Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực trạng cán bộ và công tác cán bộ hiện nay...

Tài liệu Thực trạng cán bộ và công tác cán bộ hiện nay

.PDF
21
175
76

Mô tả:

Mở đầu 1. lý do chọn đề tài Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhưng phải có một đảng chính trị lãnh đạo mới đem lại thành công. Đảng muốn lãnh đạo được cách mạng cần phải có đội ngũ cán bộ cách mạng, nòng cốt là những cán bộ - Đảng viên cốt cán- những người đề ra chiến lược, sách lược lãnh đạo các tổ chức cách mạng. C. Mác chỉ ra rằng: Muốn thực hiện tốt tư tưởng thì phải có những con người Việt Nam vận dụng tư tưởng đó vào thực tiễn. Lênin đã nêu vấn đề: Ai lãnh đạo nếu không phải là những con người, lãnh đạo bằng cách nào nếu không phải là phân phối lực lượng. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi: Huấn luận cán bộ là công việc gốc của Đảng và muốn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Người đặt cán bộ ở vị trí quyết định, bởi vì khi có chính sách đúng thì sự thành công và thất bại của chính sách đó là do cách tổ chức công việc, do nơi lựa chọn cán bộ, do nơi kiểm tra. Nếu ba đều sơ sài chính sách đúng mấy cũng vô ích. Như vậy, vai trò của người cán bộ được thể hiện trong mối quan hệ về đường lối, chính sách của Đảng thông qua bộ máy tổ chức lãnh đạo, quản lý để đến với quần chúng và biến sức mạnh của nhân dân thành sức mạnh của toàn dân tộc nhằm thực hiện mục tiêu đường lối, chính sách của Đảng Từ thực tiễn các cuộc đấu tranh cách mạng 72 năm qua, Đảng ta đã có cơ sở để khẳng định vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cốt cán trong các thời kỳ cách mạng có kinh nghiệm quý báu về vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện nay. Mỗi chế độ muốn đứng vững, tồn tại và phát triển phải được xây dựng nên bởi những con người hết lòng trung thành vơí chế độ có trí tuệ hơn người, có năng lực, vì dân, vì nước phục vụ quên mình, họ là nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia. Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, tiếp thu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác cán bộ ở Việt Nam hiện nay là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong Đảng ta hiện nay. 2. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn + Cơ sở lý luận: Dựa vào các nguyên lý, quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đường lối chủ trương của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ. + Cơ sở thực tiễn: Dựa trên tình hình kinh tế-xã hội của Đảng và Nhà nước về thực trạng đội ngũ cán bộ nói chung trong thời gian qua. 2.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, đồng thời còn sử dụng phương pháp lý luận gắn với thực tiễn, logic lịch sử, phân tích tổng hợp và phương pháp khảo sát thực tế, tổng kết thực tiễn để rút ra những bài học có tính quy luật về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt nói chung và đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện nay. 3. Kết cấu của đề tài: Đề tài chia làm 3 phần: + Mở đầu + Nội dung – Chương I: Những vấn đề chung – Chương II: Thực trạng cán bộ và công tác cán bộ hiện nay – Chương III: Giải pháp + Kết luận Nội dung Chương I. những vấn đề chung 1. Một số khái niệm cơ bản 1.1. Khái niệm cán bộ: Từ cán bộ được du nhập vào nước ta từ Trung Quốc, được dùng phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ban đầu danh từ này được dùng nhiều trong quân đội để phân biệt chiến sĩ và cán bộ. Từ cán bộ dùng để chỉ những người làm nhiệm vụ chỉ huy từ tiểu đội phó trở lên. Dần dần từ cán bộ dùng để chỉ tất cả những người hoạt động trong kháng chiến để phân biệt họ với nhân dân. Trong từ điển Việt – Nhật danh từ cán bộ được dùng với nghĩa là: người ở hạng cao ( trong một đoàn thể), là yếu nhân ( nhân vật quan trọng). Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp có khác nhau về cơ bản, từ cán bộ bao hàm nghĩa chính là bộ khung, là nòng cốt, là chỉ huy. Do vậy, có thể quan niệm một cách chung nhất về khái niệm cán bộ như sau: Cán bộ là một khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò, cương vị nòng cốt tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng cho sự phát triển. 1.2. Khái niệm cán bộ chủ chốt: “Cán bộ chủ chốt” là khái niệm có liên quan trực tiếp đến đề tài cần làm rõ. Hiện nay, có rất nhiều ý kiến khác nhau về thuật ngữ, khái niệm cán bộ chủ chốt. Song qua nhiều nghiên cứu các văn kiện, tài liệu của Đảng, Nhà nước, chúng ta có hiểu “cán bộ chủ chốt” là những người: – Giữ các vị trí Trưởng, Phó trong cơ quan thường trực của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân ở các cấp, các ngành, các địa phương. – Những người có trách nhiệm chính trị chính trong công việc triển khai tổ chức thực hiện mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, cấp trên tại địa phương đơn vị mình. – Giữ vai trò quyết định trong việc đề ra các quyết định chỉ thị, nghị quyết và tổ chức thực hiện trong phạm vi địa phương, đơn vị mình và phải chịu trách nhiệm pháp lý trước địa phương, đơn vị chủ quan cấp trên. Cho nên, cán bộ chủ chốt là người đại diện cho trí tuệ của một tập thể, một tổ chức, với tư cách là nhân tố then chốt, chủ yếu do bầu cử hoặc được cấp trên bổ nhiệm giữ các chức vụ trưởng ( hoặc phó) trong cơ quan thường trực của Đảng, chính quyền, đoàn thể và họ là những người chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về mọi hoạt động quản lý. 1.3. Khái niệm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt: Chất lượng của người cán bộ là yêu cầu hàng đầu trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng. Mà yêu cầu đánh giá chất của từng cán bộ và đội ngũ cán bộ đó là sự thống nhất biện chứng giữa phẩm chất chính trị, năng lực trí tuệ, trình độ văn hóa, năng lực công tác và sự đánh giá cuối cùng là hiệu quả công việc hoàn thành. Sự nghiệp đổi mới của đất nước ngày càng phát triển, vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng, đòi hỏi chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cũng được nâng lên ngang tầm. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt là đánh giá, lựa chọn bố trí lại theo yêu cầu nhiệm vụ. Đi đôi với đánh giá, bố trí sử dụng là đào tạo, bồi dưỡng để có một đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, có chất lượng cao, cơ cấu đồng bộ, có lòng trung thành sâu sắc với sự nghiệp cách mạng của Đảng đủ sức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn lịch sử mới. Nâng cao chất lượng bao hàm cả tính kế thừa cái hợp lý, cái đã qua, có phê phán, chọn lọc để có biện pháp tiến hành hiệu quả. 2. Lịch sử thế giới và Việt Nam về vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. 2.1. Lịch sử Việt Nam, ngay trong thời phong kiến xa xưa việc xây dựng đội ngũ quan chức còn gọi là “phương sách dùng người”, là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi triều đại phong kiến, mà nội dung cốt yếu cho phương sách dùng người là “cầu hiền” và “sử dụng hiền tài”. Như trong “chiếu dựng nhà học”, Vua Quang Trung đã nói: “Dựng nước lấy học làm đầu, cai trị lấy nhân tài làm gốc”. Các triều đại phong kiến Việt Nam lần lượt trải qua các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành độc lập cho dân tộc, trải qua các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành độc lập cho dân tộc, đã để lại nhiều bài học quý báu về phương thức sách dùng người cho thế hệ sau học tập. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta và Bác Hồ đã nhận thức đúng về vị trí tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng, coi “cán bộ là dây truyền của bộ máy”. Nếu dây truyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng bị tê liệt”(1). “Cán bộ là gốc của mọi công việc là tiền vốn của đoàn thể, có vốn mới làm ra lãi”(2). Cán bộ là cầu nối liền giữa Đảng, chính phủ với dân, đem chính sách của chính phủ đoàn thể thi hành trong nhân dân. Đảng ta luôn quan tâm đến kinh nghiệm xây dựng đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ. Học hỏi kinh nghiệm của cha ông ta trong lịch sử xây dựng, phát triển, đội ngũ cán bộ thông qua 5 bài học kinh nghiệm sau: – Nhân tài có quan hệ chặt chẽ đến sự hưng vong của đất nước. – Chính sách nhân tài là quốc sách hàng đầu của mọi quốc gia trong lịch sử. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải gắn với bố trí sử dụng. -Trong lịch sử cha ông ta đã có những bài học về phương pháp và chính sách đúng để lựa chọn nhân tài, coi khoa cử là phương pháp cơ bản để lựa chọn nhân tài bởi “hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thị quốc gia mạnh, nguyên khí yếu thì quốc gia suy”(3). – Nước ta có nhiều nhân tài ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, phải tùy tài mà dùng người. – Ông cha ta đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa đạo đức và trí tuệ, giữa trí và tài, tâm, giữa danh và thực. 2.2. Ngày nay, thế giới càng nhận thức được rằng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức là điều kiện kiên quyết bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Đào tạo, sử dụng đúng cán bộ không chỉ cần thiết cho sự phát triển kinh tế, xã hội mà còn đảm bảo cho việc “khai phá năng lực” mang ý nghĩa chiến lược. Từ những năm 50 của thế kỷ XX, các nước phương Tây đã đưa việc đào tạo, sử dụng công chức vào phạm vi luật định, đưa những quy định mang tính cưỡng chế cho công tác đào tạo, sử dụng công chức. Chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm của một số nước xung quanh như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapo về một vài khía cạnh trong công tác cán bộ. * Trung Quốc: Rất coi trọng việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ cho công cuộc hiện đại hóa đất nước, đặc biệt là việc đào tạo bồi dưỡng, sử dụng nhân tài. Trung Quốc cho rằng: “Sự nghiệp hưng suy mấu chốt là ở con người”, “Cuộc cạnh tranh kinh tế gay gắt hiện nay xét cho cùng chính là cạnh tranh về nhân tài”. “Chọn người, dùng người sai lệch là sai lầm lớn, để nhân tài mai một, chậm trễ sử dụng là sai lầm lớn”. Ngay từ thời cổ đại Trung Quốc đã có phương sách dùng người rất thành công trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Nó được đúc kết lại thành mấy vấn đề quan trọng mà chúng ta cần học tập, đó là khi đánh giá một người giỏi là người biết sử dụng người giỏi hơn mình, biết đến người hiền tài, biết mà không dùng thì lại đến nghiệp bá, dùng nhân tài phải chuyên một việc dùng mà không chuyên cũng hại đến nghiệp bá, chuyên mà để cho kể tiểu nhân lấn vào thì cũng hại đến nghiệp bá. Hiện nay, Trung Quốc cho rằng trong điều kiện đổi mới nhiều mặt của thế giới, trong thời kỳ biến đổi lớn lao về cải cách mở cửa và xây dựng hiện đại hóa, để nắm chắc thời cơ đi sau cải cách mở cửa thực hiện thắng lợi mục tiêu đã chỉ định thì chúng ta cần kiên trì, bền bỉ, không dao động về lí luận và đường lối cơ bản của Đảng, bảo đảm sự cầm quyền của Đảng và Nhà nước bền vững lâu dài. Ngoài ra, cần xây dựng Ban lãnh đạo các cấp trở thành một tập thể lãnh đạo kiên cường, kiên quyết quán triệt đường lối cơ bản của Đảng, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, tạo dựng thế hệ kế thừa đủ tiêu chuản, lựa chọn, đề bạt những cán bộ trẻ ưu tú, được quần chúng tín nhiệm, coi đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng, nhiệm vụ chiến lược có quan hệ đến tiền đồ và vận mệnh của đất nước và giải phóng tư tưởng, phá bỏ những trở ngại tư tưởng, thực hiện nhiều biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ một cách tích cực và chặt chẽ. * Nhật Bản: Hiện nay, ở Nhật vấn đề quyền hạn quá lớn của các quan chức đã đặt