BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
BÙI THỊ NGÁT
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC SỨC KHỎE
CỦA ĐIỀU DƯỠNG TẠI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN NAM TRỰC
TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2022
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
NAM ĐỊNH – 2022
iii
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
BÙI THỊ NGÁT
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC SỨC KHỎE
CỦA ĐIỀU DƯỠNG TẠI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN NAM TRỰC
TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2022
Chuyên ngành : Điều dưỡng Nội người lớn
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
TS.BS. NGÔ HUY HOÀNG
NAM ĐỊNH – 2022
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu
sắc nhất tới:
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo Trường Đại học
Điều dưỡng Nam Định đã quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu tại trường;
Tiến sĩ Ngô Huy Hoàng - Trường đại học Điều dưỡng Nam Định, thầy đã tận
tâm truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học quý báu, định
hướng và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề;
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới Ban Giám đốc Trung tâm y tế huyện
Nam Trực cùng các nhân viên y tế tại Khoa, phòng đã tạo điều kiện, quan tâm và
giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu; tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên, ủng hộ về mọi mặt để tôi có thể hoàn thành quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!
Nam Định, ngày 25 tháng 7 năm 2022
Học viên
Bùi Thị Ngát
iii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Bùi Thị Ngát, học viên lớp Chuyên khoa I khóa 9, Chuyên ngành Điều
dưỡng Nội người lớn, Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định xin cam đoan: Đây là
báo cáo chuyên đề của riêng tôi, do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của giảng
viên hướng dẫn, tất cả các số liệu trong báo cáo này chưa được công bố trong bất cứ
công trình nào khác.
Nếu có điều gì sai trái tôi xin hoàn toàn chịu tránh nhiệm !
Người cam đoan
Bùi Thị Ngát
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... iii
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT............................................................................... vi
DANH MỤC CÁC BẢNG ....................................................................................vii
ĐẶT VẤN ĐỀ ......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN...................................................... 3
1.1. Cơ sở lý luận..................................................................................................... 3
1.1.1. Giáo dục sức khỏe ...................................................................................... 3
1.1.2. Vai trò của điều dưỡng trong chăm sóc người bệnh.................................... 7
1.1.3. Vai trò của điều dưỡng trong giáo dục sức khỏe cho người bệnh ............. 11
1.2. Cơ sở thực tiễn................................................................................................ 12
Chương 2: MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT................................................. 15
2.1. Sơ lược về Trung tâm Y tế huyện Nam Trực................................................... 15
2.2. Thực trạng công tác giáo dục sức khỏe cho người bệnh của điều dưỡng tại Trung
tâm Y tế huyện Nam Trực ..................................................................................... 15
2.2.1. Thông tin chung về điều dưỡng tham gia khảo sát .................................... 16
2.2.2. Thực trạng công tác GDSK của điều dưỡng ............................................. 16
2.2.3. Phân tích những điểm mạnh, hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện công
tác GDSK của điều dưỡng tại Trung tâm Y tế huyện Nam Trực ......................... 20
Chương 3: BÀN LUẬN ......................................................................................... 22
3.1. Đối với Trung tâm Y tế huyện Nam Trực ......................................................... 22
3.2. Đối với Phòng điều dưỡng .............................................................................. 22
3.3. Đối với người điều dưỡng ............................................................................... 23
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 26
PHỤ LỤC .............................................................................................................. 28
iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BYT:
Bộ Y tế
CSSKBĐ:
Chăm sóc sức khỏe ban đầu
ĐTTC:
Điều trị tích cực
GDSK:
Giáo dục sức khỏe
HSCC:
Hồi sức cấp cứu
HĐNB:
Hội đồng người bệnh
NB:
Người bệnh
ĐD:
Điều dưỡng
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Đặc điểm chung của điều dưỡng
17
Bảng 2.2 Đánh giá chung kiến thức tư vấn- GDSK cho NB của ĐD
18
Bảng 2.3 Đánh giá chất lượng tư vấn GDSK của ĐD qua khảo sát người bệnh
18
Bảng 2.4 Thời điểm GDSK
19
Bảng 2.5 Địa điểm GDSK
20
Bảng 2.6 Phương pháp GDSK
20
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục sức khỏe đã được tuyên ngôn Alma - Ata (1978) coi như giải pháp
hàng đầu để thực hiện chiến lược toàn cầu "Sức khỏe cho mọi người đến năm 2000"
và vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Ngành Y tế Việt nam cũng đã đưa giáo
dục sức khỏe vào 1 trong 10 nội dung CSSKBĐ [1].
