Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tích hợp kiến thức ngữ văn trong dạy học bài phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (ngữ...

Tài liệu Tích hợp kiến thức ngữ văn trong dạy học bài phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (ngữ văn 10 tập 2)

.PDF
106
793
131

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC TRỊNH THỊ HẢI QUỲNH TÍCH HỢP KIẾN THỨC NGỮ VĂN TRONG DẠY HỌC BÀI “PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT” (NGỮ VĂN 10 - TẬP 2) LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN HÀ NỘI - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC TRỊNH THỊ HẢI QUỲNH TÍCH HỢP KIẾN THỨC NGỮ VĂN TRONG DẠY HỌC BÀI “PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT” (NGỮ VĂN 10 - TẬP 2) LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC (BỘ MÔN NGỮ VĂN) Mã số: 60 14 01 11 Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thời Tân HÀ NỘI - 2014 2 LỜI CẢM ƠN Trước hết, với tấm lòng thành kính, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới người thầy hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thời Tân – người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận văn. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Ngữ văn sau đại học trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội, các thầy cô giáo Trường Đại học sư phạm I Hà Nội đã dạy bảo, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô phản biện đã có những nhận xét và đánh giá cho Luận văn này. Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn đến gia đình và các bạn bè đồng môn đã giúp đỡ, động viên tôi rất nhiều trong quá trình hoàn thành Luận văn. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2014 Người thực hiện luận văn Trịnh Thị Hải Quỳnh 1 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT Kí hiệu Diễn giải BPTT Biện pháp tu từ DH Dạy học ĐT Đào tạo GD Giáo dục GS Giáo sư GV Giáo viên HS Học sinh KT Kiểm tra NNNT Ngôn ngữ nghệ thuật NXB Nhà xuất bản SGK Sách giáo khoa SPTH Sư phạm tích hợp TH Tiểu học THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thong TN Thực nghiệm TS Tiến sĩ VD Ví dụ 2 MỤC LỤC Trang Lời cảm ơn ................................................................................................ i Danh mục viết tắt ......................................................................................... ii Mục lục ........................................................................................................ iii Danh mục các bảng ...................................................................................... v Danh mục các biểu đồ, sơ đồ ........................................................................ vi MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA 16 ĐỀ TÀI........................................................................................................ 1.1. Những vấn đề lý luận về dạy học tích hợp ............................................. 16 1.1.1. Khái niệm về tích hợp......................................................................... 16 1.1.2. Các quan điểm tích hợp ................................................................ 18 1.1.3. Các hình thức tích hợp ........................................................................ 20 1.1.4. Ý nghĩa và mục tiêu của dạy học tích hợp .......................................... 20 1.2. Tích hợp trong môn Ngữ văn................................................................ 22 1.3. Tích hợp trong phần Tiếng Việt ............................................................. 24 1.4. Thực trạng dạy học Tiếng Việt lớp 10 THPT theo hướng tích hợp ............................................................................................................... 26 1.4.1. Khảo sát thực trạng dạy học Tiếng Việt nói chung tại một số trường THPT hiện nay.................................................................................. 26 1.4.2. Khảo sát thực trạng dạy học phân môn Tiếng Việt theo hướng tích hợp tại một số trường THPT hiện nay.................................................... 28 Chương 2: VẬN DỤNG TÍCH HỢP KIẾN THỨC NGỮ VÀ VĂN TRONG DẠY HỌC BÀI PHONG CÁCH NGÔN NGỮ 33 NGHỆ THUẬT (NGỮ VĂN 10 - TẬP 2) ................................................... 2.1. Một số yêu cầu cơ bản khi dạy học phần Tiếng Việt theo hướng tích hợp ........................................................................................................ 33 2.1.1. Dạy học Tiếng Việt theo hướng tích hợp phải đảm bảo những yêu cầu chung của dạy học Tiếng Việt ......................................................... 