sự cần thiết phải cải cách lại bộ máy cho phù hợp với giai đoạn phát triển sôi động này. Hầu hết các chính trị gia và giới ngôn luận đều thừa nhận quan chức Nhà nước là những người rất ưu tú. Tư chất và năng lực được quyết định bằng những kỳ thi tuyển nghiêm túc và bằng sự đào tạo liên tục sau khi thi tuyển. Nhật tổ chức thi tuyển công khai và đào tạo theo một quy định chặt chẽ, có chế độ đãi ngộ thỏa đáng, nhiệm kỳ các quan chức được rút ngắn, bộ máy Nhà nước gọn nhẹ để giảm số lượng quan chức, nhất là quan chức cao cấp…Đó là những điều kiện cần học hỏi kinh nghiệm Nhật Bản về công tác cán bộ. * Singapo: là một nước nhỏ, nhưng kinh tế xã hội rất phát triển.Có nhiều nguyên nhân cắt nghĩa sự thành công đó, song có một nguyên nhân cơ bản là Đảng cầm quyền Nhà nước Singapo đặc biệt coi trọng việc xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ chế phương thức làm việc là đào tạo, tuyển chọn công chức, coi đó là quốc sách để xây dựng và phát triển đất nước. Việc tuyển chọn và đào tạo nhân tài ở Singapo được xác định là một quốc sách. Chính phủ Singapo rất chú trọng sự nghiệp giáo dục, đào tạo, tiến hành tuyển chọn nhân tài ngay học sinh phổ thông để tìm ra những người có tài năng thật sự tham gia vào các cơ quan Nhà nước. ở tất cả các cấp học từ phổ thông đến đại học, hàng năm đều tổ chức các kỳ thi để chọn người tài cho quốc gia một cách công khai, bình đẳng, không phân biệt truyền thống gia đình, điều kiện kinh tế dân tộc,đảng viên hay chưa đảng viên. Tóm lại, việc học tập kinh nghiệm về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt của các nước trên thế giới là hết sức quan trọng và cần thiết đối với nước ta để nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt. 3. Mác – Ănghen và Lênin về cán bộ và công tác cán bộ. Mác -Ăngghen khẳng định: “Xưa nay tư tưởng không thể đưa người ta vượt qua trật tự thế giới được, trong bất cứ tình huống nào tư tưởng cũng chỉ có thể đưa đưa người ta vượt ra ngoại phạm vi tư tưởng của trật tư thế giới cũ mà thôi. Thật vậy tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những người sử dụng lực lượng thực tiễn”(4). Con người mà Mác-Ănghen nói đây chính là cán bộ có nhiệm vụ lãnh đạo quần chúng thực hiện những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Đối với sự nghiệp của giai cấp công nhân. C.Mác – Ănghen cho rằng cần phải có một đội ngũ cán bộ vừa có lòng trung thành với lý tưởng giai cấp, vừa có tri thức lý luận, vừa có năng lực tổ chức thực tiễn mới có khả năng đáp ứng yêu càu của sự nghiệp đó. Kế thừa tư tưởng của Mác – Ănghen, Lênin đã chỉ rõ: “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức lãnh đạo phong trào”(5).Theo Lênin, muốn lật đổ chế độ Nga Hoàng và giành chính quyền cần phải có đội ngũ “cán bộ chuyên nghiệp” ngay từ ngày đầu thành lập Đảng, Người đã coi trọng công tác cán bộ và chính quyền người giảng bài ở các trường lớp đó. Cách mạng tháng Mười không thể thành công nếu không nếu không có đội ngũ cán bộ được đào tạo như thế. Một đội ngũ cán bộ giỏi, có phẩm chất, có nhiệt tình là điều kiện để giai cấp vô sản chiến thắng tư sản. “Chính trị là một khoa học và một nghệ thuật không phải là từ trên trời rơi xuống, mà đòi hỏi một sự cố gắng rằng giai cấp vô sản muốn thắng giai cấp tư sản phải đào tạo lấy những nhà chính trị vô sản và không thua kém các nhà chính trị của giai cấp tư sản”(6). Ngoài ra Lênin còn gắn chặt đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ với vai trò lãnh đạo của Đảng. Rõ ràng, nếu không có đội ngũ cán bộ vững mạnh thì Đảng không thể duy trì, giữ vững được sự lãnh đạo của mình. Thực chất sự lãnh dạo này là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH Người viết: “Sự lãnh đạo chính trị sẽ là gì chứ? Ai lãnh đạo nếu không phải là những con người, lãnh đạo cách nào nếu không phải là phân phối lực lượng”(7). Mặt khác, Lênin còn đề ra những nguyên tắc lựa chọn, bố trí, giáo dục cán bộ, coi là chính sách của Đảng cộng sản: “Hãy thử nghiệm hết sức thận trọng và hết sức nhẫn nại những người có tài tổ chức, những cán bộ có óc sáng suốt có bản lĩnh tháo vát trong thực tiễn, những con người vừa trung thành với CNXH vừa có khả năng tổ chức một cách vững chắc và nhịp nhàng với công việc…chỉ những người như thế sau khi được thử thách hàng chục lần bằng cách cho họ giữ những chức vụ từ đơn giản nhất đến khó khăn nhất, chúng ta mới đề bạt lên cương vị chủ chốt làm người cán bộ quản lý”(8). Như trong tác phẩm “Làm gì” (1902) Lênin có viết: chúng ta thiếu người mà người thì vô số, chính là nói thiếu nhân tài chứ không thiếu cán bộ. Không nên quan niệm nhân tài chỉ là người tài mà không tính đến đức. Tài phải chức đựng trọng yếu tố Đức và đức phải chứa đựng trong đó yếu tố tài. Đương nhiên, tài và đức là thể thống nhất chứ không đồng nhất. “Tài” thể hiện ở trình độ lý luận chính trị, kiến thức văn hóa năng lực lãnh đạo quản lý. “Đức thể hiện ở phẩm chất chính trị, tư tưởng vững vàng, tác phong công tác, cần kiệm, liêm chính. Việc tạo nguồn cán bộ được Lênin hết sức quan tâm: “Nhiệm vụ của chúng ta là qua thí nghiệm mà thu hút các chuyên gia, rồi bồi dưỡng lớp cán bộ lãnh đạo mới, lớp chuyên mới để họ học cho bằng được công tác quản lý, một công tác mới hết sức khó khăn, phức tạp, để thay thế chuyên gia cũ”(9). Có như vậy mới thúc đẩy được xã hội phát triển tiến kịp thời đại. 4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ Hiếm có những lãnh tụ trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng lại đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ và đào tạo cán bộ: Viết nhiều, đề cập nhiều về vấn đề cán bộ trực tiếp huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và đặc biệt là bằng cuộc đời của mình đã nêu lên một tấm gương mẫu mực về một cán bộ kiệt suất, tài đức cao cả