Giáo dục sức khỏe là một bộ phận công tác y tế quan trọng nhằm làm thay đổi
hành vi sức khỏe. Nó có vai trò to lớn trong việc góp phần bảo vệ và nâng cao sức
khỏe cho con người. Nếu giáo dục sức khỏe đạt hiệu quả, nó sẽ giúp làm giảm tỷ lệ
mắc bệnh, tỷ lệ tàn phế và tỷ lệ tử vong, nhất là ở các nước đang phát triển[1],[2].
Hiện nay, công tác giáo dục sức khỏe chưa thực sự quan tâm. Do đó đánh giá
thực trạng giáo dục sức khỏe cho người bệnh, đề xuất giải pháp nâng cao công tác giáo
dục sức khỏe cho người bệnh là thực sự cần thiết.
Công tác giáo dục sức khỏe của điều dưỡng cho người bệnh có vai trò rất quan
trọng, để làm tốt rất cần đến kiến thức và kỹ năng giáo dục sức khỏe của điều
dưỡng.Mặt khác điều dưỡng chiếm số đông trong nhân lực của bệnh viện và có nhiều
thời gian chăm sóc, tiếp xúc người bệnh trong quá trình nằm viện. Nếu làm tốt sẽ đạt
mục tiêu tăng cường chất lượng điều trị, tăng khả năng phục hồi và cải thiện chất lượng
cuộc sống cho người bệnh, giảm số lần nhập viện, tiết kiệm chi phí cho điều trị. Thay
đổi hành vi từ có hại sang có lợi, có kỹ năng yên tâm sống chung với bệnh. Nếu làm
không tốt, người bệnh không nhận thức đầy đủ về bệnh,không tuân thủ điều trị, không
thay đổi hành vi, kết quả điều trị không tốt, không cải thiện được chất lượng cuộc sống,
số lần nhập viện tăng, chi phí điều trị tăng, bệnh sẽ nặng lên có thể tử vong[6]. Công
tác giáo dục sức khỏe của Trung tâm Y tế huyện Nam Trực đã được sự quan tâm của
Đảng ủy, Ban giám đốc. Tuy nhiên, qua kết quả đánh giá công tác điều dưỡng năm
2021 của các khoa theo Bộ tiêu chí chất lượng bệnh viện Việt Nam của Bộ Y tế phiên
bản 2.0 với đánh giá theo 83 tiêu chíđã cho thấy công tác giáo dục sức khỏe còn nhiều
hạn chế, chỉ đạt mức 3/5.
Tại Trung tâm Y tế huyện Nam Trực chưa có chuyên đề, đề tài nào về công tác
giáo dục sức khỏe của điều dưỡng cho người bệnh. Được sự đồng ý của Trung tâm và
Hội đồng duyệt ý tưởng chuyên đề,nhằm xem xét tại sao công tác giáo dục sức khỏe
2
của điều dưỡng cho người bệnh còn hạn chế, để từ đó đề xuất giải pháp giúp điều
dưỡng thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục sức khỏe cho người bệnh để người bệnh thay
đổi hành vi có lợi cho sức khỏe. chúng tôi thực hiện chuyên đề“Thực trạng công tác
Giáo dục sức khỏe của Điều dưỡng tại Trung tâm Y tế huyện Nam Trực tỉnh Nam Định
năm 2022” với 2 mục tiêu như sau:
1. Mô tả thực trạng công tác giáo dục sức khỏe của Điều dưỡng tại Trung tâm
Y tế huyện Nam Trực tỉnh Nam Định năm 2022.
2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác giáo dục sức khỏe
của Điều dưỡng tại Trung tâm Y tế huyện Nam Trực tỉnh Nam Định.
3
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Giáo dục sức khỏe
-
Khái niệm
Giáo dục sức khoẻ (GDSK): là một quá trình tác động có mục đích và có kế
hoạch lên tình cảm và lý trí của con người nhằm tạo ra hành vi có lợi hoặc làm thay
đổi hành vi sức khỏe (từ có hại thành có lợi) cho cá nhân và cộng đồng [1].
Mục đích chủ yếu của GDSK là giúp cho đối tượng tự nguyện tự giác thay đổi
hành vi sức khỏe của chính mình.
Hành vi sức khỏe là hành vi con người có liên quan tới việc tạo ra sức khỏe tốt,
bảo vệ và phục hồi sức khỏe [1],[2],[15].
