i
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...............................................................................................................i
LỜI CAM ĐOAN........................................................................................................ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................................iii
DANH MỤC CÁC BẢNG........................................................................................iv
ĐẶT VẤN ĐỀ.............................................................................................................1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN.......................................................3
1.1.
Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vệ sinh tay thường quy............................3
1.2.
Sự liên quan về thực hành vệ sinh tay và nhiễm khuẩn bệnh viện.......................4
1.2.1.
Phổ vi khuẩn trên bàn tay...................................................................................4
1.2.2.
Tầm quan trọng của vệ sinh tay thường quy......................................................5
1.2.3.
Nhiễm khuẩn bệnh viện.....................................................................................6
1.2.4.
Mối liên qua giữa vệ sinh tay và nhiễm khuẩn bệnh viện..................................10
1.3.
Nội dung thực hành vệ sinh tay..........................................................................10
1.3.1.
Chỉ định và thời điểm vệ sinh tay thường quy................................................10
1.3.2.
Phương tiện vệ sinh tay thường quy................................................................11
1.3.3.
Quy trình( kỹ thuật) vệ sinh tay thường quy...................................................13
1.4.
Một số yếu tố liên qua tới việc tuân thủ vệ sinh tay ở nhân viên y tế................15
1.4.1.
Các yếu tố nhận biết được qua giám sát trực tiếp...........................................15
1.4.2.
Các yếu tố phát hiện được qua phỏng vấn cán bộ y tế....................................16
1.5.
Tình hình tuân thủ vệ sinh tay ở nhân viên y tế..................................................17
Chương 2 . MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT.................................................18
2.1. Một số thông tin khái quát về Bệnh viện Y dược Cổ truyền Quảng Ninh........18
2.2 Mô tả thực trạng tuân thủ vệ sinh tay thường quy của nhân viên y tế tại Bệnh viện Y dược
cổ truyền Quảng Ninh năm 2022..........................................................................................18
Chương 3: BÀN LUẬN............................................................................................30
3.1. Mô tả thực trạng tuân thủ vệ sinh tay thường quy của nhân viên y tế tại Bệnh
viện Y dược cổ truyền Quảng Ninh năm 2022.........................................................30
3.2.Đề xuất một số giải pháp cải thiện tuân thủ vệ sinh tay thường quy của nhân
viên y tế tại Bệnh viện Y học cổ truyền Quảng Ninh..............................................33
KẾT LUẬN.......................................................................................................35
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP.............................................................................................36
TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CB
Cán bộ
CBYT
Cán bộ y tế
ĐD
Điều dưỡng
ĐTV
Điều tra viên
KBCB
Khám bệnh chữa bệnh
VST
Vệ sinh tay
KSNK
Kiểm soát nhiễm khuẩn
KTV
Kĩ thuật viên
NB
Người bệnh
TCYTTG
Tổ chức Y tế thế giới
NKBV
Nhiễm khuẩn bệnh viện
NVYT
Nhân viên y tế
VSTTQ
Vệ sinh tay thường quy
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Phân bố số NVYT theo đặc điểm chung của NVYT..................................20
Bảng 2.2. Số lượng cơ hội vệ sinh tay thường quy của NVYT..................................22
Bảng 2.3. Tỉ lệ tuân thủ vệ sinh tay chung..................................................................21
Bảng 2.4. Phân bố phương tiện vệ sinh tay................................................................ 22
Bảng 2.5. Tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay theo thời điểm.................................................... 24
Bảng 2.6. Phân bố tuân thủ vệ sinh tay thường quy theo giới tính..............................25
Bảng 2.7. Phân bố tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay thường quy theo nghề nghiệp...............25
Bảng 2.8. Phân bố tuân thủ vệ sinh tay thường quy theo nơi làm việc.......................26
Bảng 2.9. Tỷ lệ sử dụng găng đúng chỉ định trong chăm sóc bệnh nhân..................27
Bảng 2.10. Tuân thủ về quy trình vệ sinh tay thường quy của Nhân viên y tế.........27
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) là các
nhiễm khuẩn xuất hiện sau 48 giờ kể từ khi người bệnh ( NB) nhập viện và không hiện
diện cũng như không có ở giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện. NKBV thường do các
chủng vi khuẩn đa kháng thuốc gây bệnh như: tụ cầu vàng kháng methicilin, cầu khuẩn
đường ruột kháng vancomycin, trực khuẩn gram âm sinh men β-lactamase phổ rộng.
NKBV hay còn gọi là nhiễm khuẩn liên quan tới chăm sóc y tế (Healthcare
Associated Infection - HAI) đang là vấn đề y tế toàn cầu do làm tăng tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ
tử vong, kéo dài ngày nằm viện và tăng chi phí điều trị. NKBV là một trong những thách
thức và mối quan tâm rất lớn tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Theo thống kê, tỷ lệ
NKBV chiếm khoảng 5 - 10% ở các nước phát triển và 15 - 20% ở các nước đang phát
triển[1]. Tại Việt Nam, năm 2014 theo nghiên cứu tại các bệnh viện cho thấy tỷ lệ nhiễm
khuẩn bệnh viện là 2,5%, nhiễm trùng vết mổ trên những người bệnh có phẫu thuật chiếm
từ 2,5% – 8,45% và viêm phổi bệnh viện trên các người bệnh có thở máy từ 40% –
50%[2]. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới chính NB, gia đình và xã hội, có thể làm
nặng thêm tình trạng bệnh, tăng tỷ lệ tử vong, tăng chi phí cho y tế đồng thời ảnh hưởng
đến uy tín và tăng gánh nặng cho các cơ sở y tế[3].
Có nhiều yếu tố gây ảnh hưởng NKBV như: môi trường ô nhiễm, bệnh truyền nhiễm,
xử lý dụng cụ, các thủ thuật xâm lấn nhưng nhiễm bẩn bàn tay của nhân viên y tế (NVYT) là
một mắt xích quan trọng trong dây truyền NKBV.
Kiểm soát nhiễm khuẩn (KSNK) là việc áp dụng đồng bộ các biện pháp nhằm ngăn
ngừa sự lan truyền các tác nhân gây nhiễm khuẩn trong thực hành khám bệnh, chữa bệnh
(KBCB), là nội dung quan trọng nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc NB tại các cơ sở
KBCB. Trong các biện pháp KSNK, vệ sinh tay (VST) từ lâu luôn được coi là biện pháp
đơn giản và hiệu quả nhất, không chỉ trong chăm sóc NB mà ngay cả ở cộng đồng khi đang
phải đối mặt với nhiều bệnh dịch nguy hiểm xảy ra trên diện rộng như dịch tả, cúm A
(H5N1, H1N1), và đặc biệt hơn là dịch COVID 19 đang diễn biến phức tạp như hiện nay…
Vệ sinh tay thường quy (VSTTQ) trước và sau khi tiếp xúc với mỗi NB luôn được coi là
biện pháp đơn giản và hiệu quả nhất trong phòng ngừa NKBV. Tỷ lệ NKBV là một trong
những chỉ số quan trọng phản ánh chất lượng chuyên môn của bệnh viện, liên quan đến sự
an toàn của NB và NVYT, vì thế mang tính nhạy cảm về phương diện xã hội[4]. Một trong
số những nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng NKBV là việc tuân thủ của NVYT về
VSTTQ còn hạn chế.
Tuân thủ về VSTTQ có ảnh hưởng rất lớn trong việc hạn chế NKBV, hạ thấp tỷ lệ
nhiễm trùng vết mổ, tỷ lệ lây chéo trong điều trị, giảm tỷ lệ tử vong và tiết kiệm chi phí
điều trị, chi phí chăm sóc và chi phí cơ hội chung của gia đình và xã hội.
Bệnh viện Y dược cổ truyền tỉnh Quảng Ninh là một trong những bệnh viện lớn của
tỉnh về chăm sóc và điều trị bệnh nhân bằng các phương pháp y dược cổ truyền kết hợp y
học hiện đại, có chức năng khám, cấp cứu, điều trị và phòng bệnh, mỗi ngày bệnh viện tiếp
nhận rất nhiều NB đến khám, điều trị tại viện…Điều này đồng nghĩa với tần suất chăm sóc
và thăm khám của NVYT trên người bệnh rất nhiều, vì vậy khi NVYT thực hành tốt
VSTTQ sẽ làm giảm nguy cơ NKBV. Bệnh viện đã và đang triển khai các chương trình
VST theo hướng dẫn của Bộ Y tế, tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá khảo sát
về thực trạng tuân thủ VST của NVYT tại bệnh viện. Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng vệ sinh tay thường quy của nhân viên y tế tại
Bệnh viện Y dược cổ truyền tỉnh Quảng Ninh năm 2022”
MỤC TIÊU
1. Mô tả thực trạng tuân thủ vệ sinh tay thường quy của nhân viên y tế tại Bệnh
viện Y dược cổ truyền tỉnh Quảng Ninh năm 2022.
2. Đề xuất một số giải pháp tăng cường tuân thủ vệ sinh tay thường quy của
nhân viên y tế tại Bệnh viện Y dược cổ truyền tỉnh Quảng Ninh.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vệ sinh tay thường quy
Vệ sinh tay(hand hygiene): là làm sạch tay bằng nước với xà phòng có hay không
có chất sát khuẩn và sát khuẩn tay với dung dịch có chứa cồn. Theo WHO (2009) VST là
nền tảng trong việc phòng chống nhiễm trùng và KSNK [3].
Rửa tay(Hand washing): là rửa tay với nước và xà phòng.
Rửa tay khử khuẩn(Antiseptic handwash):: là rửa tay với nước và xà
phòng khử khuẩn.
Chà tay khử khuẩn(Antiseptic handrub): Là chà toàn bộ bàn tay bằng dung dịch vệ
sinh tay chứa cồn (không dùng nước) nhằm làm giảm lượng vi khuẩn có trên bàn tay.
Những chế phẩm vệ sinh tay chứa cồn thường chứa 60% đến 90% cồn ethanol hoặc
isopropanol hoặc kết hợp các loại cồn trên với một chất khử khuẩn khác.
Xà phòng khử khuẩn(Antimicrobial soap): Là xà phòng ở dạng bánh
hoặc dung dịch có chứa chất khử khuẩn.
Xà phòng thường (Normal/Plain soap): Là hợp chất có hoạt tính làm sạch,
không chứa chất khử khuẩn.
Dung dịch vệ sinh tay chứa cồn (Alcohol-based handrub): Là chế phẩm vệ sinh
tay dạng dung dịch, dạng gel hoặc dạng bọt chứa cồn isopropanol, ethanol hoặc npropanol, hoặc kết hợp hai trong những thành phần này hoặc với một chất khử
khuẩn và được bổ sung chất làm
ẩm dưỡng da, được sử dụng bằng cách chà tay cho tới khi cồn bay hơi hết, không sử dụng
nước.
Vệ sinh tay ngoại khoa (Surgical hand hygiene): Là rửa tay khử khuẩn
hoặc chà tay khử khuẩn được kíp phẫu thuật thực hiện trước mọi phẫu thuật
nhằm loại bỏ phổ vi khuẩn vãng lai và định cư trên tay (từ bàn tay tới khuỷu tay).
Phổ vi khuẩn vãng lai (Transient flora): Là các vi khuẩn ở bề mặt da tay,
chủ yếu do ô nhiễm khi tay tiếp xúc với NB và bề mặt môi trường, dễ dàng loại bỏ bằng
VSTTQ.
Phổ vi khuẩn định cư (Resident flora): Là các vi khuẩn tồn tại và phát
triển trong tế bào biểu bì da tay, đồng thời cũng thấy ở bề mặt da tay và được loại bỏ (diệt
khuẩn) bằng VST ngoại khoa.
Vùng kề cận NB (Patient zone): Là vùng xung quanh NB như: giường bệnh, bàn,
ga trải giường, các dụng cụ thiết bị trực tiếp phục vụ NB. Vùng kề cận NB thường ô nhiễm
các vi sinh vật có từ NB.
Tuân thủ vệ sinh tay trong nghiên cứu này là: rửa tay với nước và xà phòng hoặc
dung dịch sát khuẩn tay chứa cồn/ cồn tại các thời điểm cần VST.
1.1.2 Phổ vi khuẩn trên bàn tay
Năm 1938, Price P.B chia vi khuẩn trên da bàn tay làm 2 nhóm: Vi khuẩn vãng lai
và vi khuẩn định cư.
Vi khuẩn định cư: Gồm các cầu khuẩn gram (+): S. epidermidis, S. aurers,
S. hominis, v.v. và các vi khuẩn gram (-): Acinetobacter, Enterobacter... Các vi khuẩn gram
(-) thường chiếm tỷ lệ cao ở tay NVYT thuộc đơn vị hồi sức cấp cứu, đặc biệt ở những
người VST dưới 8 lần/ngày. Phổ vi khuẩn định cư thường cư trú ở lớp sâu của biểu bì da.
VST thường quy không loại bỏ được các vi khuẩn này khỏi bàn tay nhưng VST thường
xuyên có thể làm giảm mức độ định cư của vi khuẩn trên tay. Để loại bỏ các vi khuẩn này
trên da tay trong VST ngoại khoa, các thành viên kíp phẫu thuật cần VST bằng dung dịch
VST chứa cồn hoặc dung dịch xà phòng chứa chlorhexidine 4% trong thời gian tối thiểu 3
phút.
Vi khuẩn vãng lai: Loại vi khuẩn này gồm các vi khuẩn trên da NB hoặc trên các bề
mặt môi trường bệnh viện (chăn, ga giường, dụng cụ phương tiện phục vụ NB) và làm ô
nhiễm bàn tay trong quá trình chăm sóc và điều trị. Mức độ ô nhiễm bàn tay phụ thuộc
vào loại thao tác sạch/bẩn, thời gian thực hiện thao tác và tần suất VST của NVYT.
Phổ vi khuẩn vãng lai là thủ phạm chính gây NKBV, tuy nhiên phổ vi
khuẩn này có thể loại bỏ dễ dàng bằng VST thường quy (rửa tay với nước và xà
phòng thường hoặc chà tay bằng dung dịch VST chứa cồn trong thời gian
20 giây-30
giây). Do vậy, VST trước và sau tiếp xúc với mỗi NB là biện pháp quan trọng nhất trong
phòng ngừa NKBV. VST trước phẫu thuật cần loại bỏ cả hai phổ vi khuẩn vãng lai và
định cư, do vậy cần áp dụng quy trình VST ngoại khoa.
1.1.3 Tầm quan trọng của vệ sinh tay thường quy
NVYT hàng ngày dùng bàn tay là công cụ để khám chữa bệnh và chăm sóc người
bệnh, do đó bàn tay của NVYT thường xuyên tiếp xúc với da, máu, dịch tiết sinh học, dịch
tiết của người bệnh. Các vi khuẩn gây bệnh từ bệnh nhân truyền qua tay của NVYT, làm
cho bàn tay của NVYT là nguồn chứa các vi khuẩn gây bệnh tiềm năng. 5 bước bàn tay
phát tán mầm bệnh:
- Mầm bệnh định cư trên da người bệnh và bề mặt các đồ vật.
- Mầm bệnh bám vào da tay của NVYT.
- Mầm bệnh sống trên da tay.
- Vệ sinh tay ít dẫn đến da tay nhiễm khuẩn.
- Da tay nhiễm khuẩn phát tán mầm bệnh sang người bệnh, đồ vật.
Nhiều nghiên cứu cũng khẳng định VSTTQ bằng dung dịch có chứa cồn là biện
pháp quan trọng nhất để dự phòng sự lây truyền tác nhân gây bệnh trong các cơ sở y tế.
Một nghiên cứu ở Thụy Sỹ từ năm 1994 đến năm 1997 trên
20.000 cơ hội VST của NVYT tại bệnh viện Geneva đã cho thấy: Khi tỷ lệ tuân thủ VST
của NVYT tăng từ 48% (1994) lên 66% (1997) thì tỷ lệ NKBV giảm từ 16,9% (1994)
xuống còn 6,9% (1997). Tại Việt Nam, can thiệp làm tăng sự tuân thủ VST của NVYT
cũng mang lại hiệu quả tích cực trong việc làm giảm tỷ lệ NKBV từ 17,1% trước can thiệp
xuống còn 4,8% sau can thiệp [4].
Đánh giá được tầm quan trọng của VSTTQ trong việc phòng ngừa và giảm bớt tỷ
lệ NKBV, từ năm 1996 Bộ Y Tế đã ban hành Quy trình VSTTQ có minh họa bằng hình
ảnh. Năm 2009, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư 18/2009/TT - BYT: “Hướng dẫn tổ chức
thực hiện công tác KSNK tại các cơ sở khám chữa bệnh” [5]. Ban hành theo Quyết định
số: 3916/QĐ-BYT ngày 28/8/2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế).
1.1.4 Chỉ định và thời điểm vệ sinh tay thường quy.
* Thời điểm:Mọi đối tượng trực tiếp chăm sóc NB cần rửa tay bằng nước và xà
phòng thường hoặc chà tay bằng dung dịch VST chứa cồn vào những thời điểm
sau:
- Trước khi tiếp xúc trực tiếp với mỗi NB.
- Trước khi thực hiện mỗi thủ thuật sạch/vô khuẩn.
- Ngay sau mỗi khi tiếp xúc với máu, dịch cơ thể.
- Sau khi tiếp xúc trực tiếp với mỗi NB.
- Sau tiếp xúc với bề mặt đồ dùng, vật dụng trong buồng bệnh.
Ngoài ra, các thời điểm chăm sóc sau cũng cần VST:
- Khi chuyển từ chăm sóc bẩn sang chăm sóc sạch trên cùng người bệnh.
- Trước khi mang găng và sau khi tháo găng.
- Trước khi vào buồng bệnh và sau khi ra khỏi buồng bệnh.
Mọi NVYT trong buồng phẫu thuật không trực tiếp động chạm vào NB (phụ mê, chạy
ngoài, học viên…) phải VST trước khi vào buồng phẫu thuật. Trong buồng phẫu thuật, bất
kỳ khi nào bàn tay chạm vào bề mặt thiết bị phương tiện phải VST ngay bằng dung dịch VST
chứa cồn.
- NVYT khi làm việc trong buồng xét nghiệm cần tuân thủ nghiêm thời
điểm 3 và 5 về VST để phòng ngừa lây nhiễm cho bản thân.
*Chỉ định
- Thực hiện kỹ thuật VST với nước và xà phòng khi tay nhìn thấy vấy bẩn
bằng mắt thường hoặc sau khi tiếp xúc với máu và dịch tiết.
- VST bằng dung dịch có chứa cồn khi tay không thấy bẩn bằng mắt thường.
- Phải đảm bảo tay luôn khô hoàn toàn trước khi bắt đầu hoạt động chăm sóc
NB.
1.1.5 Phương tiện vệ sinh tay thường quy
* Hóa chất vệ sinh tay.
- Xà phòng thường: Dạng bánh hoặc dạng dung dịch không chứa tác nhân
diệt khuẩn.
- Dung dịch VST chứa cồn (isopropanol, ethanol, n-propanol hoặc kết hợp
hai trong các thành phần này hoặc kết hợp với 1 chất khử khuẩn).
Mọi hóa chất VST sử dụng trong y tế phải được Bộ Y tế cấp phép sử dụng. Các
hóa chất VST cần có chất làm ẩm da hoặc chất dưỡng da. Bình cấp hóa chất VST cần
kín, có bơm định lượng tự động hoặc bằng cần gạt hoạt động tốt, có nhãn ghi rõ loại dung
dịch VST và còn hạn sử dụng, được gắn tại các vị trí thuận lợi cho người sử dụng. Hạn chế
sử dụng xà phòng dạng bánh, nếu sử dụng thì cần lựa chọn loại bánh nhỏ, để trong giá
đựng có nắp đậy kín và có lỗ thoát nước.
* Bồn rửa tay
Bồn rửa tay thường quy: Vòi cấp nước có cần gạt hoặc khóa vặn hoạt
động tốt; bồn sạch, quanh bồn không để phương tiện, đồ vật khác.
* Nước rửa tay
Nước rửa tay thường quy: Nước sạch (ví dụ nước máy đạt tiêu quy chuẩn Quốc gia
về nước sinh hoạt QCVN 02: 2009/BYT được cấp qua vòi có khóa hoạt động tốt).
* Khăn lau tay
Khăn lau tay cho rửa tay thường quy: Khăn sạch sợi bông hoặc khăn giấy sử dụng
một lần. Nếu là khăn sợi bông, cần giặt khử khuẩn sau mỗi lần sử dụng, được đựng trong
hộp cấp khăn kín tại mỗi điểm rửa tay.
* Trang bị phương tiện vệ sinh tay
Phương tiện VST thường quy phải luôn có sẵn ở mọi buồng phẫu thuật, thủ thuật,
mọi khu vực chăm sóc NB, khu hành chính, khu tiếp đón NB và các buồng vệ sinh. Tại các
khu vực có nguy cơ lây nhiễm cao, các giường NB nặng, xe tiêm, xe thủ thuật, buồng
phẫu thuật, thủ thuật cần được trang bị dung dịch VST tay chứa cồn. Các buồng thủ thuật,
buồng hành chính, buồng NB nặng, khu tiếp đón NB và khu vệ sinh phải có bồn rửa tay.
Tại mỗi bồn rửa tay thường quy, ngoài xà phòng thường rửa tay cần trang bị đồng
bộ các phương tiện khác gồm quy trình rửa tay, khăn lau tay sử dụng một lần và thùng thu
gom khăn đã sử dụng (nếu là khăn sợi bông sử dụng lại) hoặc thùng chất thải thông thường
(nếu sử dụng khăn giấy dùng một lần).
Nhìn chung, nên ưu tiên lựa chọn dung dịch xà phòng thường và cồn VST tay cho
VST thường quy.
Để hạn chế rủi ro của NVYT trước bất kỳ hoạt động chăm sóc sức khỏe như tiếp
xúc với chất hoặc các bề mặt bị ô nhiễm thì họ đều thực hiện thói quen mang đầy đủ
phương tiện phòng hộ cá nhân.
1.1.6 Quy trình (Kỹ thuật) vệ sinh tay thường quy: Theo Hướng dẫn của Bộ Y
tế có hai phương pháp vệ sinh tay thường quy [5]. Ban hành theo Quyết
định số: 3916/QĐ-BYT ngày 28/8/2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế
- Vệ sinh tay với nước và xà phòng
- Sát khuẩn tay nhanh với chế phẩm chứa cồn
Quy trình VSTTQ của NVYT với nước và xà phòng hoặc với dung dịch sát khuẩn tay
chứa cồn gồm 6 bước như hình vẽ sau:
Hình 1.1: Quy trình rửa tay thường quy
1.1.6.1Quy trình vệ sinh tay bằng xà phòng
Quy trình này được thực hiện khi bắt đầu hoặc kết thúc một ngày làm việc, khi tay
dây bẩn mà mắt nhìn thấy được hoặc cảm giác có dính bẩn, dính máu, dịch cơ thể.
Phải tháo trang sức ở tay trước khi tiến hành các bước sau: [5]
- Bước 1: Lấy 3 - 5ml dung dịch vệ sinh tay hoặc chà bánh xà phòng lên
lòng và mu hai bàn tay. Xoa hai lòng bàn tay vào nhau cho dung dịch xà phòng
dàn đều.
- Bước 2: Chà lòng bàn tay này lên mu và kẽ các ngón của bàn tay kia và
ngược lại.
- Bước 3: Chà hai lòng bàn tay vào nhau, miết mạnh các kẽ ngón tay.
-Bước 4: Chà mặt ngoài các ngón tay của bàn tay này vào lòng bàn tay kia.
-
Bước 5: Dùng lòng bàn tay này xoay ngón cái của bàn tay kia và ngược
lại.
-
Buớc 6: Xoay đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại.
* Ghi chú: Mỗi bước chà tối thiểu 5 lần, thời gian vệ sinh tay tối thiểu là 30 giây
1.1.6.2 Sát khuẩn tay bằng chế phẩm chứa cồn
Sát khuẩn tay bằng chế phẩm chứa cồn là một trong những giải pháp quan trọng
nhất để tăng số lần vệ sinh tay của nhân viên y tế. Vì vậy, các khoa cần trang bị các lọ
đựng chế phẩm chứa cồn có sẵn ở những nơi cần thiết để nhân
viên y tế sử dụng. Tối thiểu ở các vị trí sau đây:
- Ðầu giường bệnh trong các khoa Cấp cứu, khoa Hồi sức tích cực, khoa Truyền
nhiễm, khoa Gây mê - Hồi sức.
- Trên các xe tiêm, xe thay băng, xe dụng cụ làm thủ thuật.
- Trên các bàn khám bệnh
- Tường cạnh cửa ra vào, cửa chính của mỗi khoa.
Quy trình: [5].
- Bước 1: Lấy 3ml chế phẩm chứa cồn. Chà hai lòng bàn tay vào nhau cho
dung dịch dàn đều.
- Bước 2: Chà lòng bàn tay này lên mu và kẽ các ngón của bàn tay kia và
ngược lại.
- Bước 3: Chà hai lòng bàn tay vào nhau, miết mạnh các kẽ ngón tay.
- Bước 4: Chà mặt ngoài các ngón tay của bàn tay này vào lòng bàn tay kia.
- Bước 5: Dùng lòng bàn tay này xoay ngón cái của bàn tay kia và ngược
lại.
-
Bước 6: Xoay đầu ngón tay này vào lòng bàn tay kia và ngược lại. Chà
sát tay đến khi tay khô.
Ghi chú: Mỗi bước chà tối thiểu 5 lần, thời gian chà sát tay từ 20-30 giây, hoặc chà
sát cho đến khi tay khô.
Khi thực hiện quy trình VST thường quy cần lưu ý một số điểm sau:
-
Lựa chọn đúng phương pháp VST.
-
Lấy đủ 3ml -5 ml dung dịch VST cho mỗi lần VST.
-
Tuân thủ đúng kỹ thuật VST
-
Tuân thủ đúng thời gian VST
- Không rửa lại tay bằng nước và xà phòng sau khi đã chà tay bằng dung
dịch VST chứa cồn.Tránh làm ô nhiễm lại bàn tay sau VST: Sử dụng nước sạch
để rửa tay, sử dụng khăn sợi bông/khăn giấy sạch dùng 1 lần để lau khô tay, sử
dụng khăn đã dùng lau khô tay để đóng vòi nước. Không dùng một khăn lau tay
chung cho nhiều lần rửa tay.
- Phải đảm bảo bàn tay khô hoàn toàn trước khi bắt đầu bất kỳ hoạt động
chăm sóc nào cho người bệnh. Không sử dụng máy sấy tay để làm khô tay. Xem
xét lựa chọn loại găng tay không có bột talc để thuận lợi cho việc khử khuẩn tay bằng
dung dịch VST chứa cồn.
1.1.2 Một số yếu tố liên quan tới việc tuân thủ vệ sinh tay ở nhân viên y tế
* Các yếu tố nhận biết được qua giám sát trực tiếp
- Hộ lý tuân thủ kém hơn điều dưỡng
- Nam và nữ tuân thủ như nhau.˙
- Thời gian làm việc trong tuần (không phải cuối tuần)
- Mang găng tay
- Các thực hành chăm sóc có nguy cơ lây nhiễm cao
- Khu vực chăm sóc đòi hỏi tần suất vệ sinh tay cao
* Các yếu tố phát hiện được qua phỏng vấn cán bộ y tế:
- Hoá chất vệ sinh tay gây khô da hoặc kích ứng da
- Bồn vệ sinh tay thiếu hoặc bố trí ở nơi không thuận tiện
- Thiếu dung dịch vệ sinh tay, thiếu hoặc không có khăn lau tay
- Quá bận, không đủ thời gian
- NB quá đông, thiếu nhân viên
- Cần tập trung thời gian cho chăm sóc người bệnh
- Vệ sinh tay làm ảnh hưởng tới mối liên hệ giữa cán bộ y tế và người
bệnh
- Nguy cơ lấy nhiễm chéo không cao
- Quên không VSTTQ
- Không được yêu cầu hoặc hướng dẫn từ người có trách nhiệm
- Không tin tưởng về hiệu quả VSTTQ trong phòng ngừa nhiễm khuẩn
bệnh viện
- Không đồng ý với quy trình VSTTQ
* Một số yếu tố khác:
- Thiếu các biện pháp thúc đẩy vệ sinh tay từ lãnh đạo/ bệnh viện
- Thiếu sự quan tâm của lãnh đạo khoa/ bệnh viện
- Thiếu các biện pháp hành chính liên quan tới thực hành VSTTQ (phê
bình, khiển trách, khen thưởng).
Có một số yếu tố liên quan đến việc tuân thủ vệ sinh tay thường quy: trình
độ học vấn, đặc điểm của nhân viên y tế (tuổi, giới, thâm niên công tác…), vị trí
công việc, tính khẩn cấp, tác dụng không mong muốn của các hoá chất vệ sinh tay
thường quy …
Sự khác nhau về trình độ chuyên môn của NVYT là Bác sĩ, Điều dưỡng, Hộ lý, Học
sinh sinh viên thì thái độ đối với sự tuân thủ các biện pháp về VSTTQ có sự khác nhau. Tuy
nhiên, học vấn cao lại không phải là một yếu tố làm tăng hiệu quả của việc tuân thủ quy định
KSNK, theo thống kê ngay cả bác sĩ cũng thường không tuân thủ nghiêm túc so với điều
dưỡng.
Về vị trí công việc (chức danh): công tác vệ sinh tay thường quy là khâu rất quan trọng
trong các bệnh viện hiện nay. Để NVYT có thể trang bị cho mình kiến thức và thái độ tốt thì
rất cần sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo.
* Tính khẩn cấp: Cấp cứu NB luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của NVYT.Khi CBYT đứng
giữa hai sự lựa chọn tuân thủ VSTTQ và cấp cứu để cứu sống NB thì đa phần họ đều chọn
cấp cứu bởi do họ không có thời gian tuân thủ quy định đó.
Ngoài ra có một yếu tố ảnh hưởng tới tuân thủ vệ sinh tay ở cán bộ y tế gồm thiếu
phương tiện, thiếu kiến thức, thiếu cán bộ y tế (quá tải), lạm dụng găng tay, thiếu kiểm
tra giám sát và thiếu các biện pháp tạo dựng thói quan vệ sinh tay thường quy.
1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tỷ lệ tuân thủ VST ở NVYT thay đổi từ 13%
- 81%, tính chung là 40,5%. Tỷ lệ tuân thủ VST không đồng nhất giữa các khu vực lâm
sàng, khu vực hồi sức cấp cứu thường cao hơn các khu vực khác. Tỷ lệ tuân thủ VST ở bác
sỹ thấp hơn các nhóm NVYT khác.
Tại Hoa Kỳ, một số nghiên cứu về tỷ lệ này được thực hiện trong khoảng từ năm
1991 đến năm 2000 cho thấy tỷ lệ tuân thủ chỉ đạt 29% đến 40% [6].
Một nghiên cứu nhằm thu thập các thông tin về VSTTQ để từ đó đưa ra các biện
pháp KSNK. Trong số các sinh viên điều dưỡng Thổ Nhĩ Kỳ được hỏi theo bộ câu hỏi, có
80,2% sinh viên trả lời có VSTTQ sau mỗi lần làm thủ thuật cho bệnh nhân, thời gian
trung bình một lần VSTTQ từ 1 phút trở lên chiếm 71,9%. Kết luận từ nghiên cứu cho thấy
tất cả các sinh viên đều được học về cách vệ sinh tay nhưng thực sự sinh viên vẫn chưa
quan tâm tới vệ sinh tay và chưa thực hành được kiến thức đã học [7].
Nghiên cứu của Ogoina và cộng sự năm 2015 cũng chỉ ra 43% những người tham
gia nghiên cứu có kiến thức kém, 42% có thực hành trung bình và 37% có thái độ vừa phải
về nhiễm khuẩn bệnh viện. Có một mối quan hệ đáng kể giữa kiến thức và giới tính
(r=0,08; p=0,02). Tuy nhiên, các biến số của tuổi tác, tình trạng hôn nhân, việc làm, kinh
nghiệm làm việc, giáo dục và nơi làm việc không thiết lập mối quan hệ đáng kể với thực
hành về sinh tay (p>0,05) [37].
Nghiên cứu nổi tiếng của Pittet và cộng sự tại Thụy Sỹ cho thấy 48% điều dưỡng tuân
thủ vệ sinh tay thường quy (VSTTQ) và sau 3 năm có chương trình can thiệp thấy tỷ lệ
tuân thủ VSTTQ tăng lên tới 66%. Một nghiên cứu khác nhằm thu thập các thông tin về
VSTTQ để từ đó đưa ra các biện pháp KSNK. Trong số các sinh viên điều dưỡng Thổ Nhĩ
Kỳ được hỏi theo bộ câu hỏi, có 80,2% sinh viên trả lời có VSTTQ sau mỗi lần làm thủ
thuật cho bệnh nhân, thời gian trung bình một lần VSTTQ từ 1 phút trở lên chiếm 71,9%.
Kết luận từ nghiên cứu cho thấy tất cả các sinh viên đều được học về cách vệ sinh tay
nhưng thực sự sinh viên vẫn chưa quan tâm tới vệ sinh tay và chưa thực hành được kiến
thức đã học [18]. Năm 2002, tại Italia, Nonile và cộng sự đã tiến hành đánh giá kiến
thức,thái độ và thực hành vệ sinh tay của NVYT tại các khoa hồi sức tích cực tại 24
bệnh viện vùng Campania và Calabria. Kết quả cho thấy 53,2% NVYT có kiến thức đúng,
tỷ lệ có thái độ tích cực về vệ sinh tay là 96,8%, thái độ tích cực của nhóm NVYT có trình
độ học vấn cao và nhóm nữ, lớn tuổi cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các nhóm khác.
Trong nghiên cứu này tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay (TTRT) của NVYT tại thời điểm trước khi
chăm sóc người bệnh đạt 60% và sau chăm sóc đạt 72,5% [11].
Nghiên cứu của Hamed Sarani và cộng sự năm 2014 cũng chỉ ra 43% những người
tham gia nghiên cứu có kiến thức kém, 42% có thực hành trung bình và 37% có thái độ
vừa phải về nhiễm khuẩn bệnh viện. Có một mối quan hệ đáng kể giữa kiến thức và giới
tính (r = 0,08 p = 0,02). Tuy nhiên, các biến số của tuổi tác, tình trạng hôn nhân, việc
làm, kinh nghiệm làm việc, giáo dục và nơi làm việc không thiết lập mối quan hệ đáng kể
với các biến độc lập (p> 0,05) [11].
Nghiên cứu của Khaled và cộng sự thực hiện năm 2008 tại bệnh viện
Đại học Ain Shams (Cairo, Ai Cập) cho thấy điều dưỡng có kiến thức VST
tốthơn bác sĩ nhưng các bác sĩ lại là những người tuân thủ tốt hơn (37,5%),
tuy nhiên, tỷ lệ VST đúng của họ chỉ là 11,6% [24].
1.2.2 Tại Việt Nam
Năm 2010, Đặng Thị Vân Trang đã khảo sát tỷ lệ tuân thủ VST theo 5 thời điểm tại
bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả cho thấy tỷ lệ tuân thủ VST của NVYT trung bình là 25,7%, tỷ
lệ tuân thủ VST của điều dưỡng (67,5%) cao hơn so với bác sĩ (24,6%), kỹ thuật viên (3,1%),
nhân viên khác (4,8%). Tỷ lệ tuân thủ VST lần lượt là 17,0% trước khi tiếp xúc NB, 31,8%
trước thao tác vô khuẩn, 56,7% sau tiếp xúc dịch, 29,2% sau tiếp xúc NB và 12,3% sau khi
chạm vào môi trường xung quanh NB. Tỷ lệ tuân thủ rửa tay khác nhau ở khoa Hồi sức
(36,1%), các khoa Nội (21,6%), và các khoa Ngoại (28,4%) [8].
Năm 2012, nghiên cứu khảo sát thực trạng sự tuân thủ VSTTQ của NVYT tại bệnh
viện Tim Hà Nội. Kết quả cho thấy, Khi quan sát 400 cơ hội VSTTQ của NVYT tại 3 khoa
lâm sàng, kết quả cho thấy tỷ lệ tuân thủ VST đạt 68,5%. Khi so sánh giữa các đối tượng
NVYT tại 3 khoa lâm sàng số cơ hội VST của điều dưỡng là cao nhất (290; 72,5 %) BS là
75;18,6%, ít nhất là hộ lý có 35; 8,7% và sự tuân thủ VST của điều dưỡng cũng cao hơn bác
sĩ và hộ lý (73,1% trong 290 cơ hội), hộ lý là đối tượng có tỉ lệ tuân thủ VST kém nhất
(37,1% trong 35 cơ hội). VST thấp tại những khu vực có cường độ chăm sóc và điều trị cao,
khối lượng chăm sóc điều trị càng lớn hay số cơ hội VST càng lớn thì tỷ lệ tuân thủ VST
càng thấp. Về sự tuân thủ thực hành VST của NVYT theo từng thời điểm cho thấy 90 -100%
NVYT đều có ý thức vệ sinh tay tại thờiđiểm ngay sau khi tiếp xúc với máu và dịch cơ thể
và trước, sau khi làm thủ thuậtxâm lấn, sau khi tháo găng [9].
Nghiên cứu “ Đánh giá kiến thức và khảo sát sự tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y
tế tại một số khoa lâm sàng bệnh viện Quân y 103” năm 2013 tác giả tiến hành khảo sát 383
NVYT cho kết quả 30,81% cho rằng mang găng có thể thay thế được VST bằng nước và xà
phòng hiệu quả hơn VST bằng chế phẩm chứa cồn. Tỷ lệ tuân thủ VST tại 5 thời điềm trước
khi tiếp xúc người bệnh (15,78%); sau khi tiếp xúc bề mặt các vật dụng trong buồng bệnh
(47,32%), sau khi tiếp xúc với người bệnh (70,86%); trước khi làm thủ thuật vô khuẩn
(81,42%) và sau khi tiếp xúc với dịch tiết của người bệnh (93,65)[38].
Nghiên cứu của Nguyễn Nam Thắng và Lê Đức Cường được thực hiện
nhằm đánh giá kiến thức và thực hành về vệ sinh tay thường quy của điều dưỡng viên đang
công tác tại hai bệnh viện đa khoa thuộc huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình năm 2017. Kết quả
cho thấy ở nhiều nội dung phỏng vấn, tỷ lệ điều dưỡng viên trả lời đúng còn thấp (dưới
50%) như: hệ vi khuẩn trên bàn tay nhân viên y tế là tác nhân chính gây nhiễm khuẩn bệnh
viện (40,2%); vai trò của vệ sinh tay thường quy trong phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện
(46%); thời gian tối thiểu để vệ sinh tay với nước và xà phòng (47,3%); và chà tay bằng
chế phẩm chứa cồn (49,6%); sắp xếp các bước trong quy trình vệ sinh tay thường quy
(22,3%); lựa chọn phương pháp vệ sinh tay phù hợp khi thăm khám từ vùng bẩn sang vùng
sạch (12,5%) và sau khi khám bệnh cho người bệnh (45,5%). Tỷ lệ điều dưỡng viên có kiến
thức đạt ở bệnh viện đa khoa huyện Tiền Hải là 66,4%, ở bệnh viện đa khoa Nam Tiền Hải
là 50,5% (p<0,05). Do đó cần thực hiện các biện pháp tuyên truyền, tập huấn nhằm nâng
cao kiến thức và thực hành về vệ sinh tay thường quy cho nhân viên y tế tại hai bệnh viện
này. Về thực hành, nghiên cứu đã đánh giá kỹ năng thực hành rửa tay thường quy bằng
bảng kiểm đối với 224 điều dưỡng viên. Kết quả cho thấy tỷ lệ điều dưỡng viên thực hành
rửa tay thường quy đạt ở cả hai bệnh viện rất thấp, ở bệnh viện đa khoa huyện Tiền Hải là
45,0% và ở bệnh viện đa khoa Nam Tiền Hải là 25,8% (p<0,05). Kết quả phân tích cho
thấy có mối liên quan giữa kỹ năng thực hành rửa tay thường quy với trình độ chuyên môn
của điều dưỡng viên. Do đó cần thực hiện các biện pháp can thiệp nhằm nâng cao kiến thức
và kỹ năng thực hành về rửa tay thường quy cho nhân viên y tế tại hai bệnh viện này
[10].tuân thủ tăng nhiều nhất ở nhóm điều dưỡng và nhân viên khối ngoại (từ 51,8% lên
64,8; p<0,01). Tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện có giảm từ 5,2% xuống 3,6%, nhưng không có
ý nghĩa thống kê (p = 0,15) [15].
Năm 2014, nghiên cứu đánh giá thực trạng tuân thủ vệ sinh tay và các yếu tố liên
quan của nhân viên y tế tại Bệnh viện sản - nhi tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy: kiến thức đạt của
NVYT về vệ sinh tay thường quy của NVYT là 93,04%, trong đó kiến thức đạt cao nhất ở
câu hỏi về lựa chọn phương thức vệ sinh tay với nước và xà phòng ở cơ hội “Sau khi tiếp
xúc với đồ vật, dụng cụ dính máu, dịch và các chất bài tiết của người bệnh” (78,26%). Tỷ
lệ NVYT có thái độ tích cực với tuân thủ VSTTQ cao (92,17%). Tỷ lệ các cơ hội vệ sinh
tay được NVYT tuân thủ là 42,17%. Tỷ lệ NVYT tuân thủ vệ sinh tay thường quy cao
nhất ở cơ hội “sau khi
tiếp xúc với máu, dịch cơ thể” là (78,69%) và “trước khi làm thủ thuật vô khuẩn” là
(51,02%). Tỷ lệ tuân thủ VSTTQ khối nội và khối ngoại gần bằng nhau (40,28% so với
39,36,5%). Phương thức vệ sinh tay được 64,29% NVYT áp dụng là vệ sinh tay với dung
dịch vệ sinh tay chứa cồn/cồn. NVYT được đánh giá là tuân thủ VSTTQ đúng hay thực
hành VSTTQ đạt khi tất cả cơ hội vệ sinh tay được quan sát đều có vệ sinh tay và vệ sinh
tay đúng với nước và xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn có chứa cồn/cồn. Tỷ lệ NVYT có
thực hành VSTTQ đạt trong nghiên cứu là 39,75% [12].
Dương Duy Quang và cộng sự năm 2015 cũng chỉ ra có 94.5% các bác sỹ,
điều dưỡng, NHS tại các khoa lâm sàng đã hiểu đúng khái khái niệm vệ sinh tay.
98% đối tượng nghiên cứu cho rằng vệ sinh tay là biện pháp quan trọng và đơn
giản nhất để phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh viện và các vi khuẩn kháng thuốc,
29% các bác sỹ, điều dưỡng, NHS có kiến thức chưa đúng về thời gian thích hợp
đểvệ sinh tay [17]. Nghiên cứu của Thân Thị Thu Ba và cộng sự năm 2013 thực
hiện tại Bệnh viện Trưng Vương cũng chỉ ra mức độ hiểu biết khá tốt nhưng sự
tuân thủ thực hành vệ sinh tay chưa cao. Tỉ lệ tuân thủ vệ sinh tay chung 31,58%
cho thấy còn rất nhiều cơ hội vệ sinh tay bị bỏ qua và tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm
chéo do bàn tay NVYT cao trong bệnh viện. Thời gian thực hành vệ sinh tay
chưa đến 50% so với yêu cầu và việc bỏ qua các bước vệ sinh tay theo khuyến
cáo là nguy cơ dẫn đến bàn tay đã rửa khó đạt mức độ sạch cần thiết. Việc liên
tục cập nhật kiến thức và triển khai các biện pháp nhắc nhở, đốc thúc vệ sinh tay
tại khoa là hết sức cần thiết để nâng cao tỉ lệ tuân thủ vệ sinh tay của NVYT [1].
Nghiên cứu “Đánh giá kiến thức và khảo sát sự tuân thủ vệ sinh tay của
nhân viên y tế tại một số khoa lâm sàng bệnh viện Quân y 103” năm 2013, tác
giả tiến hành khảo sát 383 NVYT thấy: 30,81% cho rằng mang găng có thể thay
thế được VST, 57,70% không nêu chính xác được 5 thời điểm VST, 79,11% cho
rằng VST bằng nước và xà phòng hiệu quả hơn VST bằng chế phẩm chứa cồn.
Tỷ lệ tuân thủ VST tại 5 thời điểm: trước khi tiếp xúc người bệnh (15,78%); sau
khi tiếp xúc bề mặt các vật dụng trong buồng bệnh (47,32%); sau khi tiếp xúc
với người bệnh (70,86%); trước khi làm thủ thuật vô khuẩn (81,42%) và sau khi
tiếp xúc với dịch tiết của người bệnh (93,65%) [14]. Nghiên cứu của Tạ Thị
Phương: đánh giá kiến thức, thái độ và tỉ lệ tuân thủ vệ sinh tay của nhân viên y
- Xem thêm -