như Hồ Chí Minh. Với công trình đặc sắc của Người, đã đào tạo nên một đội ngũ cán bộ nòng cốt xả thân vì Đảng, vì dân góp phần làm nên sự nghiệp thần kỳ trên mọi lĩnh vực: chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng… Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc” cán bộ là người tiếp thu đường lối, chính sách của Đảng và chính phủ đem đường lối chính sách đó tuyên truyền rộng trong quần chúng thực hiện, sơ kết, tổng kết hoạt động thực tiễn của quần chúng nhằm hoàn thiện đường lối,chính sách. Hồ Chí Minh còn coi “Huấn luyện cán bộ là công việc của Đảng”(10). Người đòi hỏi nắm vấn đề cơ bản trong huấn luyện cán bộ là: huấn luyện ai? Ai huấn luyện?Nội dung huấn luyện là gì? Tài liệu huấn luyện như thế nào? Cách thức huấn luyện ra sao? Phải được chuẩn bị kỹ càng và thực hiện cho tốt. Vì theo Người, người huấn luyện phải giỏi hơn người đi học, cán bộ làm việc thì phải tinh thông nghiệp vụ đang làm, tài liệu huấn luyện phải bổ sung thường xuyen có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của người học và cách thức huấn luyện phải linh hoạt không cứng nhắc, không có công thức hóa, lý thuyết suông. Và “Đảng phải sử dụng cán bộ như người làm vườn vun trồng nhưng cây quý báu” quan niệm của Bác thật giản đơn tự nhiên nhưng rất biện chứng. Trong ngôn ngữ của Hồ Chí Minh, khi đề cập đến công tác đào tạo cán bộ, ta thường gặp các thuật ngữ “tài, đức”, “hồng chuyên”, “có tài, có đức”… Đó chính là sự thống nhất giữa đạo đức và năng lực của người cán bộ cách mạng mà biểu hiện là động cơ và hiệu quả. Tài năng của người cán bộ phải được thể hiện trong hoạt động giúp ích cho xã hội, không có tài năng thì mọi nguyện vọng tốt đẹp sẽ không bao giờ trở thành hiện thực. Muốn có tài, có đức theo Người phải học tập, tu dưỡng rèn luyện. Người khẳng định: tri thức là cơ sở của tài năng của sự thông minh, có học tập mới nhận thức được mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, của dân tộc và mới có khả năng xác định phương pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu lý tưởng đó. Về năng lực công tác của người cán bộ theo Hồ Chí Minh: “Cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu, phải cải tiến phương pháp công tác phải ra sức phát huy trí tuệ và tinh thần sáng tạo của quần chúng công nhân. Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phải thắt chặt tình đoàn kết nhất trí giữa Đảng và quần chúng, phải đẩy mạnh thi đua yêu nước, thực hiện sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ”(11). Hồ Chí Minh nhận thức rõ rệt về vị trí, vai trò ý nghĩa quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ, Người đã nêu lên những yêu cầu mà Đảng ta phải làm trong công tác cán bộ: Phải biết rõ cán bộ, phải cân nhắc cán bộ cho đúng, phải kéo dùng cán bộ, phải phân phối, giúp đỡ, bảo vệ cán bộ. Từ trong những yêu cầu đó Người đề ra tiêu chuẩn để lựa chọn cán bộ đó là: a. Những người tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc trong lúc đấu tranh. b. Những liên lạc mật thiết với quần chúng , hiểu biết quần chúng. Luôn luôn chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như thế, dân chúng mới tin cậy cán bộ là người lãnh đạo của họ. c. Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề trong những hoàn cảnh khó khăn . Ai sợ phụ trách không có sáng kiến thì không phải người lãnh đạo. Người lãnh đạo đúng đắn phải cần: Khi thất bại không hoang mang,khi thắng lợi không kiêu ngạo, khi thi hành các nghị quyết, gan góc không sợ khó khăn. d. Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật. Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, ngay từ khi mới ra đời đã chú trọng đến công tác cán bộ và cán bộ là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà nếu Đảng làm tốt sẽ thúc đẩy xã hội phát triển. Ngược dòng thời gian, chúng ta sẽ thấy qua mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng ta đã xây dựng được một đội ngũ Trung Kiên, gắn bó với nhân dân, giàu kinh nghiệm thực tiễn, tổ chức và lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối chính sách của Đảng. Đại hội VI của Đảng, Đại hội đổi mới toàn diện đất nước trên tất cả các lĩnh vực, trong đó vấn đề về công tác cán bộ được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Tại Đại hội, Đảng chỉ rõ: “Để tăng cường sức chiến đấu và năng lực thực tiễn của mình Đảng đã đổi mới nhiều mặt: đổi mới tư duy trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ nghĩa là đánh giá, lựa chọn, bố trí, bố trí lại, đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng để có đội ngũ cán bộ có đủ tiêu chuẩn và năng lực để lãnh đạo, quản lý ngang tầm nhiệm vụ”(12). Không những vậy, Đại hội còn khẳng định: “mọi cán bộ đều có nhiệm vụ tham gia với tập thể lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo, cán bộ kế tục. Cán bộ nhiều tuổi giàu kinh nghiệm có nghĩa vụ ủng hộ, giúp đỡ cán bộ kế tục. Nhân tài không phải là sản phẩm tự phát, mà phải phát thiện và bồi dưỡng công phu. Nhiều tài năng có thể bị mai một nếu không được phát hiện và sử dụng đúng chỗ, đúng lúc…Việc luân chuyển cán bộ theo quy hoạch góp phần đào tạo những cán bộ có tầm nhìn xa hiểu rộng, có bản lĩnh và năng lực lãnh đạo”(13). Đại hội VII trên cơ sở Đại hội VI đã nghiêm túc đánh giá kết quả thực hiện công tác cán bộ khẳng định: “Công tác cán bộ có mặt đã đạt được cải tiến theo hướng dân chủ và tập thể hơn, thay đổi nhiều cán bộ chủ chốt các cơ quan, các ngành, các cấp…Trong số cán bộ mới nhiều đồng chí đã phát huy tác dụng tốt. Việc kết hợp nhiều độ tuổi ở mỗi cơ quán lãnh đạo là một kinh nghiệm tốt, bảo đảm tính liên tục và tính kế thửa trong ĐNCB”(14). Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Sớm xây dựng chiến lược cán bộ thời kỳ mới”. Tại kỳ họp lần III Đảng vạch ra “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đảng đã nêu ra 5 quan điểm cơ bản về cán bộ và công tác cán bộ thể hiện vai trò đặc điểm quan trọng của đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay. Đảng khẳg định: Cán bộ là nhân tố quyết định thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Đại hội IX tiếp tục kế thừa quan điểm của các Đại hội trước về cán bôj và công tác cán bộ. Có cơ chế chính sách phát hiện, tuyển chọn đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thời kỳ mới”. Tại kỳ họp lần III khóa VIII Đảng vạch ra “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảng đã nêu ra quan điểm cơ bản về cán bộ và công tác cán bộ thể hiện vai trò đặc biệt quan trọng của đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay. Đảng khẳng định: Cán bộ là nhân tố quyết định thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Đại hội IX tiếp tục kế thừa quan điểm của các Đại hội trước về cán bộ và công tác cán bộ. Có cơ chế chính sách phát hiện, tuyển chọn đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Có cơ chế chính sách phát hiện, tuyển chọn đòa tạo và bồi dưỡng cán bộ. Trọng dụng những người có đạo đức, có tài. Thực hiện nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo quản lý đội ngũ cán bộ và người đứng đầu trong các tổ chức của hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch và tạo nguồn cán bộ. Chú ý cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số và chuyên gia trên các lĩnh vực. Từ những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đúc kết lý luận của Đảng qua thực tiễn lãnh đạo công tác cán bộ với thắng lợi của cách mạng khẳng định yêu cầu khách quan, tính cấp thiết của công tác cán bộ và việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã trong giai đoạn cách mạng hiện đại. 5. Vị trí vai trò cán bộ về công tác cán bộ hiện nay Xuất phát từ đặc điểm đội ngũ cán bộ chủ chốt và thực tiễn cuộc sống đòi hỏi Đảng ta phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở để họ có đủ năng lực trình độ hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đa số cán bộ cơ sở có quá trình công tác ở địa phương lâu dài, được rèn luyện, phấn đấu thử thách trong Đảng nên học có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách mạng, đứng vững trên lập trương của giai cấp công nhân, tn tưởng vào con đường đi lên CNXH và phần lớn giữ được phẩm chất đạo đức, được quần chúng tin yêu tín nhiệm. Nhưng hiện nay, trình độ kiến thức của đội ngũ cán bộ chủ chốt rất thấp, còn yếu kém và bất cập đã ảnh hưởng đến uy tín của cán bộ nói chung và uy tín của Đảng. Tuy đã được đào tạo nhưng thiếu hệ thống và không đồng bộ do vậy, năng lực tổ chức của cán bộ chủ thốt cơ sở còn yếu kém chưa thích ứng được với cơ chế mới. ở nhiều nơi đội ngũ cán bộ chủ chốt còn lợi dụng chức quyền tham nhũng, ức hiếp dân chúng. Vả lại, công việc của cấp xã thì nhiều, trong khi điều kiện làm việc rất khó khăn, thiếu thốn, phụ cấp ít, chính sách không thỏa đáng, kinh tế thị trường tác động. Thực tế đó, gây nên một tâm lý chán nản, thậm chí một bộ phận cán bộ thóai hóa, biến chất chạy theo lối thực dụng. Đội ngũ cán bộ chủ chốt muốn hoàn thiện thành nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao phó thì họ phải không ngừng học tập làm giàu tri thức của mình, bằng cách tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn ở nơi khác để vận dụng vào điều kiện trong nước, xây dựng huyện phát triển vững mạnh. Chương II: Thực trạng cán bộ và chất lượng công tác cán bộ hiện nay 1. Công tác cán bộ 1.1. Công tác lựa chọn, đánh giá cán bộ công chức hàng năm đã được triển khai thực hiện đúng quy định, chất lượng đội ngũ cán bộ đánh giá hàng năm đều cao hơn năm trước. Đánh giá cán bộ là một vấn đề hết sức hệ trọng và rất tế nhị, nhạy cảm, phức tạp dễ gây mất đoàn kết. Nó chẳng những là khâu mở đầu quyết định để bố trí sử dụng cán bộ mà còn là nhân tố dễ gây tâm tư thắc mắc. Chính vì lẽ đó, muốn đánh giá đúng cán bộ phải có phương pháp khoa học khách quan, toàn diện, cụ thể. Như chúng ta đã phân tích bao giờ cũng từ công việc mới đến tìm người, phải căn cứ vào nhiệm vụ chính trị cụ thể mới xác định tiêu chuẩn của người cán bộ. Khi đánh giá cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn việc làm của mỗi người, lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao làm thước đó chủ yếu đánh giá phẩm chất năng lực của cán bộ, vấn đề này không đơn giản đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt. Chúng ta không có lý do gì để cho rằng chi bộ cơ sở nào là tốt nếu như ở đó mất đoàn kết nội bộ, quyền dân chủ của quần chúng không được bảo đảm, đời sống nhân dân không ổn định. Đánh giá đội ngũ cán bộ chủ chốt phải thông qua hiệu quả, chất lượng công việc là rất phức tạp. Vấn đề nàyđược đặt ra trong khi cơ chế cũ đang dần bị phá bỏ và cơ chế mới đang hình thành. Vì vậy phân định đâu là cán bộ tốt, đâu là cán bộ yếu kém và vấn đề khó khăn, bởi lẽ cùng một hiện tượng, công việc nhưng bản chất của nó lại khác nhau hoàn toàn cho nên khi đánh giá cán bộ phải xét đến mục đích, động cơ hoàn thành nhiệm vụ, xét cả điều kiện hoàn cảnh thuận lợi khó khăn, thành công nhất thời hay liên ntục…mới mong không bị sai lầm trong đánh giá. Trong quá trình đổi mới ở cơ sở những cán bộ có tâm huyết có tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân, tích cực tìm tòi sáng tạo, lao vào những công việc khó khăn, phức tạp, do vậy khó tránh khỏi sai lầm khuyêt điểm. Nếu không cho phép những cán bộ có thể sai lầm nhất định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thì vô hình chung đã đưa đội ngũ cán bộ tìm con đường an phận, trung bình chủ nghĩa hoặc cơ hội, tạo sức cho người cán bộ. Song không phải vì thế mà bỏ qua việc phân định đâu là sau lầm khuyết điểm, tư tưởng cục bộ, phường hội, bè cánh đối với những cán bộ có động cơ đúng đắn. 1.2. Công tác quy hoạch cán bộ đã triển khai theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII. Thực hiện quy định về phân cấp quản lý cán bộ và các văn bản hướng dẫn về công tác quy hoạch cán bộ. Trên cơ sở công tác quy hoạch cán bộ, đưa đi đào tạo đào tạo bồi dưỡng cán bộ, một mặt chuẩn hóa đội ngũ cán bộ theo quy định của Bộ chính trị mặt khác nâng cao hiệu quả tổ chức lãnh đạo, quản lý và điều hành tổ chức bộ máy. Đã tập trung đưa đi đào tạo số cán bộ đang công tác ở các chức danh lãnh đạo nhưng chưa có trình độ tương xứng, bồi dưỡng kiến thức mới cho số cán bộ ở những ngành trọng yếu, đồng thời tiếp tục lựa chọn đào tạo chính quy cán bộ trẻ,có hướng quy hoạch lâu dài, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị và chuyên môn cho cán bộ. Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, nhằm đảm bảo cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động có tầm nhìn xa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, tổ chức đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt hiện có, dự kiến nhu cầu, khả năng phát triển của đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở để chủ động có phương hướng đào tạo bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ. Cần trẻ hóa đội ngũ cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn và có sự chuẩn bị chu đáo, kết hợp các lứa tuổi, đảm bảo tính liên tục, tính kế thừa và phát triển giữ vững ổn định chính trị và đoàn kết nội bộ. Thực tế cho thấy việc lựa chọn, bố trí đúng cán bộ chủ chốt mỗi cấp, mỗi đơn vị là quan trọng nhất nhưng cũng khó khăn nhất.Người cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thực, gương mẫu, tận tụy, có trình độ, năng lực, phải chủ động đào tạo, chuẩn bị đội ngũ kế cận, tạo nguồn cán bộ. 1.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải tiến hành dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn thống nhất theo một chiến lược chung gắn với quy hoạch bố trí, sử dụng cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay, đã tiến hành xây dựng và chỉnh đốn bộ máy làm công tác tổ chức- cán bộ. Những năm qua mặc dù do điều động bố trí cán bộ mà đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở có sự thay đổi to lớn cả về số lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên, do sự nỗ lực cố gắng của từng cán bộ và được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ từng bước đội ngũ cán bộ chủ chốt ngày được bổ sung hoàn thành tốt nhiệm vụ – công tác giao cho. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngày càng được huyện quan tâm đầu tư và có chuyển biến tích cực. Đã thống nhất trong lãnh đạo chỉ đạo về nội dung chương trình, đối tượng học, kinh phí và các chế độ cho người học và hãy giành kinh phí thỏa đáng cho việc giáo dục và đào tạo không nên keo kiệt bủn xỉn các khoảng chi tiêu trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Học tập trở thành nhu cầu cấp thiết của cán bộ nói riêng. 1.4. Việc bố trí sử dụng cán bộ là kết quả của quá trình đào tạo bồi dưỡng. Việc bố trí, sử dụng cán bộ là rất quan trọng, song thực tế ở một số địa phương cơ sở chưa làm tốt – còn rất lúng túng trong công tác này, không xuất phát từ công việc để lựa chọn, bố trí cán bộ. Vì vậy, một số cán bộ được bố trí theo kiểu thân quen, áp đặt của người lãnh đạo, cho nên người ngoài Đảng ý kiến khác với lãnh đạo. Ngược lại, có nơi chưa chuẩn bị tốt lực lượng kế cận nên lựa chọn và bố trí cán bộ chủ chốt ở một cách nóng vội, chủ quan, trong khi cán bộ chưa có đủ năng lực, trình độ đảm đương nhiệm vụ. Những hiện tượng mất đoàn kết giữa những cán bộ lãnh đạo do kèn cựa địa vị – không phê bình xử lý kịp thời, nghiêm túc gây hậu quả xấu đối với công việc, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với cán bộ và tổ chức Đảng ở cơ sở. Ai cũng biết rằng người tài của đất nước thời nào cũng có, tại sao lại thiếu cán bộ giỏi. Đó có phải là yếu kém khuyết điểm của cán bộ không? Hay khuyết điểm của chính cấp lãnh đạo có thẩm quyền như Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII đã nhận định: “Việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ nhiều khi còn chủ quan, chưa thật công tâm, chưa hợp lý, thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Bố trí cán bộ trong nhiều trường hợp còn nặng nề cơ cấu, lúng túng bị động khi bố trí cán bộ chủ chốt ở một số ngành và địa phương: hẹp hòi,định kiến, không mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ…”. Nghị quyết Trung ương đã hoạch định những vấn đề lớn, trải qua thực tiễn cần có kế hoạch, quy trình biện pháp có thể sửa chữa, khắc phục sai lầm khuyết điểm trong bố trí sử dụng cán bộ. 1.5. Công tác quản lý cán bộ có bước chuyển biến tích cực. Song chủ thể quản lý, trước hết là thủ trưởng và cấp ủy chưa nắm đầy đủ. Song chủ thể quản lý, trước hết là thủ trưởng và cấp ủy chưa nắm đầy đủ thông tin về cán bộ cơ sở, nắm không chắc, không đủ, không hết, không kịp thời, liên tục về sự chuyển biến của cán bộ dưới quyền nên trong quản lý còn lúng túng, lỏng lẻo, không theo quy trình thống nhất. Và hiện tượng cấp ủy khoán trắng cho bộ máy tổ chức cán bộ quản lý giám sát cán bộ. Do vậy, việc quản lý đôi khi là hình thức chỉ nhắc đến mỗi khi Đại hội hoặc khi cân nhắc, đề bạt cán bộ. Cấp ủy cũng chưa xây dựng chế độ định kỳ xem xét quản lý nên đã có nhiều cán bộ cơ sở sa ngã, thoái trào, có phần dao động. Đất nước sau một thời gian dài chiến tranh bước vào xây dựng CNXH với những đặc điểm hết sức phức tạp cả trong và ngoài nước. Đã vậy, tư duy cán bộ lại có phần an bài, chủ quan với những thành tựu đạt được, quá tin vào đội ngũ cán bộ từng trải, từng được thử thách rèn luyện trong đấu tranh thống nhất nước nhà và không thấy