VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HOA
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
Ở CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI, năm 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ HOA
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ
Ở CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Chính trị học
Mã số: 8 31 02 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. CHU VĂN TUẤN
HÀ NỘI, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, những kết
quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan. Nếu
sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.
Học Viên
NGUYỄN THỊ HOA
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC THỰC
HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƢỜNG HỌC ........................................ 8
1.1. Lý luận chung về dân chủ ....................................................................... 8
1.2. Một số vấn đề dân chủ cơ sở trong trường học ở nước ta hiện nay...... 19
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ
CƠ SỞ TRONG CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI .......................... 27
2.1. Tổng quan về các trường Trung học phổ thông trên địa bàn huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai ................................................................................... 27
2.2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của việc thực hiện quy chế dân chủ
cơ sở trong các trường Trung học phổ thông trên địa bàn huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai ................................................................................... 30
Chƣơng 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP GÓP
PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ
TRONG CÁC TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI ............................................ 55
3.1. Một số quan điểm thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong trường Trung
học phổ thông trên địa bàn huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai ..................... 55
3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân
chủ cơ sở trong các trường Trung học phổ thông trên địa bàn huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai ................................................................................... 59
3.3. Một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân
chủ cơ sở trong các trường Trung học phổ thông trên địa bàn huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai. .................................................................................. 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGH:
Ban giám hiệu
CB-GV-CNV:
Cán bộ-giáo viên-công nhân viên
CMHS:
Cha mẹ học sinh
CNXH:
Chủ nghĩa xã hội
CNH-HĐH:
công nghiệp hóa-hiện đại hóa
GD&ĐT:
Giáo dục và đào tạo
TTND:
Thanh tra nhân dân
THPT:
Trung học phổ thông
UBND:
Ủy ban nhân dân
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng thống kê hai mặt học lực, hạnh kiểm của học sinh các trƣờng
THPT trên địa bàn huyện Nhơn Trạch trong ba năm gần đây:
Bảng 2.1: THPT Phước Thiền:
Bảng 2.2: Trường THPT Nhơn Trạch :
Bảng 2.3: Trường THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Bảng 2.4: Bảng thống kê trình độ CB-GV-CNV trong năm học 2016-2017
của các trường THPT trên địa bàn huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn ba mươi năm sau ngày đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu trên tất cả mọi lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa, xã hội… Có được
những thành tựu đó là nhờ vào nhiều nguyên nhân khác nhau như chủ trương,
đường lối đúng đắn của Đảng, các chính sách phù hợp, hiệu quả của Nhà
nước… Trong số những nguyên nhân đó, không thể không nhắc đến nguyên
nhân quyền làm chủ của nhân dân được phát huy, tình trạng tham nhũng,
quan liêu và mất dân chủ từng bước được khắc phục. Nghị quyết Hội nghị lần
thứ ba của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 6/1997) đã
khẳng định khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ
của nhân dân ở cơ sở. Thực hành dân chủ là phát huy quyền làm chủ, tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong công cuộc xây dựng đất nước.
Chỉ thị 30-CT/TW ngày 18 tháng 02 năm 1998 về xây dựng và thực
hiện quy chế dân chủ cơ sở của Bộ Chính trị, Nghị định của Chính phủ số
04/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2015 về thực hiện dân chủ trong hoạt
động của cơ quan hành chính Nhà nước và đơn vị hành chính sự nghiệp công
lập đã nói lên tầm quan trọng của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân
nói chung và yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đầy đủ năng lực,
phẩm chất, nâng cao hiệu quả làm việc của chính quyền cấp cơ sở. Việc thực
hiện các văn bản nêu trên đã được tiến hành một cách rộng rãi, đồng bộ trên
phạm vi cả nước, ở tất cả các Bộ, Ban, Ngành cũng như ở các cấp chính
quyền.
Ở các trường Trung học phổ thông (THPT) ngoài việc thực hiện Quy
chế dân chủ theo chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị, Nghị định của Chính
phủ số 04/2015/NĐ-CP, Nghị định của Chính phủ số 04/2015/NĐ-CP còn có
Quyết định số 04/2004/QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 03 năm 2000 của Bộ Giáo
1
dục và Đào tạo về việc “Ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động
của nhà trường”. Đối với tỉnh Đồng Nai, việc thực hiện các văn bản trên đã
phát huy được quyền làm chủ trong trường học, mang lại kết quả tốt trong
việc dạy và học ở một số trường THPT trên địa bàn tỉnh nói chung, trên địa
bàn huyện Nhơn Trạch nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường chưa thực
hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở, việc mất dân chủ ở một số khía cạnh nào đó
đã gây nên tình trạng mất đoàn kết, thiếu sự đồng bộ, thống nhất, gây ảnh
hưởng không nhỏ đến kết quả dạy và học cũng như uy tín của Ngành giáo
dục.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Giáo dục đóng vai trò quan trọng
hàng đầu trong việc giáo dục thế hệ trẻ nên việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ
sở như thế nào cho có hiệu quả, phát huy được quyền dân chủ của đội ngũ
Giáo viên-Công nhân viên trong các trường THPT tại huyện Nhơn Trạch,
Đồng Nai, đáp ứng một phần cho công cuộc đổi mới Giáo dục nói riêng và
đổi mới đất nước nói chung. Chính vì vậy, việc thực hiện đề tài “Thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở trong các trường THPT trên địa bàn huyện Nhơn
Trạch, tỉnh Đồng Nai” sẽ góp phần vào việc nghiên cứu lí luận cũng như thực
trạng và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tại cơ sở trường học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân chủ, dân chủ cơ cở là chủ đề được nhiều nhà khoa học, nhà
nghiên cứu lí luận quan tâm ở mỗi góc độ khác nhau. Có thể nêu ra một số đề
tài như:
“Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay. Một số
vấn đề lí luận và thực tiễn” (PGS.TS Nguyễn Cúc, 2002, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội). Trong công trình này tác giả đã đề cập đến một số vấn
đề lí luận và thực tiễn của việc thực hiện Quy chế dân chủ hiện nay ở nước ta;
2
Bài viết “Mối liên hệ giữa hoàn thiện cơ chế thực hiện dân chủ trực
tiếp, dân chủ cơ sở với việc thúc đẩy quyền con người, quyền công dân theo
tinh thần Hiến pháp 2013” (Nguyễn Thị Vy, 2014, Kỷ yếu hội thảo “Một số
vấn đề lí luận, thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và
Việt Nam”, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội), tác giả khẳng định tầm quan
trọng của nhân dân trong việc tham gia quản lí Nhà nước và xã hội; ngoài ra,
tác giả còn làm rõ mối liên hệ giữa việc hoàn thiện cơ chế thực hiện dân chủ
theo hướng đề cao quyền con người, quyền công dân theo tinh thần của Hiến
pháp 2013.
Công trình “Dân chủ và việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở”, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 của TS. Lương Gia Ban, tác giả đã nghiên
cứu những quan điểm của Đảng về dân chủ và thực tiễn thực hiện ở một số
địa phương.
Công trình “Về quá trình dân chủ hóa XHCN ở Việt Nam hiện nay”
(PGS.TS Lê Minh Quân, Viện Chính trị học, Học viện Chính trị-Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, 2000): tác giả đã tìm hiểu về lý thuyết mô hình dân
chủ hóa trên thế giới từ đó phân tích những vấn đề lí luận và thực tiễn của quá
trình dân chủ hóa XHCN ở Việt Nam hiện nay; bên cạnh đó tác giả cũng nhấn
mạnh giá trị của dân chủ và hiện thực hóa dân chủ là một yêu cầu mới ở nước
ta hiện nay.
Công trình “Nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong
trường Trung học phổ thông trên địa bàn thành phố Tân An, tỉnh Long An”
(Lê Thanh Hải, Long An – 2015): tác giả đã nêu ra được thực trạng thực hiện
quy chế dân chủ cơ sở ở các trường THPT trên địa bàn thành phố Tân An,
tỉnh Long An, từ đó đề ra các giải pháp và kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn
Quy chế dân chủ cơ sở.
3
Công trình “Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã-Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” (PGS.TS. Dương Xuân Ngọc, 2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội): tác giả đã xác định ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện Quy
chế dân chủ ở cấp xã.
Luận văn Thạc sĩ “Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị
trấn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh” (Hoàng Trung Dũng, Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội, 2013), tác giả đề cập đến thực
trạng thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh, từ đó xác định nguyên
nhân, đề ra giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Ngoài ra, còn nhiều công trình khác như: “Củng cố và tăng cường hệ
thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta hiện
nay” của PGS.TS Hoàng Chí Bảo (2002, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh); công trình“Thực hiện Quy chế dân
chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay” (của tác giả
TS.Nguyễn Văn Sáu –GS.Hồ Văn Thông, Nxb Chính trị quốc gia, 2003);
công trình “Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã –một số vấn đề lí luận và
thực tiễn” (PGS.TS Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm
2000);.…
Có thể thấy, các công trình nêu trên đã nghiên cứu về hệ thống chính trị
cũng như việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Trong đó, các tác giả đã đề
cập đến lí luận về dân chủ cũng như đặt ra thực trạng và đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Tuy vậy,
trong thực tế hiện nay ít có công trình nghiên cứu về việc thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở ở trường học, đặc biệt là các trường THPT, và chưa có đề tài
nào đề cập đến việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở trường học trên địa
bàn huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Đề tài “Thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở trong các trường THPT trên địa bàn huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
4
Nai” góp phần vào việc nghiên cứu vấn đề này nhằm chỉ ra thực trạng và giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở tại cơ sở
trường THPT trên địa bàn huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở
các trường THPT tại huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai, luận văn đề xuất một
số giải pháp, kiến nghị nhằm thực hiện một cách có hiệu quả Quy chế dân chủ
cơ sở, nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục trong huyện nói riêng và xã hội
nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ
sau:
Một là, trình bày một số lí luận cơ bản về dân chủ, dân chủ cơ sở và
dân chủ cơ sở trong các trường THPT.
Hai là, phân tích thực trạng thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở các
trường THPT ở huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Ba là, đề ra một số giải pháp và kiến nghị góp phần vào việc thực hiện
có hiệu quả Quy chế dân chủ cơ sở ở các trường THPT ở huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ cở
ở các trường THPT ở huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai,
Phạm vi: nghiên cứu 3 trường THPT: THPT Nhơn Trạch, THPT Phước
Thiền, THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Phạm vi về thời gian: từ năm 2013 đến 2017.
5
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: luận văn dựa trên nền tảng lí luận của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam;
Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18 tháng 02 năm 1998 về “Xây dựng và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở”, Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 01
năm 2015 về việc “Thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành
chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập”, Quyết định số 04/2000/QĐBGDĐT ngày 01 tháng 3 năm 2000 về việc Ban hành “Quy chế thực hiện dân
chủ trong hoạt động của nhà trường”, Chỉ thị số 40/2008/CT-BGDĐT ngày
22 tháng 7 năm 2008 về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường THPT giai đoạn 20082013.
Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng các phương pháp như
phân tích tài liệu thứ cấp, tổng hợp, khái quát, phương pháp thống kê, so
sánh,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực
tiễn của việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở tại các trường THPT trên địa
bàn huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn
chế, nguyên nhân của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Luận văn đã đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở hiện nay ở các trường THPT trên địa bàn huyện
Nhơn Trạch nói riêng, các trường THPT nói chung.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp chính quyền huyện
Nhơn Trạch, Tỉnh Đồng Nai nói chung, Ngành Giáo dục huyện Nhơn Trạch,
tỉnh Đồng Nai nói riêng trong việc thực hiện tốt hơn nữa Quy chế dân chủ ở
cơ sở, qua đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
6
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lí luận về việc thực hiện thực hiện quy chế
dân chủ cơ sở ở trường học.
Chƣơng 2: Thực trạng việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trong các
trường THPT trên địa bàn huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Chƣơng 3: Một số quan điểm, giải pháp và kiến nghị góp phần nâng
cao việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong các trường THPT trên địa bàn
huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai
7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC THỰC HIỆN QUY
CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƢỜNG HỌC
1.1. Lý luận chung về dân chủ
1.1.1.Khái niệm dân chủ
Thuật ngữ “dân chủ” đã xuất hiện trong lịch sử loài người từ thời Hy
Lạp cổ đại. Hêrôđôt (484-425 TCN) là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ này
với nghĩa khởi thủy là quyền lực thuộc về nhân dân.
Theo từ điển Triết học (do M.M. Rodentan biên soạn): “dân chủ là một
trong những hình thức chính quyền mà điều đặc trưng là việc tuyên bố chính
thức nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và thừa nhận quyền tự do và bình
đẳng của công dân”.[31, tr. 118]
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, dân chủ là một hình thức tổ
chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc
của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Như vậy, có thể hiểu
ngắn gọn dân chủ là quyền làm chủ thuộc về nhân dân. Trái với dân chủ là
không dân chủ. Không dân chủ có nghĩa là một người, một nhóm người hoặc
một tập đoàn người làm chủ. Chế độ độc tài, quân chủ, chuyên chế không có
dân chủ. Dân chủ là động lực của sự phát triển xã hội; còn không dân chủ là
làm cản trở sự phát triển xã hội. Bởi vì dân chủ là quyền lợi chính đáng của
người dân, được hưởng quyền dân chủ, được hưởng lợi ích vật chất và tinh
thần một cách chính đáng. Khi con người được hưởng quyền dân chủ chính
đáng của mình thì cũng có nghĩa là họ được đối xử bình đẳng, công bằng. Khi
đó, họ sẽ phát huy cao nhất khả năng của mình, hết mình cống hiến cho xã
hội, qua đó thúc đẩy xã hội phát triển. Xã hội càng dân chủ thì càng phát triển
nhanh vì càng khơi dậy được tính tích cực của con người.
8
Trong thời kỳ Cộng sản nguyên thủy, con người sống theo bầy đàn, xã
hội chưa có sự phân chia giai cấp thì chưa có khái niệm dân chủ nhưng đã
xuất hiện hình thức dân chủ đầu tiên trong lịch sử loài người. Ở đó, con người
cùng chung sống, cùng lao động và cùng sử dụng sản phẩm thu được. Đây
được coi là một hiện tượng dân chủ.
Khái niệm dân chủ xuất hiện khi có sự ra đời của chế độ chiếm hữu nô
lệ. Lúc này, cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu, trong xã hội đã có sự
phân chia giai cấp. Giai cấp chủ nô đã thiết lập một bộ máy bảo vệ cho mình,
đó chính là nhà nước chủ nô-nền dân chủ chủ nô được hình thành. Ở đây, giai
cấp nô lệ không có quyền lực, ngay cả quyền định đoạt số phận cho mình, họ
được coi như là tài sản, là công cụ lao động của giai cấp chủ nô. Trong tác
phẩm Nhà nước và cách mạng, V.I.Lênin cho rằng Nhà nước chủ nô là hình
thái dân chủ đầu tiên trong lịch sử nhưng không phải dành riêng cho nhân dân
với tư cách là số đông mà là cho giai cấp chủ nô. Có thể thấy trong xã hội
chiếm hữu nô lệ, quyền lực chính trị thuộc về giai cấp chủ nô.
Khi nhà nước phong kiến ra đời thay thế nhà nước chủ nô, nền dân chủ
chủ nô được thay thế bằng nền quân chủ phong kiến. Quyền lực hoàn toàn
nằm trong tay nhà vua, giai cấp quý tộc, phong kiến, người dân hầu như
không có quyền dân chủ. Với phương thức “cha truyền con nối”, quyền lực
của vua lại truyền cho con cháu, nhân dân không có cơ hội nắm giữ quyền
lực.
Khi sản xuất phát triển lên một bước mới, giai cấp tư sản hình thành
đầu tiên ở phương Tây, trong vòng 300 năm đã tiến hành các cuộc cách mạng
Tư sản lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập Nhà nước Tư sản. Từ đây, nền dân
chủ Tư sản được thiết lập. Đây là một bước tiến mới trong lịch sử nhân loại,
giải phóng con người, con người được trao cho nhiều quyền tự do (tự do ngôn
luận, tự do kinh doanh, tự do tín ngưỡng, tôn giáo…). Tuy nhiên, về bản chất
9
thì dân chủ Tư sản vẫn dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Tư liệu sản xuất vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản, giai cấp chiếm thiểu số
trong xã hội. Giai cấp vô sản, nhân dân lao động là người tạo ra của cải vật
chất chủ yếu cho xã hội, họ là người tạo ra giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản
nhưng họ lại bị giai cấp tư sản bóc lột. Do đó, trong thực thế dân chủ chỉ thực
sự có đối với giai cấp tư sản, giai cấp chiếm thiểu số nhưng lại nắm trong tay
phần lớn của cải trong xã hội; còn nhân dân lao động chỉ có quyền tự do dân
chủ về hình thức hoặc một ít quyền dân chủ về chính trị. Theo V.I.Lênin, dân
chủ tư sản luôn là một chế độ dân chủ với thiểu số, là một thứ dân chủ đối với
kẻ giàu.
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga, lịch sử đã sang trang,
chế độ Xã hội chủ nghĩa ra đời. Nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên ra đời
là nước Nga Xô viết và một số nước khác sau đó là Việt Nam, Trung Quốc…
Nền dân chủ Tư sản thay thế bằng nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, một nền dân
chủ thực sự khi tất cả mọi người dân được trao mọi quyền lực của đất nước.
Trong đó họ được quyền quyết định vận mệnh của đất nước, được tham gia
xây dựng Nhà nước bằng phổ thông đầu phiếu…
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, thành lập nhà
nước Dân chủ nhân dân, đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ trở thành người làm
chủ đất nước. Từ đây, thành lập nhà nước Dân chủ nhân dân, quyền dân chủ
của nhân dân được khẳng định trong Hiến pháp. Ruộng đất thuộc về nông
dân, nhà máy, xí nghiệp được công nhân làm chủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và sau đó là Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam-nhà nước mang bản chất của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc được thành lập. Từ khi thành lập
đến nay, nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã tỏ rõ tính ưu việt của
nó trong công cuộc xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh.
10
Quan điểm về dân chủ của Đảng cộng sản Việt Nam
Vấn đề dân chủ, ngay từ đầu đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức
quan tâm: “Nói về dân chủ, Hồ Chí Minh trước hết là nói về quyền được làm
chủ, quyền được hưởng thụ nền dân chủ của người dân trong một thể chế
chính trị-xã hội. Trong Tuyên ngôn độc lập đọc ngày 02/9/1945 tại Ba Đình,
Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn độc lập của nước
Mỹ: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ
những quyền bình đẳng ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc”. Tiếp đó, Người trích dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền và dân
quyền của Cách mạng Pháp năm 1789: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng
về quyền lợi; và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi””[28, tr.4].
Dân chủ ở Việt Nam không giống như dân chủ ở các chế độ xã hội
trước đó, mà “Ở Việt Nam cũng như các nước XHCN trước đây thường nói
về tính ưu việt của dân chủ XHCN. Đây là nền dân chủ dành cho tuyệt đại đa
số nhân dân chứ không phải là nền dân chủ dành cho thiểu số như các nước
TBCN. Nền dân chủ XHCN có tính ưu việt, tính thống nhất ở cơ sở kinh tế là
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, ở mục
tiêu xây dựng XHCN, ở sự thống nhất ý chí và hành động của toàn bộ hệ
thống chuyên chính vô sản của toàn dân” [28, tr. 4].
Thật vậy, ngay từ khi chính quyền nhân dân mới thành lập, Nhà nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định
quyền lực Nhà nước là của nhân dân: “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân
chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sáng tạo
của nhân dân, làm cho mọi công dân Việt Nam thực sự tham gia công việc
quản lí của Nhà nước” [26, tr. 590]. “Lấy dân làm gốc” luôn xuyên suốt trong
tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã chỉ rõ rằng: “Có lực lượng dân
chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì
11
làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản
đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ
mãi không ra” [24, tr. 295]. Người nhấn mạnh việc thực hiện dân chủ ở từng
địa phương, từng cơ sở, từng cán bộ, từng người dân và từng công việc cụ
thể; vận động tất cả lực lượng phải làm cho dân hiểu được quyền lợi và nghĩa
vụ của mình trong vai trò là người làm chủ đất nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế
nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần
tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người”
[25, tr. 216]. Vì vậy, Người đặt ra yêu cầu: “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc
với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho
thiết thực với hoàn cảnh địa phương” [24, tr. 698-699].
Dân chủ là vấn đề có tầm quan trọng và mang ý nghĩa quyết định, nên
ngay từ khi ra đời, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề dân
chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là một vấn đề hệ trọng,
có ý nghĩa chiến lược sâu sắc đối với sự phát triển đất nước. Trong các Nghị
quyết của Đảng, vấn đề tôn trọng quyền lực nhân dân, mở rộng dân chủ
XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lí Nhà
nước luôn là một nội dung quan trọng nhất. Để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao
của việc xây dựng Nhà nước trong thời kì mới thì một trong những yêu cầu cơ
bản được Đảng ta xác định là “tiếp tục phát huy tốt hơn nữa quyền làm chủ
của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân
dân tham gia xây dựng và bảo vệ Nhà nước, nhất là việc giám sát, kiểm tra
của nhân dân với hoạt động của cán bộ, công chức Nhà nước” [15, tr. 41].