-
Tầm quan trọng của GDSK
GDSK là một bộ phận công tác y tế quan trọng nhằm làm thay đổi hành vi sức
khỏe. Nó có vai trò to lớn trong việc góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho con
người. Nếu GDSK đạt hiệu quả, nó sẽ giúp làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tàn phế và
tỷ lệ tử vong, nhất là ở các nước đang phát triển.
GDSK không thay thế được các công tác chăm sóc sức khỏe khác, nhưng GDSK
rất cần thiết để thúc đẩy những người sử dụng các dịch vụ y tế, cũng như thúc đẩy phát
triển các dịch vụ này.
Trong thực tế đã thấy rõ, nếu không làm tốt GDSK thì nhiều chương trình y tế sẽ đạt
kết quả thấp và không bền vững, thậm chí có nguy cơ thất bại.
So với các giải pháp dịch vụ y tế khác, GDSK là một công tác khó làm và khó
đánh giá kết quả, nhưng nếu làm tốt sẽ mang lại hiệu quả cao nhất với chi phí ít nhất,
nhất là ở tuyến y tế cơ sở.
Vì thế:
GDSK là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của hệ thống y tế, là một chức
năng nghề nghiệp bắt buộc của mọi cán bộ y tế và của mọi cơ quan y tế từTrung ương
đến cơ sở. Nó là một chỉ tiêu hoạt động quan trọng của một cơ sở y tế [11],[15].
-
Các phương pháp GDSK
Phương pháp GDSK trực tiếp[1],[2].
4
Phương pháp GDSK trực tiếp là phương pháp người GDSK trực tiếp tiếp xúc
với đối tượng GDSK.Đây là phương pháp tốt nhất, tiết kiệm nhất nhưng đạt hiệu quả
cao nhất đối với cá nhân, tập thể, cộng đồng. Người GDSK có thể nhanh chóng nhận
được các thông tin phản hồi từ đối tượng giáo dục nên tính điều chỉnh cao và có hiệu
quả tốt trong việc giúp đỡ đối tượng thay đổi hành vi.
Cách thức
+) Tư vấn trong GDSK:
Là một hình thức thường được sử dụng trong GDSK, đặc biệt đối với cá nhân
và gia đình.Trong tư vấn, người tư vấn cung cấp thông tin cho đối tượng, động viên
đối tượng suy nghĩ về vấn đề và chọn các hành động riêng để giải quyết vấn đề. Tư
vấn còn hỗ trợ tâm lý cho đối tượng khi họ hoang mang, lo sợ về vấn đề sức khỏe
nghiêm trọng khi họ chưa hiểu rõ chúng.
+) Nói chuyện phổ biến kiến thức y học thường thức:
Tổ chức các cuộc nói chuyện sức khỏe giúp mọi người trực tiếp được nghe
những thông tin mới nhất về các vấn đề sức khỏe liên quan tới cá nhân, gia đình và
cộng đồng nhằm giúp các đối tượng suy nghĩ và hướng tới việc thay đổi hành vi. Tuy
nhiên phương pháp này cần kết hợp các phương pháp và sự hỗ trợ khác.
Khi tổ chức một buổi nói chuyện cần làm các việc sau:
- Xác định rõ chủ đề nói chuyện và chỉ nên khu trú vào một chủ đề nhất định.
- Xác định đối tượng tham dự, ngày giờ, địa điểm và thông báo trước để họ chuẩn bị tới
dự (chọn thời gian và địa điểm thích hợp).
- Xác định nội dung cốt lõi cần trình bày.
- Xác định thứ tự trình bày.
- Chuẩn bị các phương tiện hỗ trợ thích hợp với chủ đề và thực tế tại địa phương.
Khi nói chuyện cần:
- Phải tôn trọng đối tượng.
- Xây dựng mối quan hệ với đối tượng trước khi nói chuyện.
- Nên sử dụng ngôn ngữ địa phương rõ ràng, mạch lạc.
- Cần kết hợp với tranh ảnh, mô hình và ví dụ minh họa.
- Cần bao quát, quan sát đối tượng để điều chỉnh, giải đáp thắc mắc đầy đủ khi đối tượng
yêu cầu.
5
- Kết thúc buổi nói chuyện cần tóm tắt những vấn đề mấu chốt nhất cho đối tượng dễ
nhớ.
+) Tổ chức thảo luận nhóm:
Rất có hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe ban đầu cũng như trong GDSK. Thảo
luận nhóm trong GDSK là ứng dụng nguyên lý "sự tham gia của cộng đồng" trong
CSSKBĐ. Một nhóm thảo luận tốt nhất là từ 6 - 10 người để tạo cơ hội cho tất cả các
thành viên có thể trình bày và thảo luận làm sáng tỏ những vấn đề chưa hiểu biết và
nêu ra các biện pháp giải quyết các vướng mắc của họ hay của cộng đồng trong đó có
họ sinh sống.
Các điểm cần thực hiện khi tổ chức thảo luận nhóm:
-
Xác định chủ đề, nội dung trọng tâm.
-
Xác định mục tiêu của thảo luận nhóm.
-
Xác định đối tượng mời vào thảo luận nhóm.
-
Cần chuẩn bị trước câu hỏi trọng tâm cho chủ đề thảo luận dựa trên những thông
tin phù hợp với tình hình thực tế.
Trong một số trường hợp, tư vấn cần đáp ứng nhu cầu bí mật cho các đối tượng
bị các bệnh xã hội có định kiến như bệnh lây qua đường tình dục.
+) Đối thoại trực tiếp giữa người làm GDSK với từng cá nhân trong lúc tiến
hành các dịch vụ y tế.
Phương pháp GDSK gián tiếp[1],[2]
GDSK gián tiếp là phương pháp giáo dục mà người giáo dục không trực tiếp
tiếp xúc với các đối tượng giáo dục, các nội dung giáo dục cần được chuyển tải qua
các phương tiện thông tin đại chúng.
Phương pháp này có tác dụng tốt khi chúng ta cung cấp, truyền bá các kiến thức
thông thường về bảo vệ và tăng cường sức khỏe cho quảng đại quần chúng nhân dân
một cách có hệ thống.Đó là phương pháp hiện nay vẫn được sử dụng khá rộng rãi trên
thế giới cũng như ở nước ta.
Phương pháp này kém hiệu quả và tốn kém, đòi hỏi kỹ thuật cao để vận hành sử dụng
các phương tiện thông tin đại chúng.
Các phương tiện đại chúng thường được sử dụng trong phương pháp GDSK gián
tiếp là:
6
-
Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, video.
-
Tạp trí, sách báo, tranh ảnh, tranh lật, tờ rơi.
-
Pano, áp phích.
-
Sách chuyên đề, sách hỏi đáp về sức khỏe bệnh tật.
-
Phương tiện GDSK [1],[2],[15]
Phương tiện GDSK là công cụ mà người GDSK sử dụng để thực hiện một
phương pháp GDSK và qua đó truyền đạt nội dung GDSK cho đối tượng phân loại các
phương tiện GDSK bao gồm:
Phương tiện bằng lời nói: Lời nói là công cụ sử dụng rộng rãi và rất hiệu quả
trong GDSK nhất là lời nói trực tiếp với đối tượng. Sử dụng lời nói có thể truyền tải
các nội dung GDSK một cách linh hoạt phù hợp với đối tượng. Lời nói rất tiện lợi và
mang lại hiệu quả cao, có thể sử dụng ở mọi nơi, mọi chỗ, với mọi người, với 1 gia
đình, 1 nhóm nhỏ, 1 cộng đồng... Lời nói có thể dùng trực tiếp hay gián tiếp, lời nói
còn được dùng để hỗ trợ, phối hợp với các phương tiện GDSK khác như tranh ảnh,
pano, áp phích, mô hình...Người nói nếu không nắm chắc được nội dung truyền đạt có
thể dẫn đến việc cung cấp thông tin không chính xác và gây hiểu lầm cho đối tượng
Phương tiện bằng chữ viết.
Phương tiện tác động qua thị giác (phương tiện GDSK trực quan) tranh, ảnh,
pano...
Phương tiện nghe, nhìn: ti vi, ...
-
Lựa chọn nội dung GDSK
Nội dung GDSK là những thông tin chính cần trao đổi với đối tượng GDSK
trong một thời gian nhất định.
Ví dụ: Nội dung GDSK về phòng chống một bệnh nào đó thường theo trình tự
sau:
+
Ảnh hưởng xấu do bệnh gây ra.
+
Tầm quan trọng của việc phòng chống bệnh đó.
+
Nguyên nhân của bệnh, đường lây truyền.
+
Cách phát hiện và xử trí thông thường tại nhà và các phương pháp phòng bệnh
thông thường khác [1],[2],[3].
7
1.1.2. Vai trò của điều dưỡng trong chăm sóc người bệnh
Cách đây hơn 100 năm, Florence Nightingale đã đưa ra một định nghĩa về ngành
Điều dưỡng: “Điều dưỡng là một hành động thiết thực bảo vệ môi trường xung quanh
người bệnh để giúp cho người bệnh bình phục”. Florence Nightingale đã đề cao vai trò
của công tác điều dưỡng, người điều dưỡng không những được huấn luyện để chăm
sóc bệnh nhận ốm đau mà còn được huấn luyện như những người nội trợ [15].
Thập niên 60, Virginia Henderson là một trong những người điều dưỡng đầu
tiên nêu ra định nghĩa điều dưỡng: “Chức năng của điều dưỡng là giúp đỡ các cá thể,
đau ốm hoặc khỏe mạnh, giúp họ cải thiện chất lượng cuộc sống và bình phục nhanh
chóng. Người điều dưỡng cần thiết phải có sức khỏe, thông minh, có kiến thức và có
phong thái làm việc càng nhanh càng tốt”.Henderson cho rằng, người điều dưỡng cần
phải chăm sóc người bệnh không kể họ ốm đau hay khỏe mạnh.Bà còn đề cập đến việc
giáo dục và ủng hộ vai trò của người điều dưỡng [15].
Năm 1984, Hội điều dưỡng Canada (Canadian Nurses Association) đã nêu một
định nghĩa về ngành Điều dưỡng: “Điều dưỡng nghĩa là phải chăm sóc người bệnh phù
hợp với bệnh tật của họ bao gồm cả việc luyện tập về tinh thần, chức năng và phục vụ
người bệnh trực tiếp hoặc gián tiếp, giúp cho người bệnh cải thiện sức khỏe, ngăn chặn
ốm đau, hòa nhập vào cộng đồng và xã hội”.
Bước sang thế kỷ XXI, ngành Điều dưỡng được xem như là một nghệ thuật, một
môn khoa học. Điều dưỡng là một ngành, nghề chăm sóc người bệnh. [15].
Chăm sóc đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phục hồi sức khỏe cũng
như toàn bộ những vấn đề khác của người bệnh, chính vì vậy ngay từ những năm 1950
Virginia Henderson đã nêu: chăm sóc phải thỏa mãn các nhu cầu vật chất, tâm lý, văn
hóa - xã hội và tinh thần của người bệnh. Dựa trên cơ sở nền tảng này, năm 1988
Danielsson và công sự đã nhận định “Về mặt nào đó công tác chăm sóc trùng hợp với
công tác điều trị đồng thời bổ sung cho công tác điều trị nhằm tập trung giải quyết
những vấn đề thể chất, tâm lý, xã hội và văn hóa cho người bệnh” [15].
Từ những quan điểm trên cho thấy để công tác chăm sóc mang đúng nghĩa của
nó và đảm bảo được chất lượng chăm sóc người bệnh góp phần nâng cao chất lượng
điều trị, từ đó tạo dựng niềm tin với người bệnh, nâng cao uy tín của bệnh viện thì công
tác chăm sóc người bệnh phải được thực hiện theo phương châm chăm sóc toàn diện
8
như chỉ thị của Bộ Y tế nhằm đưa chất lượng công tác chăm sóc người bệnh ở nước ta
đi dần vào nề nếp và đảm bảo hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới
[15].
Virginia Hendersson đưa ra định nghĩa về chức năng chăm sóc như sau: “Chức
năng đặc trưng nhất của người điều dưỡng là giúp đỡ những cá nhân ốm yếu thực hiện
những hoạt động của cơ thể mà họ không tự mình thực hiện được để góp phần cho sự
bảo vệ hoặc phục hồi sức khỏe hoặc nếu chết thì cũng được chết thanh thản. Thực hiện
nhiệm vụ này bằng một cách nào đó nhằm giúp người bệnh lấy lại được sự độc lập của
cơ thể càng nhanh càng tốt.Khía cạnh công việc này, phần chức năng này là do người
điều dưỡng chủ đồng thực hiện và tự điều khiển-về lĩnh vực này người điều dưỡng là
bậc thầy” [15].