hết những nguy cơ, những cám dỗ vật chất và âm mưu “diễn biến hòa bình” của kẻ thù hàng ngày tác động vào chế độ ta, đặc biệt bọn phản động rất chú ý đến đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở. Ngoài ra, sự thay đổi liên tục cán bộ lãnh đạo dẫn đến nhiều người trong số họkhông am hiểu đầy đủ thông tin, nghiệp vụ, nội dung công tác tổ chức và cán bộ nên trong quá trình quản lý cán bộ thường chú trọng quản lý về hồ sơ, lý lịch hơn là quản lý các hoạt động, quan hệ giao tiếp của cán bộ. Công tác quảnlý cán bộ có đặc điểm riêng đòi hỏi phải được tiến hành kiên trì, có hệ thống, mang tính khoa học với tinh thần nhạy cảm tế nhị nhưng điều hành không được quán triệt đầy đủ. Đồng thời chỉ trong thời gian hai năm huyện chưa thể tổng kết, nghiên cứu một cách toàn diện, nghiêm túc và có hiệu quả về công tác quản lý giám sát cán bộ. 2. Chế độ, chính sách cán bộ: Chính sách cán bộ là một công cụ quan trọng để tạo động lực xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ cơ sở. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở còn nhiều khó khăn, chủ yếu còn dựa vào cấp trên. Ngoài ra, chính sách đảm bảo lợi ích vật chất và động viên tinh thần, trước hết là chính sách tiền lương và nhà ở. Trên cơ sở khoa học, thực hiện tinh giảm biên chế, nâng cao năng suất chất lượng, hiệu quả lao động, chống tham nhũng, chống các biện pháp chạy chức, chạy chỗ, chạy quyền, chạy tội…. Cần đổi mới cơ bản chính sách đảm bảo lợi ích vật chất cho từng loại cán bộ, trước hết là trở thành một bộ phận cơ bản trong thu nhập của cán bộ, bảo đảm tái sản xuất mở rộng sức lao động. Đi đôi với khuyến khích lợi ích vật chất cấp ủy cần chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng cho cán bộ. Mục tiêu lý tưởng cách mạng là động lực to lớn để thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên của từng cán bộ nói chung và cán bộ cơ sở nói riêng. Trong công tác cán bộ từ quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bố trí, sử dụng, quản lý cán bộ đã được chú ý quan tâm, song chưa thực sự đi sâu vào nề nếp, còn chắp vá, nên kết quả thấp, nhất là cán bộ cấp cơ sở. 3. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ: – Một là, yếu tố quan trọng hàng đầu để kiện toàn, củng cố, xây dựng các tổ chức và tiến hành công tác cán bộ trong hệ thống chính trị vững mạnh, mỗi tổ chức phải nắm vững yêu cầu, nội dung các Nghị quyết của Trung ương, của tỉnh để tự đổi mới, tự chỉnh đốn đơn vị mình một cách thường xuyên, liên tục. – Hai là, các Đảng bộ phải làm tốt công tác quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt. Coi trọng việc xây dựng tập thể cấp ủy đoàn thể thống nhất, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu hoạt động theo quy chế. Người đứng đầu tổ chức, người chủ trì cấp ủy và thủ trưởng đơn vị phải gương mẫu có phẩm chất, năng lực, có khả năng quy tụ cán bộ, năng động sáng tạo phát huy dân chủ, khơi dậy, được trí tuệ của tập thể lãnh đạo và các thành viên. – Ba là, thực hiện đúng quy trình công tác cán bộ, đảm bảo vấn đề dân chủ hóa, công khai hóa, có quan điểm đánh giá đúng đắn, bố trí, sắp xếp cán bộ theo quy hoạch và theo yêu cầu của tổ chức phải huy động tốt năng lực cán bộ. Đi đôi với đào tạo và kiến thức các mặt theo yêu cầu quy hoạch và chuẩn hóa cán bộ, một điều quan trọng hàng đầu là phải luân chuyển, rèn luyện cán bộ trở thành từ thực tiễn và phong trào quần chúng mới đảm bảo chất lượng thực sự của đội ngũ cán bộ. – Bốn là, tiến hành biểu dương khen thưởng và giải quyết, xử lý tiêu cực trong nội bộ cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị kịp thời phát huy tối đa mặt tích cực, ưu điểm và sự chuyển biến. Trái lại, nếu để dây dưa, kéo dài chẳng những không phát huy được tính năng động sáng tạo còn làm thui chột tài năng cán bộ. 4. Yêu cầu trí tuệ hóa, chuyên gia hóa, văn hóa đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ nước ta ở thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện thế giới hiện đại đang cần đào tạo và đào tại lại cán bộ, đồng thời nó phải được đặt trong cơ chế quản lý luôn có sự kích thích vươn lên để có đủ phẩm chất năng lực đáp ứng yêu cầu xu thế trí tuệ hóa, chuyên gia hóa, văn hóa hóa ngày càng rõ, càng mạnh mẽ. Người cán bộ, dù là cán bộ ở ngành nghề nào đều phải có trình độ kiến thức, năng lực trí tuệ tốt, cuộc sống tư duy sáng tạo, nhạy bén, độc lập. Hiện nay, yêu cầu trí tuệ hóa ngày càng cao, nhưng do quy chế , quản lý giáo dục chưa tốt nên đã nảy sinh một xu hướng chạy theo bằng cấp, học vị, bằng mọi giá, mọi thủ đoạn để đạt được trình độ mà chất lượng không có. Do đó, yêu cầu trí tuệ hóa nó góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng đôi ngũ cán bộ nói chung và cán bộ chủ chốt nói riêng. Người cán bộ chủ chốt càng phải có trí tuệ hơn những người khác, có tài chỉ huy lãnh đạo, chỉ đạo cho cấp dưới thực hiện công việc của tổ chức mình. Trong thời kỳ này, một cán bộ có thể làm bất cứ việc gì, ở bất cứ ngành nào đã qua, cho nên xu hướng chung của thời đại là phải thực hiện chuyên gia hóa. Chuyên gia hóa phải đi đôi với trí tuệ hóa làm cho mỗi cán bộ trong từng lĩnh vực có được trình độ cao, có kiến thức và năng lực, trình độ chuyên môn tốt. Hiện nay, chúng ta đang rất thiếu các lực lượng chuyên gia, đầu đàn, nhóm năng lực chất lượng cao, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới nước nhà nên cần tăng nhanh số lượng cán bộ chuyên gia đầu ngành làm việc có chất lượng. Đó cũng là một việc quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp. Trong khi kinh tế thị trường hiện đại, văn hóa được coi như một giá trị nội sinh, nó làm cho giá trị kinh tế tăng lên. Người ta coi trọng chất lượng kiểu dáng, bao bì của sản phẩm, đồng thời cả chất lượng và hình thức cung cấp. Ai thực hiện được yêu cầu đó thì người đó sẽ giành thắng lợi trên thị trường. Văn hóa còn là hình thức ứng xử văn minh, nhân ái, dân chủ của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong mọi quan hệ. Yêu cầu văn hóa đòi hỏi người cán bộ phải có kiến thức liên ngành cần thiết, có hiểu biết vững chắc về lao động truyền thống văn hiến của dân tộc để giữ vững và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Cho nên, yêu cầu trí tuệ hóa, chuyên gia hóa, văn hóa hóa là yêu cầu rất quan trọng đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt, là những người cầm đầu, thủ lĩnh của một quốc gia thì phải có kiến thức toàn diện các lĩnh vực, có năng lực điều hành giải quyết, xử lý nhanh nhạy các tình huống thực tế diễn ra phải “giỏi một nghề, biết nhiều nghề”. 5. Yêu cầu bản lĩnh chính trị phẩm chất đạo đức Bản lĩnh chính trị là yêu cầu cơ bản nhất đối với người cán bộ. Đó là nhiệt tình cách mạng, lòng trung thành với lý tưởng của Đảng, với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,tinh thần tận tụy với công việc, hết lòng hết sức vì sự nghiệp của nhân dân, với bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu và con đường XHCN. Người cán bộ phải có đủ sứ, đủ tài phục vụ sự nghiệp cách mạng. 6. Thực hiện đồng bộ hóa và tiêu chuẩn hóa từng loại cán bộ. Đồng bộ hóa, trước hết là xây dựng một cơ cấu hợp lý, tinh giảm đến tối ưu hệ thống bộ máy và số lượng cán bộ. Xu hướng điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy tránh sự trùng lặp, chồng chéo về nhiệm vụ, chức năng để đạt hiệu quả quản lý tối ưu, là xu thế mới của thời đại. Chỉ trên cơ sở cấu trúc tối ưu của hệ thống tổ chức các ngành, các cấp, ta mới thực hiện được sự tinh giản số lượng cán bộ tránh bộ phận bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Quy luật tất yếu của các quốc gia, các thời đại là muốn có bước phát triển mới phải ưu tiên, coi trọng tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, cán bộ chủ chốt ở tầm chiến lược có thể quy lại thành ba nhóm sau: – Nhóm cán bộ lãnh đạo chương trình quốc gia – các chính sách – Nhóm cán bộ quản lý cấp vĩ mô – Nhóm chuyên gia, tham mưu cấp chiến lược ở ngành mỗi lĩnh vực. Cần xây dựng trên tiêu chuẩn và đưa ra các chính sách để những người ưu tú có điều kiện, có cơ hội tham gia vào các nhóm cán bộ chiến lược nói trên. Và chất lượng của nhóm cán bộ lãnh đạo chính trị quốc gia, các bộ phận quản lý và nhóm chuyên gia có tầm quan trọng quyết định. Vì vậy, cần phải tìm kiếm, bồi dưỡng và hình thành nhóm lãnh đạo và quản lý tài năng hay còn gọi chung là đội ngũ cán bộ chủ chốt, cốt cán của quốc gia. Việc thực hiện đồng bộ hóa về tiêu chuẩn hóa từng loại cán bộ là quan trọng, cần làm ngay để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của đất nước trong thời đại mới, thời đại văn minh và trí tuệ. 7. Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ : Phải cải cách hệ thống các chính sách đãi ngộ, khuyến khích cán bộ làm việc có hiệu quả và có chính sách đối với người tài, cải cách hệ thống bộ máy quản lý cán bộ. Đứng ở góc độ con người, đội ngũ cán bộ phải có đủ phẩm chất và năng lực để thích ứng với thời đại và nhiệm vụ mới.Chất lượng mới của đội ngũ cán bộ với đủ những tốt chất về đãi ngộ chính trị, về trí tuệ, đạo đức, nghề nghiệp, là vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay. Đứng ở góc độ vai trò sáng tạ lao động thì chính đội ngũ cán bộ là những người có trách nhiệm, có vai trò tiên phong tham gia sáng tạo ra nội dung của thời đại, tham gia thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà. Do đó yêu cầu cao và cụ thể đối với đội ngũ cán bộ là tất yếu. Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ phải được xem là tiền đề, là nhân tố cơ bản, đi đầu của sự phát triển và cần được ưu tiên.Đầu tư cho một chất lượng mới của đội ngũ cán bộ là đầu tư có hiệu quả nhất cho tương lai. ChươngIII: Một số giải pháp 1. Vận dụng sáng tạo nghị quyết Trung ương 3 khóa VII, nghị quyết trung ương 3 khóa VIII,nghị quyết trung ương 7 khóa VIII và nghị quyết của địa phương về cán bộ và công tác cán bộ trong thời kỳ mới. Xác định từng bước cụ thể hóa mục tiêu đổi mới, nâng cao chất lượng cán bộ trong thời kỳ mới, là cơ sở quan trọng chi phối toàn bộ hệ thống chính trị. Mục tiêu đó là: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp từ trung ương đến cơ sở bao gồm cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang, cán bộ khoa học chuyên gia, cán bộ quản lý kinh doanh, đặc biệt là cán bộ đứng đầu có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên lập trường giai cấp công nhân đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, đồng bộ về cơ cấu. Việc cán bộ nắm vững và vận dụng sáng tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng công tác cán bộ nhằm góp phần nâng cao đội ngũ cán bộ thống nhất từ trung ương đến cơ sở. 2. Nắm vững tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ nhằm xây dựng tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Tiêu chuẩn cán bộ là những quy định, những chuẩn mực được đặt ra phải đạt được, quy định về phẩm chát, năng lực của người cán bộ. Trên cơ sở đánh giá chất lượng cán bộ để bố trí, sử dụng cán bộ. Để thu hút vào bộ máy làng xã những thành phần đảm bảo lòng trung thành với chế độ và làm được việc, ở các nước và nước ta trước đây đã biết chọn những người được xem là ưu tú nhất trong cộng đồng làng xã thông qua hệ thống tiêu chuẩn cụ thể, trong đó rất chú trọng tới người học vấn cao của nền giáo dục đương thời, có phẩm chất trình độ, năng lực, kinh nghiệm và uy tín trước mọi người. Tiêu chuẩn cán bộ phải phù hợp với các chức năng trên từng lĩnh vực cụ thể. Trong đó, đức và tài không thể tách rời. Đức là gốc, tài là quan trọng.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan