Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo từ thực tiễn huyện lộc bình, tỉnh lạng s...

Tài liệu Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo từ thực tiễn huyện lộc bình, tỉnh lạng sơn

.PDF
86
312
108

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI 0 HOÀNG VĂN TẶNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO TỪ THỰC TIỄN HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào. Các số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp lệ, đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình. Tác giả luận văn Hoàng Văn Tặng MỤC LỤC MỞ ÐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO ...................................................................................... 9 1.1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ...................... 9 1.2. Cơ sở thực tiễn về thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo................. 24 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO TẠI HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN ............... 30 2.1. Chính sách xóa đói, giảm nghèo tại huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn . 30 2.2. Thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo .............................................. 35 2.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ........................ 52 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO HIỆU QUẢ HƠN TẠI HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN ......................................................................................... 59 3.1. Định hướng và mục tiêu thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn ...................................................................... 59 3.2. Giải pháp thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn .................................................................................................. 62 KẾT LUẬN .................................................................................................... 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BCĐ Ban chỉ đạo BCĐGN Ban chỉ đạo giảm nghèo BHYT Bảo hiểm y tế CNH - HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa CSGN Chính sách giảm nghèo CSGNBV Chính sách giảm nghèo bền vững CSXĐGN Chính sách xóa đói, giảm nghèo DTTS Dân tộc thiểu số ESCAP Ủy ban KT-XH Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương GDP Tổng thu nhập quốc dân GNBV Giảm nghèo bền vững GS.TS Giáo sư. Tiến sĩ KSMSDC Khảo sát mức sống dân cư KT-XH Kinh tế - xã hội LĐTB&XH Lao động Thương binh và Xã hội MTQGGNBV Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững NHCSXH Ngân hàng chính sách xã hội NQ-CP Nghị quyết - Chính phủ ODC Tổ chức hội đồng phát triển hải ngoại PQLI Chỉ số chất lượng cuộc sống QĐ-TTg Quyết định Thủ tướng Chính phủ UBND Ủy ban nhân dân UNDP Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc XĐGN Xói đói, giảm nghèo XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ÐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0 có những ảnh hưởng không nhỏ đến Việt Nam, tạo ra những thay đổi lớn đối với KT-XH trong đó có các chính sách an sinh xã hội nói riêng và CSGN nói chung. Ở Việt Nam việc XĐGN được Đảng và Nhà nước quan tâm và ưu tiên hàng đầu, là nhiệm vụ chính trị quan trọng, là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Trong những năm gần đây, do thực hiện CSGN có hiệu quả, nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, đời sống của người dân từng bước được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm đáng kể, bình quân mỗi năm giảm khoảng 2%. Tuy nhiên một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS… Người dân vẫn đang chịu cảnh nghèo đói, chưa đảm bảo được những điều kiện tối thiểu cần thiết của cuộc sống. Lộc Bình là huyện miền núi, biên giới nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Lạng Sơn, cách thành phố Lạng Sơn 23 km theo quốc lộ 4B hướng từ Thành phố Lạng Sơn đi Quảng Ninh. Phía Bắc giáp huyện Cao Lộc; phía Đông giáp Trung Quốc; phía Tây giáp huyện Chi Lăng; phía Nam giáp huyện Đình Lập và huyện Lục Ngạn, Sơn Động, tỉnh Bắc Giang. Diện