Để thực hiện đầy đủ vai trò và chức năng nghề nghiệp của mình, trong công việc
hàng người người điều dưỡng cần phải thực hiện các chức năng:
- Chức năng phụ thuộc: đây là chức năng mà người điều dưỡng phải thực hiện những
y lệnh của bác sỹ như tiêm thuốc, phát thuốc, thay băng, …
- Chức năng độc lập: đây là chức năng đặc trưng của người điều dưỡng. Với chức
năng này người điều dưỡng phải tự mình thăm khám, nhận định về người bệnh để đưa
ra những chẩn đoán điều dưỡng rồi lập kế hoạch chăm sóc, thực hiện kế hoạch chăm
sóc đã đề ra rồi tự đánh giá sự thực hiện kế hoạch để có kế hoạch chăm sóc bệnh tiếp
theo.
- Chức năng phối hợp: để hoàn thành được chức năng này, người điều dưỡng cần
phải có sự liên hệ chặt chẽ với các nhân viên y tế khác như bác sỹ, kỹ thuật viên y, nhà
dinh dưỡng học, nhà tâm lý học, nhân viên y tế quản lý người bệnh ở tuyến cơ sở và
các nhân viên xã hội để thu thập thêm hoặc cung cấp những thông tin về người bệnh
hoặc yêu cầu sự giúp đỡ của những nhân viên đó để người bệnh được chăm sóc đầy
đủ và toàn diện hơn [15].
Đối với người bệnh, điều dưỡng phải đảm bảo những vai trò sau:
- Người chăm sóc: Đảm bảo những quy trình chăm sóc lâm sàng hoàn hảo.Mục tiêu
cơ bản của người điều dưỡng là thúc đẩy sự giao tiếp, hỗ trợ người bệnh bằng hành
động, bằng thái độ biểu thị sự quan tâm tới lợi ích của người bệnh. Mọi máy móc và
kỹ thuật hiện đại không thay thế được sự chăm sóc của người điều dưỡng vì các thiết
9
bị này sẽ không tác động được tới cảm xúc và điều chỉnh hành động cho thích ứng với
những nhu cầu đa dạng của mỗi người bệnh.
- Người truyền đạt thông tin:Người điều dưỡng thông tin với đồng nghiệp và các
thành viên khác trong nhóm chăm sóc về kế hoạch và việc thực hiện kế hoạch chăm
sóc cho mỗi người bệnh. Mỗi khi thực hiện một sự can thiệp về chăm sóc, người điều
dưỡng ghi chép vào hồ sơ những nhận xét và những thủ thuật đã thực hiện cũng như
sự đáp ứng của người bệnh. Người điều dưỡng thường xuyên giao tiếp cả bằng lời và
bằng ngôn ngữ viết mỗi khi bàn giao ca, mỗi khi chuyển người bệnh tới một khoa khác
hoặc khi người bệnh ra viện hay chuyển tới một cơ sở y tế khác.
- Người tư vấn: Tư vấn là quá trình giúp đỡ người bệnh nhận biết và đương đầu với
những căng thẳng về tâm lý bệnh tật hoặc những vấn đề xã hội, có kiến thức nâng cao
sức khỏe. Người điều dưỡng tập trung khuyến khích người bệnh có ý thức tự kiểm
soát. Tư vấn có thể thực hiện với một cá thể hoặc nhóm người và đòi hỏi người điều
dưỡng phải có kỹ năng để phân tích tình hình, tổng hợp thông tin, đánh giá quá trình
tiến triển của người bệnh sau khi đã được tư vấn. Người bệnh cần có thêm kiến thức
để tự theo dõi và chăm sóc nhằm rút ngắn ngày nằm viện.
- Người biện hộ cho người bệnh:Người biện hộ nghĩa là thúc đẩy những hành động
tốt đẹp nhất cho người bệnh, bảo đảm cho những nhu cầu của người bệnh được đáp
ứng. Ngoài ra, người điều dưỡng còn có vai trò là người lãnh đạo, người quản lý, người
làm công tác nghiên cứu điều dưỡng và là những chuyên gia giỏi về chăm sóc lâm sàng
[1].
Tại các nước phát triển như Anh, Mỹ, Canada... cũng như các nước đang phát
triển như Thái Lan, Philippines, Malaysia... điều dưỡng viên đã được nâng cao vai trò
trong việc quản lý các cơ sở y tế ban đầu, bệnh viện, đội chăm sóc sức khỏe, tham gia
khám và điều trị – chăm sóc các bệnh cấp và mạn tính theo chuyên ngành của điều
dưỡng và có mặt trong hầu hết các lĩnh vực khác và là nghề đang được kính trọng hiện
nay [15].
Trước năm 1990, ở Việt Nam người điều dưỡng có tên gọi Y tá với chức năng
phụ thuộc và vai trò phụ giúp, thực hiện y lệnh của thầy thuốc là chính. Họ được đào
tạo ngắn hạn dưới một năm, làm theo phương pháp cầm tay chỉ việc. Hiện nay, Việt
Nam đang thực hiện nâng cao chương trình đào tạo điều dưỡng với đội ngũ Điều dưỡng
10
cao đẳng (3 năm), cử nhân Điều dưỡng (4 năm), thạc sĩ Điều dưỡng và Điều dưỡng
chuyên khoa I (2 năm). Năm 2000, ngành Điều dưỡng Việt Nam đã hình thành được
hệ thống quản lý điều dưỡng ở các cấp. Có 65% Sở Y tế các tỉnh đã bổ nhiệm điều
dưỡng trưởng, 84,7% các bệnh viện có Phòng điều dưỡng, công tác đào tạo điều dưỡng
đã nâng lên ở trình độ cao đẳng và đại học. Thực hành điều dưỡng đang có chuyển
biến thông qua thực hiện chăm sóc người bệnh toàn diện, vị trí xã hội của người điều
dưỡng đã được nhìn nhận [15].
Tuy nhiên, hiện tại ở nước ta, cứ 1 bác sĩ thì có 1,8 điều dưỡng, trong khi tỷ lệ tối
thiểu mà Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo là 1 bác sĩ / 4 điều dưỡng. Tỷ lệ này ở Việt
Nam thấp nhất trong khu vực Đông Nam Á. Thiếu người, trình độ chưa cao, áp lực
công việc lớn cũng là yếu tố làm ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc người bệnh trong
bệnh viện hiện nay [15]
Chăm sóc sức khỏe nhân dân là sứ mệnh cao cả của người làm công tác y tế, bệnh
viện là môi trường để nhân viên y tế thực hiện nhiệm vụ cao cả này.Điều dưỡng là lực
lượng nhân viên y tế đông nhất trong bệnh viện và cũng là những người thường xuyên
tiếp xúc với người bệnh. Bởi đơn giản, không chỉ là người thực hiện y lệnh của bác sĩ,
người điều dưỡng còn hàng ngày, hàng giờ tiếp xúc với người bệnh; là người trực tiếp
chăm sóc, điều trị, tư vấn sức khỏe cho người bệnh. Yêu cầu cần phải có của người
điều dưỡng không dừng lại ở trình độ chuyên môn tốt mà quan trọng hơn là phải có
văn hóa ứng xử. Thái độ, cách ứng xử của người điều dưỡng là “liều thuốc tinh thần”
quan trọng với mỗi người bệnh… Người điều dưỡng có vai trò quan trọng và ảnh
hưởng lớn trong hệ thống chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng cho người bệnh và
trong việc nâng cao sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật cho người bệnh khi rời khỏi bệnh
viện.Như vậy, nâng cao chất lượng chăm sóc toàn diện cho người bệnh cũng chính là
nâng cao năng lực cho điều dưỡng.Điều dưỡng là lực lượng chính mang dịch vụ chăm
sóc sức khỏe tới cộng đồng. Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá dịch vụ chăm sóc sức khỏe
do người điều dưỡng, hộ sinh cung cấp là trụ cột của hệ thống y tế [1].
Để làm tốt công tác, người điều dưỡng cần có những kỹ năng: Có kiến thức
chuyên môn tốt, cập nhật kiến thức mới; Kỹ năng giao tiếp tốt; Kỹ năng tư vấn – giáo
dục sức khỏe tốt; Có lòng nhiệt tình, đạo đức nghề nghiệp.
11
Nâng cao kỹ năng GDSK cho người điều dưỡng cũng chính là nâng cao chất
lượng nguồn lực điều dưỡng, hoàn thiện công tác chăm sóc người bệnh toàn diện.Đây
cũng là một nhu cầu cấp thiết của ngành Y tế để đáp ứng được mục tiêu chiến lược
trong công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân.
Với các ý nghĩa trên, GDSK giữ vai trò quan trọng và là một bộ phận hữu cơ,
không thể tách rời của hệ thống y tế, là một chức năng nghề nghiệp bắt buộc của điều
dưỡng, của mọi cán bộ y tế và của mọi cơ quan y tế từ trung ương đến cơ sở. Kỹ năng
GDSK cũng là một trong những tố chất cơ bản giúp người điều dưỡng thực thi chức
năng, nhiệm vụ của mình[1].
1.1.3. Vai trò của điều dưỡng trong giáo dục sức khỏe cho người bệnh
Chức năng nhiệm vụ chính của công tác điều dưỡng là chăm sóc người bệnh.
Để nâng cao chất lượng chăm sóc người bệnh và tăng cường sự hài lòng người bệnh
thì điều dưỡng phải thực hiện tốt 12 nhiệm vụ của điều dưỡng được qui đinh tại thông
tư 31/2021 của BYT hướng dẫn công tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh trong
bệnh viện. Trong đó, tư vấn GDSK một trong những can thiệp chăm sóc điều dưỡng
có vai trò to lớn trong việc góp phần bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho con người. Nếu
GDSK đạt hiệu quả nó sẽ giúp làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tàn phế và tỷ lệ tử vong.
Điều dưỡng chiếm hơn 50% trong tổng số nhân lực của Trung tâm và có nhiều
thời gian tiếp xúc với người bệnh từ khi mới vào viện đến khi ra viện. Do đó vai trò
của GDSK trong công tác điều dưỡng là rất quan trọng, nếu điều dưỡng làm tốt giúp
người bệnh thay đổi hành vi từ có hại sang có lợi, góp phần nâng cao chất lượng chăm
sóc, điều trị và tăng cường sự hài lòng người bệnh [3].
-
Giáo dục sức khỏe cho người bệnh
GDSK nhằm giúp người bệnh hiểu rõ về bản chất của bệnh, các yếu tố nguy cơ
cho sự tiến triển của căn bệnh, vai trò của người bệnh trong việc đạt đến kết quả điều
trị tối ưu.
GDSK giúp cải thiện tỉ lệ người bệnh tuân thủ điều trị: dùng thuốc đều đặn,
luyện tập vận động đều đặn, duy trì tình trạng dinh dưỡng ổn định.
Loại hình GDSK: phân phát các tài liệu in ấn, tổ chức các buổi trình bày có
minh họa bằng hình ảnh và tài liệu phát tay, thảo luận trong nhóm nhỏ giúp hiểu rõ nội
dung thông tin, trao đổi kinh nghiệm.
12
Các nội dung giáo dục sức khỏe: Sinh bệnh học bệnh, kỹ năng sử dụng thuốc,
hướng dẫn về dinh dưỡng, nhận biết và xử trí các dấu hiệu cảnh báo dấu hiệu nặng,
cách vệ sinh.
-
Kỹ thuật sử dụng thuốc
+ Có vai trò rất quan trọng giúp tuân thủ điều trị.
+ Ưu khuyết điểm của từng dạng thuốc
+ Hướng dẫn chi tiết, có hình ảnh minh họa, có thực hành.
-
Các dấu hiệu cảnh báo tiến triển nặng:
+ Giúp người bệnh nhận biết sớm nhất khi có các triệu chứng khởi đầu.
+ Có thái độ và cách xử trí thích hợp
+ Giảm bớt di chứng, tỷ lệ tử vong
+ Giảm bớt số lần nhập viện, thời gian nằm viện và chi phí y tế.
+ Giúp người bệnh lựa chọn môi trường.
+ Sống chung với di chứng bệnh với chất lượng cuộc sống tốt.
+ Hướng dẫn chi tiết và chu đáo những vấn đề trong đời sống hàng ngày, bao gồm
cả đời sống tinh thần [5].
-
Biện pháp phòng bệnh
-
Thực hiện tiêm phòng
-
Lựa chọn thực phẩm
1.2. Cơ sở thực tiễn
Đã có nhiều nghiên cứu về chăm sóc người bệnh tập trung vào một hoặc nhiều
nội dung liên quan đến tật kiến thức, thái độ, hành vi liên quan đến tình trạngbệnh
hoặc tuân thủ điều trị và phòng bệnh.Gần đây cũng có nhiều nghiên cứu về các hoạt
động chăm sóc người bệnh theo tình trạng bệnh. Song thực tế cho thấy đánh giá trực
tiếp và cụ thể công tác giáo dục sức khoẻ của điều dưỡng còn chưa được chú trọng
nhiều và hoạt động này cơ bản chỉ dừng lại ở mức là một phần của hoạt động kiểm tra
công tác chăm sóc điều trị nói chung hoặc trong các đợt kiểm tra đánh giá chung chất
lượng bệnh viện.
Với sự nỗ lực tìm hiểu và tổng quan các tài liệu hiện có chúng tôi ghi nhận một
số thực trạng về công tác giáo dục sức khoẻ của điều dưỡng cho người bệnh dưới đây:
- Xem thêm -