Nhấn mạnh vai trò của dân chủ, trong tác phẩm “Thường thức chính
trị” viết năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Ở nước ta, chính quyền
là của nhân dân, do nhân dân làm chủ… Nhân dân là ông chủ nắm chính
12
quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế
là dân chủ.” Đất nước nào thực sự thực hiện được điều này thì việc thực hiện
dân chủ đã thành công. Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh: “Dân chủ trong xã hội
Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội… Dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bật nhất
và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của Nhà nước… Dân chủ không
dừng lại là một thiết chế xã hội của một quốc gia, mà còn có ý nghĩa biểu thị
mối quan hệ quốc tế, là nguyên tắc trong các quan hệ quốc tế”[2, tr. 1]
Ngày nay, khi đất nước thống nhất và đang trong quá trình đổi mới, hội
nhập và phát triển, dân chủ luôn luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng
đầu, như Điều 3, Hiến pháp 2013 đã quy định rõ: “Nhà nước đảm bảo và phát
huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo
quyền con người, quyền công dân.” Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ XII cũng đã xác định rõ những nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện
nay: “Thu hút, phát huy mạnh mẽ nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề
bức thiết; tăng cường quản lí phát triển xã hội, đảm bảo an ninh xã hội, an
ninh con người, đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm
nghèo bền vững. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh
đại đoàn kết dân tộc. Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí
tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”.
Đối với tổ chức Đảng, cũng luôn cố gắng xây dựng mối quan hệ tốt đẹp
giữa cán bộ Đảng viên với quần chúng nhân dân như tinh thần Nghị quyết
Trung ương 4-Khóa XII đã chỉ rõ: “Xây dựng và thực hiện có hiệu quả nội dung
xây dựng Đảng về đạo đức, trong đó chú trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực
các mối quan hệ của cán bộ, Đảng viên với tổ chức Đảng và với nhân dân”.
13
Có thể thấy, “dân chủ luôn là khát khao, nguyện vọng của con người,
của mọi dân tộc trong mọi thời đại. Nó cần như cơm ăn, áo mặc, nước uống
hàng ngày. Dân chủ là thước đo nền văn minh xã hội và năng lực lãnh đạo của
một Đảng cầm quyền, năng lực quản lí của một Nhà nước” [28, tr. 4].
1.1.2. Dân chủ ở cơ sở
Ngay từ đầu, V.I.Lênin đã xác định mục tiêu xây dựng dân chủ XHCN
“cao gấp triệu lần tư sản”. Đó là một nền dân chủ toàn diện, triệt để nhất được
thực hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; mỗi cá
nhân có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân. Để thực hiện được nhiệm
vụ này cần một quá trình khó khăn và lâu dài đối với tất cả các nước XHCN
nói chung và nước ta nói riêng. Ở nước ta, ngay từ khi mới thành lập Nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau đó là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta, trong chiến lược xây dựng và phát triển đất
nước, luôn cố gắng tập trung hiện thực hóa quyền dân chủ.
Nền dân chủ XHCN ở nước ta được khẳng định rất rõ trong đường lối
của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Hệ thống chính trị ở nước ta
gồm bốn cấp: Trung ương, Tỉnh (Thành phố trực thuộc tỉnh), Huyện (quận),
Xã (phường). Cấp cơ sở là cấp xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp…đây là
nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước. Thực
hiện có hiệu quả dân chủ ở cơ sở là một khâu quan trọng trong tiến trình thực
hiện dân chủ trên cả nước.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại đã cho thấy có hai hình thức chủ
yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, đó là dân chủ trực tiếp và
dân chủ gián tiếp. Trong chế độ dân chủ Xã hội chủ nghĩa cũng vậy.
Dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ với những quy chế, thiết chế để
nhân dân bầu ra những người đại diện của mình quyết định các công việc
chung của cộng đồng, của Nhà nước.
14
- Xem thêm -