tích đất tự nhiên là 100.094,98 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp 70.398,35 ha, đất sản xuất 15.771,85 ha, chiếm 15,76%; đất lâm nghiệp 52.535,72 ha, chiếm 52,48%; bình quân diện tích đất canh tác hàng năm 0,54 ha/hộ nông nghiệp [29]. Trên địa bàn huyện Lộc Bình hiện có 18.621 hộ gia đình với 84.998 nhân khẩu, chia thành 286 thôn, bản và khu phố; 11 xã đặc biệt khó khăn; 05 xã thuộc xã khu vực II có thôn đặc biệt khó khăn; trong đó xã đặc biệt khó khăn có 91 thôn và xã khu vực II có 11 thôn. Trên địa bàn huyện có 6 dân tộc chủ yếu cùng sinh sống (Tày, Nùng, Kinh, Dao, Sán chỉ, Hoa). Kinh tế chủ yếu là sản xuất nông, 1 lâm nghiệp, thu nhập thấp, đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn. Kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2010 của UBND huyện Lộc Bình cho thấy: Toàn huyện có 18.621, trong đó hộ nghèo, với 4.928 hộ với 21.562 nhân khẩu, chiến tỷ lệ 26,46%, giảm 6,15% tỷ lệ hộ nghèo so với năm 2009. Cụ thể: Số hộ thoát nghèo: 1.127 hộ; Số hộ rơi vào nghèo: 120 hộ; Chủ hộ nghèo là người dân tộc: 4.894 hộ; Chủ hộ nghèo là nữ: 82 hộ. Kết quả nghèo phân theo tỷ lệ: xã có tỷ lệ hộ nghèo dưới 10% có 9 xã, thị trấn: TT Na Dương, TT Lộc Bình, Bằng Khánh, Xuân lễ, Yên Khoái, Xuân Mãn, Tú Mịch, Như Khuê, Lục Thôn; xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 10% đến dưới 25% có 7 xã: Hữu Khánh, Đồng Bục, Vân Mộng, Tú Đoạn, Hiệp Hạ, Quan Bản, Đông Quan; xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% đến dưới 50% có 4 xã: Xuân Tình, Sàn Viên, Tĩnh Bắc, Khuất Xá; xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 50% đến dưới 70% có 7 xã: Mẫu Sơn, Tam Gia, Nhượng Bạn, Minh Phát, Hữu lân, Lợi Bác, Nam Quan; xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 70% trở lên có 2 xã: Xuân Dương, Ái Quốc. Hiện nay, toàn huyện Lộc Bình có 1.624 hộ cận nghèo với 7.291 nhân khẩu, chiếm 8,72% toàn bộ số hộ và nhân khẩu của huyện. Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như sự chỉ đạo của UBND tỉnh Lạng Sơn về xóa đói giảm nhèo trong thời gian qua, tình hình KT-XH của huyện Lộc Bình tỉnh Lạng Sơn đã có bước phát triển nhất định, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên rõ rệt. Kết quả thực hiện CSXĐGN cho thấy: Theo kết quả tổng điều tra hộ nghèo, cận nghèo theo chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015, số hộ nghèo qua điều tra năm 2010, có 4.928 hộ, chiếm 26,46%. Năm 2015 giảm xuống còn 2.368 hộ, chiếm 12,71%. Đầu giai đoạn có 09 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 50% trở lên, hiện nay giảm xuống còn có 02 (xã Ái Quốc, xã Xuân Dương). Bên cạnh đó, huyện còn 08 xã có tỷ lệ hộ nghèo rất cao từ 25% đến dưới 50% và 03 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 10% đến dưới 25% và 16 xã có tỷ lệ hộ nghèo thấp là dưới 10%. [32]. Kết quả này cho thấy, huyện Lộc Bình đã có 2 những thành công nhất định trong thực hiện CSXĐGN. Tuy nhiên, công tác tổ chức thực thi CSXĐGN ở huyện Lộc Bình vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế dẫn đến tình trạng thoát nghèo chưa bền vững, kinh tế chủ yếu là sản xuất nông, lâm nghiệp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, thu nhập thấp, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo vẫn còn ở mức tương đối cao so với mặt bằng chung của tỉnh Lạng Sơn. Việc tìm hiểu, nghiên cứu về thực hiện CSXĐGN ở huyện Lộc Bình để tìm ra những hạn chế, tồn tại trong quá trình thực hiện, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm thực hiện CSXĐGN một cách hiệu quả hơn, góp phần cho phát triển KT-XH của huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Đó là lý do đề tài: “Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo từ thực tiễn huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn” được lựa chọn để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu khoa học được công bố có liên quan đến vấn đề XĐGN; CSXĐGN và thực hiện CSXĐGN bền vững ở những khía cạnh, góc độ khác nhau. Một số công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề đói nghèo và XĐGN như sau: - World bank (2012): “Đánh giá nghèo Việt Nam” có tựa đề: Khởi đầu tốt, nhưng chưa phải đã hoàn thành; thành tựu ấn tượng của Việt Nam về giảm nghèo và những thách thức mới. Tác giả Lê Quốc Lý (2012), với tác phẩm “Chính sách xóa đói giảm nghèo - Thực trạng và giải pháp”, đã trình bày một số lý luận về giảm nghèo, CSGN; những chủ trương, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác xóa đói, giảm nghèo. Ngoài cơ sở lý luận, cuốn sách tổng kết, đánh giá tổng thể chính sách xóa đói giảm nghèo của Việt Nam một cách khá toàn diện ở thời điểm nghiên cứu. Tác giả Nguyễn Ngọc Sơn (2013),“CSGN ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và định hướng hoàn thiện” của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, đã 3 trình bày và phân tích thực trạng, kết quả của chính sách giảm nghèo và định hướng chính sách giảm nghèo ở Việt Nam trong thời gian tới. Nguyễn Đức Nhật, Phạm Quang Trung, Trương Thai Mai, Phạm Phương Hồng (2013): “Nghiên cứu các mô hình giảm nghèo của các đối tác quốc tế tại Việt Nam” của UNDP do nhóm nghiên cứu hực hiện. Về luận văn, luận án có các công trình sau: Tác giả Trần Công Đoàn (2014), với đề tài “CSGN từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình”, luận văn Thạc sĩ chuyên ngành chính sách công. Luận văn đã đề cập đến vấn đề giảm nghèo ở cả góc độ lý luận và thực tiễn, quá trình triển khai thực hiện, chỉ ra những mặt được, mặt tồn tại hạn chế, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp để thực hiện CSGN của tỉnh Hòa Bình. Tác giả Bùi Thế Hưng (2015): “Chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng” Đề tài luận văn thạc sĩ chính sách công. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về xóa đói giảm nghèo; thực trạng giảm nghèo trên địa bàn quận Lê Chân thành phố Hải Phòng; đánh giá những mặt được và chưa được và nguyên nhân; đồng thời đề ra các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách giảm nghèo của địa phương. Tác giả Phan Thị Kim Phúc (2016), với đề tài “Chính sách giảm nghèo bền vững từ thực tiễn Quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh”, luận văn thạc sĩ chuyên ngành chính sách công. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về xóa đói giảm nghèo; thực trạng giảm nghèo trên địa bàn quận Tân phú, Thành phố Hồ Chí Minh; đánh giá những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân trong công tác giảm nghèo; đề ra phương hướng và một số giải pháp tăng cường thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở nước ta hiện nay. Tác giả Trần Văn Hùng (2016): “Thực hiện CSGNBV từ thực tiễn tỉnh Điện Biên hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành chính sách công, đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về nghèo và công tác GNBV, quy trình thực hiện CSGNBV áp dụng vào điều kiện thực tiễn tỉnh Điện Biên. Từ đó rút ra 4 được những bài học kinh nghiệm trong việc GNBV, đồng thời đề xuất một số giải pháp chủ yếu khả thi nhằm hoạch định thực hiện CSGNBV tỉnh Điện Biên đến năm 2025. Các Nghị quyết, Chương trình, Kế hoạch, Báo cáo... của Chính phủ, UBND tỉnh Lạng Sơn, UBND huyện Lộc Bình về công tác XĐGN: Những văn bản này đều có điểm chung là đưa ra mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể, coi công tác XĐGN là nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược phát triển KT-XH, cải thiện từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng và nhóm dân cư, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ toàn diện ở các vùng nghèo, vùng khó khăn. Thực hiện công tác điều tra, rà soát hộ nghèo, cận nghèo hàng năm theo kế hoạch. Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến một vài khía cạnh của công tác XĐGN, nhưng chưa lý giải và phân tích một cách toàn diện và chuyên sâu những vấn đề lý luận, thực tiễn, từ đó và đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của CSXĐGN trong quá trình triển khai thực hiện. Có thể khẳng định rằng cho đến thời điểm hiện tại chưa có đề tài nghiên cứu khoa học nào đề cập đến việc thực hiện CSXĐGN tại huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về CSXĐGN nói chung, đề tài sẽ phân tích và đánh giá việc tổ chức thực thi CSXĐGN, kết quả và những hạn chế của CSXĐGN ở huyện Lộc Bình. Từ đó đề xuất giải pháp hiệu quả hơn trong thực hiện CSXĐGN tại huyện Lộc Bình nhằm góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH của huyện trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến CSXĐGN. 5 Nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hiện CSXĐGN ở huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Đánh giá kết quả, hạn chế và nguyên nhân của thực hiện chính sách XĐGN ở huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Đề xuất các giải pháp hiệu quả hơn trong tổ chức thực hiện CSXĐGN ở huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. 4. Ðối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Việc tổ chức thực hiện CSXĐGN ở huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu các vấn đề thực hiện CSXĐGN tại huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. - Phạm vi về thời gian: Giai đoạn 2011 - 2015. Đây là giai đoạn cả nước thực hiện theo Quyết định số 09/2011/QĐTTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ và UBND huyện Lộc Bình đã tập trung thực hiện CSXĐGN, triển khai lồng ghép 10 chính sách và 3 dự án trên địa bàn huyện. Kết quả nghiên cứu của giai đoạn này làm tiền đề cho thực hiện chính sách giai đoạn 2016 – 2020. 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận Để thực hiện nghiên cứu đề tài, luận văn đã vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật hiện thực kết hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước và tình hình thực tiễn của địa phương về CSXĐGN để giải quyết các vấn đề đặt ra. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chuyên gia: Tổ chức thu thập, lấy ý kiến của các chuyên gia để hoàn chỉnh nhằm đưa ra những kết quả nghiên cứu có tính khả thi cao. 6 Phương pháp định tính: Thu thập dữ liệu từ các nguồn khác nhau, qua đó thực hiện mô tả và phân tích kết quả, đặc điểm, thông tin toàn diện về các điều kiện kinh tế, xã hội, CSGN trên địa bàn huyện huyện Lộc Bình. Phân tích tài liệu thứ cấp, so sánh, đánh giá... Phỏng vấn một số hộ gia đình (Các hộ gia đình năm trong diện hộ nghèo và những hộ đã thoát nghèo), cán bộ quản lý địa phương của huyện Lộc Bình về nội dung liên quan đến công tác XĐGN. Từ đó tìm hiểu rõ hơn về thực trạng thực hiện CSXĐGN ở huyện. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài cung cấp thêm các lý luận về thực hiện chính sách công đối với chính sách cụ thể và kết quả nghiên cứu, tư liệu, khảo sát và đánh giá thực tế tại huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn qua đó góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận và thực tiễn của khoa học chính sách công. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Qua thực tiễn nghiên cứu tổ chức thực thi CSXĐGN tại huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn chỉ ra được những khó khăn, hạn chế trong việc tổ chức thực hiện CSXĐGN ở một huyện miền núi còn nhiều khó khăn trong phát triển KT-XH. Đồng thời, đề tài góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho việc chỉ đạo, lãnh đạo của Ủy ban nhân dân huyện trong quá trình hoạch định và thực thi CSGN một cách có hiệu quả trong công cuộc phát triển KT-XH ở địa phương. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần nội dung của luận văn được chia làm 3 chương gồm: Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo tại huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. 7 Chương 3. Một số giải pháp nhằm thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo hiệu quả hơn tại huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. 8 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO 1.1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo 1.1.1. Khái niệm về nghèo đói và tiêu chí đánh giá nghèo đói 1.1.1.1. Các khái niệm Ở Việt Nam khái niệm về đói nghèo được Bộ LĐTB&XH tách riêng đói và nghèo, không khái niệm chung như thế giới. Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo không có khả năng thỏa mãn nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối thiểu là những bảo đảm ở mức tối thiểu, những nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở và sinh hoạt hàng ngày gồm văn hóa, y tế, giáo dục, giao tiếp... Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Nghèo có nhu cầu tối thiểu: Đây là tình trạng một bộ phận dân cư có những đảm bảo tối thiểu để duy trì cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và một số sinh hoạt hàng ngày nhưng ở mức tối thiểu. * Chỉ tiêu đánh giá hộ nghèo của Việt Nam Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân một người một tháng (hoặc 1 năm) được đo bằng chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi, thường lấy lương thực (gạo) tương ứng một giá trị để đánh giá. Khái niệm thu nhập ở đây là thu nhập thuần túy (tổng thu trừ đi tổng chi phí sản xuất). Tuy nhiên, cần nhấn mạnh chỉ tiêu thu nhập bình quân mỗi nhân khẩu hàng tháng là chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói nghèo của các hộ gia đình. Chỉ tiêu phụ: Là dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều kiện học tập, chữa bệnh, đi lại… Mặc dù lấy chỉ tiêu thu nhập cơ bản là biểu hiện bằng 9 giá trị để phản ánh mức sống, tuy nhiên trong điều kiện giá cả không ổn định như ở nước ta thì rất cần thiết sử dụng hình thức hiện vật, phổ biến nhất là quy gạo làm tiêu chuẩn (gạo thường) tương ứng vơi một giá trị nhất định. Việc sử dụng hiện vật quy đổi tương ứng với một giá trị so sánh với mức thu nhập của người dân theo thời gian và không gian được dễ dàng. Đặc biệt với người nghèo nói chung và người nghèo ở nông thôn nói riêng, chỉ tiêu số lượng gạo nói riêng/người/tháng tương ứng với lượng giá trị nhất định là có ý nghĩa thực tế. - Khái niệm XĐGN: Là tổng thể các biện pháp, chính sách của Nhà nước và xã hội giúp cho một bộ phận dân cư có mức sống nghèo đói được nâng cao, từng bước thoát khỏi tình trạng đói nghèo, biểu hiện ở tỷ lệ và số lượng người nghèo giảm xuống. Nói cách khác, XĐGN là quá trình chuyển bộ phận dân cư nghèo đói lên một mức sống cao hơn. Ở góc độ người nghèo, XĐGN là quá trình tác động của điều kiện cộng đồng xã hội, giúp đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Ở góc độ vùng nghèo, XĐGN là quá trình thúc đẩy phát triển kinh tế, chuyển đổi trình độ sản xuất cũ, lạc hậu trong xã hội sang trình độ sản xuất mới cao hơn. - Chính sách và thực hiện chính sách (CSXĐGN) Thuật ngữ “chính sách” hay “chính sách công” đã được dùng khá phổ biến trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế và xã hội. Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về hính sách và chính sách công. Theo Franc Ellis co rằng: “trên tầm vĩ mô, chính sách được xem như đường lối hành động mà Chính phủ lự chọn đối với quản lý nhà nước về một lĩnh vực nào đó, có thể là kinh tế, xã hội và môi trường”. 10 Theo Samuelson cho rằng: “Ngay cả khi chính phủ không đưa ra một chính sách trong bối cảnh bất đắc dĩ nào đó để thực hiện mục đích nào đó, thì cũng là một kiểu chính sách”. Theo James E.Anderson, chính sách công là những hoạt động nên hay không nên làm do Nhà nước quyết định lựa chọn”. Dù có nhiều quan niệm và cách tiếp cận khác nhau, đôi khi có quan niệm đồng nhất chính sách và chính sách công nhưng trên bình diện chung nhất, có lẽ cũng sẽ là hợp lý khi cho rằng chính sách và chính sách công có những nét chấm phá khác biệt trong tương đồng. Sự phân biệt này đôi khi phụ thuộc vào tiếp cận và góc độ xem xét. Trên cơ sở đó, có thể tạm đưa ra quan niệm về chính sách và chính sách công như sau: Chính sách: là những hành vi ứng xử của chủ thể quản lý với các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động phát triển để đạt được mục tiêu nhất định cho hệ thống hoặc tổ chức Chính sách công: là một chuỗi các quyết định hoạt động của Nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời sống kinh tế-xã hội theo mục tiêu xác định. Xuất phát từ cách tiếp cận trên, CSXĐGN có thể được hiểu là “Những quyết định, quy định của Nhà nước được cụ thể hoá trong các chương trình, dự án cùng với nguồn lực, vật lực, các thể thức, quy trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác động vào các đối tượng cụ thể như người nghèo, hộ nghèo hay xã nghèo với mục đích cuối cùng là XĐGN” 1.1.1.2. Tiêu chí đánh giá nghèo đói Trên thế giới, khi đánh giá nước giàu, nghèo trên thế giới, giới hạn đói nghèo được biểu hiện bằng chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GDP). Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu cho rằng chỉ căn cứ vào thu nhập thì chưa đủ căn cứ để đánh giá, vì vậy bên cạnh chỉ tiêu này tổ chức hội đồng phát triển Hải ngoại (ODC) đưa ra chỉ số chất lượng cuộc sống (PQLI) 11 để đánh giá, bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản sau: tuổi thọ; tỷ lệ xóa mù chữ; tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh. Ở Việt Nam để đo tình trạng đói nghèo nhiều địa phương lấy tiêu chuẩn thu nhập bình quân một khẩu trong một năm. Một số nhà kinh tế lấy tiêu chí lương thực bình quân nhân khẩu, gia đình nào có thu nhập bình quân dưới 30kg gạo/khẩu/tháng được coi là nghèo. Một khung hướng khác lại lấy mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định làm chuẩn, người có mức sống nghèo khổ là người có thu nhập bình quân thấp hơn mức lương tối thiểu. Các chuẩn mực trên có thể đúng với từng địa bàn cụ thể song không thể áp dụng cho mọi đối tượng, mọi vùng miền trên phạm vi cả nước. Vì vậy, để chọn và phân loại hộ nghèo ở Việt Nam phải xem xét các đặc trưng cơ bản của nó như: Thiếu ăn từ 3 tháng trở lên trong năm, nợ sản lượng khoán triền miên, vay nặng lãi, con em không có điều kiện đến trường (mù chữ hoặc bỏ học), thậm chí phải cho con hoặc bản thân đi kiếm sống qua ngày. Nếu đưa chuẩn mực này ra để xác định thì rất rễ phân biệt hộ nghèo đói ở nông thôn. Theo Bộ LĐTB&XH, trong giai đoạn hiện nay nếu thu nhập bình quân trong hộ đạt dưới 20kg gạo/người/tháng tương ứng với 200.000 đồng/người/tháng là đói. Những năm trước đây ở miền Bắc, đói thường đi đôi với thiếu cân đối lương thực trên địa bàn. Như vậy, người đói là người không có lương thực dự trữ trong nhà và không có tiền để mua lương thực để sử dụng hàng ngày một thời gian nhất định trong một năm, mặc dù trên thị trường không thiếu lương thực [19]. Chuẩn nghèo và tiêu chí xác định chuẩn nghèo (giai đoạn 2011-2015): * Chuẩn hộ nghèo: Mức chuẩn xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo chung cho các vùng trong cả nước tại Quyết định số: 09/2011/QĐ-TTg ngày 31/01/2011 của Thủ tướng chính phủ. Quy định mức thu nhập bình quân đầu người thấp hơn mức dưới đây là nghèo. 12 Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/năm) trở xuống. Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/năm) trở xuống. Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đến 520.000 đồng/người/tháng. Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đến 650.000 đồng/người/tháng. Tiêu chí tiếp cận nghèo đa chiều và chuẩn nghèo (giai đoạn 2016-2020): * Chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều: Thực hiện chương trình quốc gia về GNBV căn cứ Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020: Các tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020: - Các tiêu chí về thu nhập + Chuẩn nghèo: 700.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và 900.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị. + Chuẩn cận nghèo: 1.000.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn và 1.300.000 đồng/người/tháng ở khu vực thành thị. - Tiêu chí mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản + Các dịch vụ xã hội cơ bản (05 dịch vụ): y tế; giáo dục; nhà ở; nước sạch và vệ sinh; thông tin; + Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản (10 chỉ số): tiếp cận các dịch vụ y tế; BHYT; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin. 13 Chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 - Hộ nghèo + Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống; Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên. + Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau: Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống. Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên. - Hộ cận nghèo + Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. + Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. - Hộ có mức sống trung bình + Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng. + Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 1.300.000 đồng đến 1.950.000 đồng. 1.1.2. Quan điểm, mục tiêu, vai trò và sự cần thiết của xóa đói, giảm nghèo 1.1.2.1. Về quan điểm 14 Nhiệm vụ đẩy mạnh XĐGN đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý và điều hành Nhà nước, sự vào cuộc của các đoàn thể chính trị, sự nỗ lực của toàn dân, nhằm tăng giàu, giảm nghèo, hạn chế sự phân hóa giàu nghèo, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xoá đói, giảm nghèo, hạn chế phân hoá giàu nghèo là nội dung được đề cập nhiều trong các văn kiện của Đảng. Những thay đổi trong quan điểm và phương thức XĐGN ở Việt Nam Trước đây, công tác XĐGN (XĐGN) thường được nhìn nhận là sự hỗ trợ phần lớn hoặc cho không của Nhà nước đối với người nghèo. Để phù hợp với tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta đã và đang thay đổi quan điểm, phương thức XĐGN theo hướng giảm dần sự hỗ trợ cho không, phát huy tinh thần tự lực của người dân nghèo, giúp họ tự vươn lên thoát nghèo đa chiều và bền vững. Từ thay đổi về quan điểm trong công tác XĐGN: Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Công hòa (02/9/1945), một trong sáu nhiệm vụ hàng đầu được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Cách mạng lâm thời xác định, đó là phải “diệt giặc đói”... Nhiệm vụ đó được Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và toàn thể nhân dân liên tục thực hiện trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; sau này tiếp tục được duy trì và phát huy trong cuộc kiến thiết, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996), công tác XĐGN bắt đầu được nhìn nhận và tiếp cận một cách khá toàn diện và khoa học. Sau Đại hội VIII, chủ trương này được cụ thể hóa thành các chính sách phát triển KT-XH, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, và tiếp tục được duy trì, phát triển trong những kỳ Đại hội sau. Trên thực tế, từ chủ trương của Đảng, cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương đều đã thực hiện đồng bộ và hiệu quả công tác XĐGN, thu được nhiều kết qủa to lớn, 15 làm cho bộ mặt KT-XH, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, biên giới không ngừng phát triển; tỷ lệ hộ đói nghèo giảm đều qua từng năm. Tuy nhiên, trong giai đoạn này và nhiều năm về sau, công tác XĐGN chủ yếu được thực hiện theo phương thức Nhà nước hỗ trợ phần lớn hoặc cho không. Ở cấp quốc gia, khi đó Việt Nam là một nước nghèo, chậm phát triển nên nhận được khá nhiều sự quan tâm, hỗ trợ, ưu đãi của cộng đồng quốc tế, vì vậy chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác quản trị các nguồn lực XĐGN; công tác XĐGN ở một số địa phương đạt hiệu quả không cao; nguồn vốn thiếu tập trung, các biệt có trường hợp chạy theo thành tích, phong trào, gây thất thoát lãng phí... Về phía người dân nghèo xuất hiện thói quen và tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước, nhiều người nhận được tiền hỗ trợ nhưng không biết sử dụng hiệu quả. Mối liên kết, tương hỗ giữa các cộng đồng nghèo, cận nghèo, khá giả không cao, thiếu bền vũng, nên khi hết nguồn lực hỗ trợ cảu Nhà nước thì nguy cơ tái nghèo lại hiện hữu. Nhận thấy những điểm bất cập này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001) đã có sự thay đổi và phát triển mới trong nhận thức đối với công tác XĐGN. Trong báo cáo chính trị Đại hội IX đã xác định: “Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức XĐGN, tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển tiến tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”. Có nghĩa trước đây, công tác XĐGN được đề cập một cách khá chung chung, thì đến Đại hội IX đã xuất hiện các từ khóa: “tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng”, “năng lực sản xuất”, “tự phát triển”. Điều này thể hiện sự song hành trong XĐGN giữa việc Nhà nước tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật với việc khuyến khích người dân tự nâng cao năng lực sản xuất, chủ động thoát nghèo. Lúc này, công tác XĐGN của nước ta có nhiều khởi sắc góp phần đưa Việt Nam từ vị trí là nước nghèo, chậm phát triển vươn lên trở thành nước có mức thu nhập trung bình. Nhưng cũng vì thế mà khó khăn 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan