Người HĐKC bị nhiễm CĐHH là người được cơ quan có thẩm quyền
công nhận đã công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu từ ngày 01 tháng 8 năm 1961
đến 30 tháng 4 năm 1975 tại các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hóa học
ở chiến trường B, C, K; mắc bệnh theo danh mục bệnh tật do Bộ Y tế quy định làm
suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên; vô sinh; sinh con dị dạng, dị tật theo
danh mục dị dạng, dị tật do Bộ Y tế quy định [14, tr.18].
(10) Người hoạt động cách mạng hoặc HĐKC bị địch bắt tù, đày: là người
được tham gia hoạt động cách mạng mà bị tù đày. Trong thời gian bị tù, đày người
đó không khai báo các vấn đề, nội dung có hại cho cách mạng, cho kháng chiến; họ
không làm tay sai, chỉ điểm cho địch.
(11) Người HĐKC giải phóng dân tộc [14, tr.22].
(12) Người giúp đỡ cách mạng: là người đã có công giúp đỡ cách nmangj và
được cơ quan có thẩm quyền công nhận [14, tr.22].
1.1.2. Nhu cầu, đặc điểm của NCC với cách mạng
1.1.2.1. Nhu cầu của NCC với cách mạng
11
NCC với cách mạng cũng như bao người dân bình thường khác trong xã hội,
đều có nhu cầu, mong muốn có gia đình đông đủ, sum vầy, mạnh khỏe, có
cuộc sống vật chất và tinh thần đầy đủ, ấm no và hạnh phúc, có điều kiện, cơ hội
vươn lên làm giàu chính đáng. Tuy nhiên, NCC là người đã tham gia kháng chiến,
bản thân họ có những thiệt thòi nhất định về sức khỏe, tinh thần, khuyết, thiếu
những điều kiện, cơ hội phát triển như những thành phần khác trong xã hội; đại
đa số những đối tượng này đều ở trong hoàn cảnh rất khó khăn, cần được quan tâm,
chăm sóc, chia sẻ, động viên, hỗ trợ, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội.
1.1.2.2. Đặc điểm của NCC với cách mạng
Vì đã trải qua những cuộc chiến nên NCC với cách mạng là những người
luôn luôn trân trọng quá khứ, tự hào về những công lao đóng góp của bản thân và
gia đình cho sự nghiệp cách mạng. Trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại
xâm, bảo vệ tổ quốc, vì mảnh đất máu thịt của quê hương, đất nước, họ đã không
ngại hy sinh tuổi thanh xuân, thân thể, sinh mạng, tài sản để cống hiến cho công
cuộc đấu tranh giành tự do cho đất nước, độc lập cho dân tộc.
Khi đất nước được hòa bình, độc lập, thống nhất, thời thanh xuân trẻ trung,
sôi nổi đã qua đi, thậm chí có nhiều người mất đi một phần thân thể của mình, mang
trong mình những vết thương không lành, làm ảnh hưởng tới sức khỏe, gây ra nỗi
đau về thể xác, bệnh tật cho bản thân và tốn kém chi phí chữa bệnh của gia đình. Về
với cuộc sống đời thường, họ vẫn luôn sống gương mẫu, luôn thể hiện tinh thần đấu
tranh quyết liệt với những tiêu cực của xã hội. Như vậy, có thể thấy, NCC là những
người có uy tín, có sự ảnh hưởng, để vận động nhân dân hưởng ứng thực hiện các
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh
đất nước không ngừng phát triển theo quy luật khách quan; môi trường, điều kiện
của nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường đòi hỏi sự nhanh nhạy, thích nghi và
không “ưu tiên” cho người không bắt kịp xu thế; do đó với hoàn cảnh khó khăn, đôi
lúc họ cũng có tâm trạng mặc cảm, cảm thấy mình bị thiệt thòi, thua thiệt, mất mát
hơn so với những người xung quanh.
1.1.3. Chính sách công
12
Hiện nay, thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến trên sách báo, các
phương tiện thông tin và đời sống xã hội, tuy nhiên về mặt học thuật, vẫn chưa có
sự thống nhất về khái niệm chính sách. Tại Việt Nam, Từ điển bách khoa toàn thư
đã đưa ra khái niệm chính sách như sau: Chính sách là tập hợp những quyết định,
chương trình, đề án, dự án về phương diện nào đó của chính phủ bao gồm các mục
tiêu mà chính phủ muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó.
Ở Việt Nam, khoa học chính sách công là một ngành khoa học, và khái niệm
chính sách công đã được nhiều tác giả quan tâm. Theo tác giả Lê Chi Mai - Học
viện Hành chính quốc gia, thì: chính sách công “là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi
các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt
ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định” [23].
Tác giả Đỗ Phú Hải đưa ra cách định nghĩa về chính sách công trong điều
kiện chính trị cụ thể của Việt Nam: “Chính sách công là một tập hợp các chương
trình, quyết định chính trị có liên quan của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn mục
tiêu và giải pháp, công cụ chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo mục
tiêu tổng thể đã xác định”[13]. Như vậy, chính sách công là những quyết sách để
dẫn dắt, định hướng sự phát triển của xã hội theo mục tiêu của mình đồng thời đáp
ứng nhu cầu xã hội của người dân. Chính sách công có thể chi phối chung tới mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, song có những chính sách chỉ tập trung chi phối, cụ
thể riêng biệt đối với từng ngành, từng lĩnh vực của đời sống xã hội với những mục
tiêu nhất định.
Từ những quan niệm nêu trên, trong luận văn này, có thể hiểu chính sách
công như sau: Chính sách công là tập hợp các quyết định chính trị - pháp lý, các chủ
trương, đề án, dự án có liên quan tới một vấn đề cụ thể nào đó với một mục tiêu xác
định trong một thời gian nhất định. Chủ thể ban hành chính sách sẽ đảm bảo nguồn
lực; điều kiện để thực hiện chính sách nhằm đạt được mục tiêu đã được xác định.
1.2.4. Chính sách NCC với cách mạng (hay còn gọi là chính sách ưu đãi
NCC với cách mạng).
Chính sách NCC với cách mạng là một chính sách lớn có diện bao phủ rộng
13
trong hệ thống chính sách trợ giúp xã hội, là trách nhiệm và là sự ghi nhận, tôn vinh
những cống hiến của họ đối với đất nước. Chính sách ưu đãi NCC với cách mạng
một mặt thể hiện cam kết chính trị của Đảng, Nhà nước về trách nhiệm đối với
NCC và thân nhân của họ; mặt khác nó là sự thể hiện những truyền thống đạo lý tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam. Đây là những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc ta
qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Chính sách có giá trị giáo dục sâu sắc
và thể hiện sự tri ân đối với người có công. Như vậy, chính sách NCC với cách
mạng là: tập hợp các quyết định, chương trình, đề án, dự án chính trị - pháp lý ở
Trung ương, địa phương có liên quan đến NCC với cách mạng nhằm lựa chọn mục
tiêu, giải pháp và công cụ chính sách để giải quyết các vấn đề liên quan theo mục tiêu
tổng thể của chính sách đã được xác định.
1.2. Mục tiêu, nội dung, ý nghĩa của chính sách NCC với cách mạng
Chăm sóc, ưu đãi NCC với cách mạng không chỉ là trách nhiệm của Đảng,
Nhà nước và toàn xã hội, mà còn thể hiện truyền thống và đạo lý của dân tộc “uống
nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Vì vậy, từ trước tới nay, trong
bất luận hoàn cảnh nào, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng luôn xác định chính
sách đối với thương binh, liệt sĩ và NCC với Tổ quốc là một trong những chính
sách lớn, có vị trí rất quan trọng trong chính sách an sinh xã hội. Đặc biệt, trong
sự nghiệp đổi mới với chủ trương hướng về cơ sở, không để bất kỳ NCC nào
thiệt thòi, Đảng và Nhà nước đã từng bước sửa đổi, bổ sung về đối tượng, định
mức trợ cấp; chế độ ưu đãi đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, NCC với cách
mạng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991)
khẳng định:“Quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và
những NCC với cách mạng, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là
trách nhiệm của toàn dân; sớm ban hành chế độ toàn dân đóng góp vào quỹ đền
ơn, trả nghĩa để chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ và những NCC với
cách mạng” [1,tr.74]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ: “có chính sách
thích đáng đối với các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh”; đồng thời, trở thành
14
một nguyên tắc hiến định ghi nhận ở Điều 67, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi NCC với nước, vận động toàn xã hội tham gia
các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nâng cao mức sống về mặt vật chất, tinh thần của
NCC.
Bên cạnh đó là nhiều văn bản khác cụ thể các hình thức, mức hỗ trợ ... đối
với NCC với cách mạng, cụ thể: Chỉ thị số 14-CT/TW ngày 19-7-2017 Ban Bí thư
Trung ương Đảng, về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
NCC cách mạng; Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BLĐTBXH-BQP ngày 2010-2013 hướng dẫn xác nhận liệt sĩ, thương binh, người hưởng chính sách như
thương binh không có giấy tờ; Thông tư liên tịch số 05/2013/TT-BLĐTBXH-BQP
hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi NCC với
cách mạng và thân nhân; Quyết định số 75/2013/QĐ-TTg ngày 06-12-2013 của Thủ
tướng Chính phủ quy định về quy định về chế độ, chính sách và công tác bảo đảm
đối với tổ chức, cá nhân làm nhiệm vụ tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; Quyết định
số 35/2017/QĐ-TTg ngày 25-7-2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định
số 75/2013/QĐ- TTg ngày 06-12-2013 của Thủ tướng Chính phủ; Quyết định số
22/2013/QĐ-TTg ngày 26-4-2013 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ NCC với
cách mạng về nhà ở…
* Các chính sách ưu đãi cụ thể đối với NCC với cách mạng.
Chính sách ưu đãi đối với NCC được khẳng định nhiều trong các văn bản
quy phạm pháp luật, văn bản quy pháp quy, văn bản hành chính… Do có nhiều
nhóm đối tượng nên có sự hỗ trợ khác nhau và định mức khác nhau, nhưng tựu
trung lại thì các chính sách hỗ trợ chủ yếu tập trung vào các chế độ ưu đãi sau đây:
(1) Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần: Từ ngày
28/7/2018, mức chuẩn để xác định mức phụ cấp, trợ cấp ưu đãi đối với NCC là
1.515.000 đồng (theo quy định tại Nghị định số 99/2018/NĐ-CP ngày 12/7/2018
của Chính phủ quy định mức phụ cấp, trợ cấp ưu đãi đối với NCC với cách
15
mạng).
(2) Bảo hiểm y tế: Thực hiện theo Thông tư 25/2016/TT-BLĐTB&XH ngày
26/7/2016 của Bộ LĐTB&XH hướng dẫn xác định, quản lý đối tượng tham gia bảo
hiểm y tế theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế.
(3) Điều dưỡng phục hồi sức khỏe: Thực hiện điều dưỡng tập trung hoặc
điêu dưỡng tại gia đình. Mức quy định chế độ điều dưỡng được thực hiện theo
Thông tư 13 năm 2014 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
(4) Hỗ trợ người có công về nhà ở: đó là hỗ trợ về sửa chữa nhà, hoặc làm
mới nhà ở cho người có công.
(5) Được ưu đãi cộng điểm trong trong tuyển sinh, miễn giảm học phí, hỗ trợ
đào tạo, được hỗ trợ để theo học tại cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân đến trình độ đại học; hỗ trợ vây vốn phát triển kinh tế … Thực hiện theo số
36/2015/TT-BLĐTB&XH ngày 28/9/2015 của Bộ Lao động -Thương binh và xã
hội về hướng dẫn hồ sơ, trình tự, thủ tục thực hiện chế độ ưu đãi trong giáo dục đào
tạo đối với NCC với cách mạng và con của họ..
1.3. Quy trình và các nhân tố ảnh hưởng tới việc thực hiện chính sách
NCC với cách mang.
1.3.1 Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách đối với NCC
với cách mạng.
Tổ chức thực hiện chính sách NCC với cách mạng là một bước của chu trình
chính sách. Quá trình chức thực hiện chính sách NCC với cách mạng là quá trình
thực hiện trên thực tế các hoạt động; các quyết định về chi trả trợ cấp thường xuyên,
đột xuất; hỗ trợ nhà ở… đối với NCC với cách mạng.
Tổ chức thực hiện chính sách ưu đãi NCC với cách mạng là hoạt động mang
tính khách quan để duy trì công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý của Nhà nước
và cũng là để đạt được mục tiêu đề ra của chính sách. Đây là khâu kết nối các bước
trong chu trình chính sách NCC thành một hệ thống, từ khâu xây dựng chính sách,
thực hiện chính sách, đánh giá và tổng kết chính sách, thiếu vắng công đoạn này thì
chính sách chỉ tồn tại trên giấy tờ, không có giá trị thực tiễn.
16
Thực hiện chính sách là khâu triển khai trên thực tế các hoạt động cụ thể, có
giá trị thực tiễn sâu sắc.
Xây dựng được chính sách NCC với cách mạng đúng, có chất lượng là rất
quan trọng; nhưng thực hiện đúng chính sách còn có ý nghĩa quan trọng hơn; bởi lẽ
trong quá trình xây dựng chính sách thì bao trùm mọi địa phương; nhưng thực hiện
chính sách thì yếu tố vùng miền, yếu tố giữa chính các đối tượng trong cùng một
nhóm cũng có sự khác nhau. Như vậy, nếu chủ thể ban hành chính sách có ý nghĩa,
có giá trị, song nếu chính sách đó không được thực hiện có hiệu quả trên thực tế
cũng sẽ trở thành lý luận suông, không đem lại giá trị cho đối tượng thụ hưởng mà
chính sách hướng tới; thậm chí còn ảnh hưởng đến uy tín của Nhà nước, chủ thể ban
hành chính sách, đặc biệt đối với những chính sách mang tính nhân văn sâu sắc như
chính sách NCC với cách mạng. Nếu chính sách NCC với cách mạng được thực
hiện không đúng, tức là có sai lệch trong khâu thực hiện (sai lệch về mức trợ cấp,
điều kiện hỗ trợ…), thì chính sách không hiệu qảu, gây thất thoát về kinh tế; mât
slongf tin của nhân dân đối với nhà nước.
Qua thực tiễn tổ chức thực hiện thì nhà hoạch định chính sách sẽ đo lường,
đánh giá được tính thực tiễn, sự phù hợp hay không phù hợp, chính sách có đi vào
cuộc sống hay không đi vào cuộc sống. Thực tế đã chứng minh, khi xây dựng chính
sách, các nhà hoạch định chính sách chưa nhận thấy, hoặc chưa phát hiện ra; ví dụ:
Bộ GD&ĐT ban hành Thông tư số 24/2013/TT-BGDĐT ngày 4/7/2013 về việc sửa
đổi, bổ sung nhóm đối tượng hưởng chính sách ưu tiên trong tuyển sinh. Cụ thể, đối
tượng được bổ sung thêm: Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Khi quy định này được thực
hiện trên thực tế đã gặp phải những bất cập, phản ứng từ nhân dân. Như vậy, có thể
khẳng định: việc phân tích đánh giá chính sách NCC với cách mạng (mức độ tốt,
xấu) chỉ có cơ sở đầy đủ, có sức thuyết phục sau khi thực hiện chính sách. Thực tiễn
là câu trả lời chính xác và đầy đủ nhất về hiệu quả của chính sách; kết quả thực hiện
chính sách NCC với cách mạng sẽ là thước đo, là cơ sở đánh giá một cách chính xác
và khách quan chất lượng, hiệu quả của chính sách NCC với cách mạng. Như vậy,
khâu tổ chức thực hiện chính sách NCC với cách mạng là rất quan trọng, là yếu tố
17
khẳng định giá trị thực tiễn của chính sách.
1.3.2 Các bước tổ chức thực hiện chính sách đối với NCC với cách mạng
Tổ chức thực hiện chính sách NCC với cách mạng là quá trình triển khai
nhiệm vụ, hoạt động đan xen, kế tiếp, tác động và bổ sung cho nhau; nhiệm vụ này
thành công sẽ là cơ sở để triển khai nhiệm vụ tiếp theo. Để tổ chức thực hiện chính
sách có hiệu quả, không bỏ xót mục tiêu thì việc tổ chức cần phải tuân thủ một quy
trình chặt chẽ và thống nhất. Trình tự thực hiện các trong tổ chức thực hiện chính sách
tạo thành 01 quy trình thống nhất. Mỗi bước trong quy trình có yêu cầu, nhiệm vụ, có ý
nghĩa khác nhau, nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau, bước này là điều kiện, là
căn cứ, cơ sở để thực hiện bước tiếp theo. Hiệu quả của từng bước sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả của chính sách.
1.3.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách NCC với cách
mạng
Tổ chức thực hiện chính sách công nói chung, thực hiện chính sách NCC với
cách mạng nói riêng để đảm bảo thống nhất và có hiệu quả cao cần phải thực hiện
theo kế hoạch.Vì tổ chức thực hiện chính sách NCC với cách mạng là quá trình
phức tạp, nhiều cá nhân, tổ chức tham gia và diễn ra trong một thời gian dài. Để
thống nhất và đảm bảo về thời gian, hoạt động cụ thể; nguồn kinh phí đảm bảo;
trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động chính sách thì cần phải xây dựng kế
hoạch triển khai thực hiện chính sách.
- Kế hoạch khái quát, tổng hợp: gồm dự kiến các cơ quan chủ trì và cơ quan
phối hợp triển khai thực hiện, kinh phí đảm bảo thực hiện; số lượng và chất lượng
nhân sự tham gia tổ chức thực thi chính sách quyền và trách nhiệm của cán bộ quản
lý và cán bộ thực thi chính sách, cơ chế tác động của giữa cấp trong tổ chức thực
hiện chính sách NCC với cách mạng.
- Kế hoạch về nguồn lực: Dự kiến về các nguồn lực tài chính, các nguồn lực
kỹ thuật…
- Kế hoạch, thời gian cụ thể: Dự kiến thời gian duy trì, dự kiến thời gian thực
hiện các bước tổ chức triển khai thực hiện chính sách, có thể gồm các hoạt động (có
18
thể kế hoạch hoặc công văn triển khai): Kế hoạch tuyên truyền, phổ biến chính
sách; Kế hoạch triển khai thực hiện.
- Kế hoạch kiểm tra, giám sát, hỗ trợ kỹ thuật thực hiện chính sách: Trong
đó, cần dự kiến về thời gian, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức
thực hiện chính sách. Các nội dung về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân,
tập thể trong tổ chức thực hiện chính sách cũng được đưa ra trong kế hoạch. Lưu ý,
việc tổ chức kiểm tra, giám sát phải đảm bảo không ảnh hưởng tiêu cực tới việc
thực hiện chính sách; không tổ chức nhiều đoàn kiểm tra 1 địa phương; không gây
mất thời gian tại cơ sở …
Sau khi các Kế hoạch được cơ quan có thẩm quyền thông qua thì có giá trị
thực hiện trên phạm vi theo quy định. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai kế hoạch
thì có thể xem xét các điều kiện thực tế do đặc thù địa phương hoặc các điều kiện
khách quan khác có thể ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện kế hoạch; thì các chủ thể
thực hiện có thể có đề xuất, kiến nghị để điều chỉnh thời gian, phương pháp.. thực
hiện. Việc điều chỉnh này phải được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền.
1.3.2.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách NCC với cách mạng
Phổ biến tuyên truyền chính sách giúp nhân dân, NCC và thân nhân, các chủ
thể tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng và yêu cầu của
chính sách, về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định và
về tính khả thi của chính sách… để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu của nhà nước.
Đồng thời, phổ biến tuyên truyền nội dung chính sách; đối tượng hướng tới của
chính sách; thời gian thực hiện chính sách… giúp cho cán bộ công chức thực hiện
chính sách nhận thức được ý nghĩa, quy mô của chính sách đối với đời sống xã hội,
để họ chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp hoàn thành nhiệm vụ
được giao. Công tác phổ biến, tuyền tuyền chính sách NCC với cách mạng cần
được thực hiện thường xuyên liên tục với nhiều hình thức như trực tiếp tiếp xúc,
trao đổi với các đối tượng chính sách, hoặc gián tiếp thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng như: các đài phát thanh, đài truyền hình, các báo, tạp chí… lựa
chọn nào cũng phải chú ý đến tính kinh tế; tránh phô trương, lãng phí.
19
1.3.2.3. Phân công phối hợp thực hiện chính sách NCC với cách mạng
Do thực hiện chính sách có nhiều chủ thể tham gia, do vậy cần có sự phân
công để đảm bảo tính thống nhất, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, các ngành,
các cấp. Sự phân công, phối hợp thể hiện trách nhiệm liên đới giữa nhiều cơ quan
khác nhau, cơ quan cấp trên với cấp dưới; cơ quan chuyên mon với cơ quan chỉ đạo
chung ….
Trong phân công nhiệm vụ thực hiện chính sách NCC cần đặc biệt phát huy
vai trò của tập thể, cá nhân có sự ảnh hưởng lớn đối với nhóm đối tượng NCC hoặc
chú ý đến khả năng, trình độ năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của cá nhân.
Việc phân công trong quá trình thực hiện phải chặt chẽ, khoa học và hợp lý,
cơ quan chịu trách nhiệm chính, có quan có trách nhiệm phối hợp …
1.3.2.4. Duy trì chính sách NCC với cách mạng
Duy trì chính sách NCC với cách mạng huy động sự tham gia của các chủ
thể để chính sách tiếp tục được thực hiện và đem lại giá trị thực tiễn. Trong quá
trình thực hiện chính sách, các chủ thể có trách nhiệm cần tham mưu đề xuất các
giải pháp, các biện pháp nhằm cản trở, gây ảnh hưởng tới hiệu quả chính sách. Đó
là, khi thực hiện chính sách gặp những khó khăn do môi trường thực tế biến động
đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức thực thi chính sách phải có năng lực hay kiến
thức sử dụng hệ thống công cụ quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi
cho việc thực thi chính sách, đồng thời chủ động đề xuất với các cơ quan có thẩm
qyền xem xét điều chỉnh chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế.
1.3.2.4. Điều chỉnh chính sách NCC với cách mạng
Hoạt động điều chỉnh chính sách NCC với cách mạng là hoạt động có thể
phát sinh trong tổ chức thực hiện chính sách. Bởi lẽ, điều chỉnh chính sách là sự
thay đổi cơ chế thực hiện mà không rời xa mục tiêu nhưng chính sách phù hợp với
yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Thông thường, trong quản lý nhà nước thì cơ
quan nào ban hành chính sách thì cơ quan đó có quyền điều chỉnh, bổ sung chính sách,
điều này nhằm đảm bảo tính thống nhất của chính sách. Tuy nhiên, trên thực tế việc
điều chỉnh các biện pháp hoặc cơ chế trong thực hiện chính sách diễn ra rất năng động,
20
- Xem thêm -