33 3 2.1.2. Dạy học Tiếng Việt theo hướng tích hợp phải biết lựa chọn nội dung tích hợp hợp lý, tự nhiên, tránh gượng ép..................................... 34 2.1.3. Dạy học Tiếng Việt theo hướng tích hợp phải đảm bảo giảm tải kiến thức, rút ngắn được thời gian học tập cho HS.................................................... 36 2.1.4. Tích hợp trong phân môn Tiếng Việt phải đảm bảo đúng quy trình tích hợp chung ..................................................................................... 37 2.2. Một số biện pháp tích hợp trong dạy học Tiếng Việt ............................. 37 2.2.1. Tích hợp trong nội dung dạy học ........................................................ 38 2.2.2. Tích hợp trong kiểm tra đánh giá ........................................................ 42 2.3. Tổ chức tích hợp kiến thức Ngữ và Văn trong dạy bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (Ngữ văn 10 - tập 2) ............................................ 45 2.3.1. Đặc điểm nội dung bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật .................... 46 2.3.2. Định hướng triển khai dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật” theo hướng tích hợp kiến thức Ngữ - Văn .......................................... 48 59 Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ......................................................... 3.1. Mục đích thực nghiệm ........................................................................... 59 3.2. Đối tượng thực nghiệm .......................................................................... 59 3.3. Phương pháp thực nghiệm ................................................................ 59 3.4. Nội dung thực nghiệm ........................................................................... 60 3.4.1. Giáo án thực nghiệm .......................................................................... 60 3.4.2. Thuyết minh về giáo án thực nghiệm .................................................. 74 3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm ............................................................... 76 3.5.1. Về hứng thú của HS............................................................................ 77 3.5.2. Về kết quả bài kiểm tra ................................................................ 78 80 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................ 1. Kết luận ................................................................................................ 80 2. Khuyến nghị ............................................................................................. 81 83 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... PHỤ LỤC................................................................................................ 86 4 DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 1.1. Quan điểm của GV Ngữ văn về mức độ cần thiết phải chú trọng dạy học phân môn Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn THPT hiện nay ..................................................................................... 27 Bảng 1.2. Các cách thức tích hợp GV thường vận dụng vào dạy học phân môn Tiếng Việt THPT ................................................................. 29 Bảng 1.3. Quan điểm của GV Ngữ văn về mức độ thường xuyên vận dụng tích hợp vào dạy chương trình Tiếng Việt tại một số trường THPT........................................................................................................... 30 Bảng 3.1. Thống kê kết quả bài kiểm tra của HS các lớp đối chứng và thực nghiệm ........................................................................................ 5 78 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ Trang Biểu đồ 1.1. Biểu đồ thể hiện quan điểm của GV về mức độ cần thiết phải chú trọng dạy học phần Tiếng Việt trong chương trình Ngữ Văn THPT hiện nay ................................................................................................ 27 Biểu đồ 1.2. Biểu đồ thể hiện một số cách thức tích hợp mà GV THPT hiện nay vận dụng vào dạy phân môn Tiếng Việt ................................ 29 Biểu đồ 1.3. Biểu đồ thể hiện quan điểm của GV Ngữ văn về mức độ thường xuyên vận dụng tích hợp vào dạy chương trình Tiếng Việt THPT………………………………………………………….... .......... 31 Sơ đồ 2.1. Biên soạn câu hỏi kiểm tra loại bài Tiếng Việt theo định hướng tích hợp ................................................................................................ 43 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Vai trò quan trọng của ngôn ngữ và của phân môn Tiếng Việt Cùng với lao động, ngôn ngữ cũng góp phần hình thành và phát triển xã hội loài người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp phổ biến và thuận lợi nhất, được coi là “sáng tạo kỳ diệu của loài người”. Ngôn ngữ còn là công cụ tổ chức quá trình tư duy, giúp tư duy phát triển. Mặt khác, ngôn ngữ đóng vai trò là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành cộng đồng dân tộc, duy trì và phát triển truyền thống văn hóa của dân tộc. Với người Việt Nam, tiếng Việt là ngôn ngữ bản địa, góp phần duy trì sự thống nhất quốc gia, dân tộc. Bên cạnh chức năng giao tiếp, chức năng tư duy, ngôn ngữ còn có chức năng thẩm mĩ, là phương tiện để tạo nên cái đẹp – hình tượng nghệ thuật. Đề cao chức năng thẩm mĩ của ngôn ngữ, môn Tiếng Việt trong nhà trường được chú trọng để hướng nhiều vào nội dung dạy ngôn ngữ nghệ thuật, học Tiếng Việt trong các tác phẩm nghệ thuật, học Tiếng Việt để hiểu nghệ thuật văn chương. Do đó, việc dạy cho HS biết sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác là mục tiêu vô cùng quan trọng. Cũng vì thế, Tiếng Việt đã trở thành phân môn có vị trí đặc biệt; không chỉ cung cấp những kiến thức, kĩ năng cơ bản để phát triển khả năng giao tiếp, giúp các em hiểu được những giá trị “chân – thiện – mĩ” trong văn học, trong cuộc sống, mà còn trang bị cho các em công cụ thiết yếu để học tốt các môn khoa học khác. Đây chính là lý do vì sao Tiếng Việt là môn học (phân môn) được dạy xuyên suốt từ bậc Tiểu học đến THPT. 1.2. Tích hợp là một phương pháp dạy học được quan tâm nhiều trong dạy học môn Ngữ văn hiện nay Thế kỉ XXI là thế kỉ của khoa học kĩ thuật, của sự bùng nổ tri thức, thế kỉ của những con người năng động, sáng tạo và tự chủ. Để hội nhập với xu thế phát triển chung của thế giới, xã hội Việt Nam cần có một sự thay đổi căn bản, toàn diện về rất nhiều lĩnh vực trong đời sống, trong đó chủ yếu là những 7 thay đổi trong giáo dục. Bởi phát triển giáo dục chính là chiến lược phát triển đất nước: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Đổi mới giáo dục chính là cách nhanh nhất rút ngắn khoảng cách vươn tới mục tiêu nêu trên. Để có một cuộc cải cách giáo dục toàn diện, cần thay đổi căn bản từ nội dung chương trình đến phương pháp giảng dạy. Vì một khi nội dung chương trình giáo dục có sự thay đổi sẽ kéo theo nhu cầu cấp thiết đổi mới phương pháp dạy học. Từ năm học 2006 – 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai đại trà chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 mới trên toàn quốc. Đó là việc thay đổi tên gọi môn Văn - Tiếng Việt thành môn Ngữ văn, thay đổi trong cách xác định mục tiêu môn học, trong quan điểm lựa chọn nội dung, kết cấu chương trình, trong việc vận dụng các phương pháp và phương tiện dạy học để đạt được mục tiêu giáo dục. Trước đây, ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt, Làm văn tách biệt nhau, không gắn bó với nhau trong một chỉnh thể, nhưng với việc biên soạn chương trình mới theo tinh thần tích hợp thì ba phân môn được hợp lại thành một môn chung, mỗi phân môn là một phần của môn Ngữ văn. Những kiến thức kĩ năng của ba phân môn Đọc văn, Tiếng Việt, Làm văn được triển khai đồng thời cho mỗi bài học, theo mối quan hệ đồng quy, nhằm thực hiện mục tiêu cao nhất của chương trình là giúp cho HS từng bước nâng cao và hoàn thiện năng lực đọc - hiểu văn bản và viết các loại văn bản theo phương thức biểu đạt một cách tích cực, chủ động. Cơ sở của việc tích hợp này là lấy Tiếng Việt làm nền tảng của Đọc văn và Làm văn, Làm văn là thực hành của Tiếng Việt, còn Đọc văn là tinh hoa của Tiếng Việt do các bậc thầy văn chương thực hiện. Bởi môn Ngữ văn là một môn học tích hợp giữa ngôn ngữ với văn tự (chữ viết), ngôn ngữ với văn bản, ngôn ngữ với văn hóa, ngôn ngữ nói với ngôn ngữ viết. Về bản chất, đối tượng của Đọc văn là các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ của dân tộc và nhân loại từ cổ chí kim, còn đối tượng của Tiếng Việt là hệ thống ngôn ngữ, quy luật hành chức... Nên học Đọc văn, HS thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ vì thực chất công việc phân tích 8 các hình tượng văn học là công việc đi từ nghệ thuật ngôn từ mà khám phá ra vẻ đẹp, ý nghĩa các hình tượng văn học. Từ đó, yêu văn chương, các em càng yêu Tiếng Việt. Và thông qua đó, giúp người học rèn luyện, trau dồi được các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho cuộc sống. Như vậy, chương trình và SGK Ngữ văn đã tạo điều kiện thuận lợi cũng như đặt ra đòi hỏi GV phải dạy ba phần của môn Ngữ văn như một thể thống nhất. Trong đó mỗi phần vừa giữ bản sắc riêng, vừa hoà nhập với nhau cùng hình thành các tri thức, kĩ năng Ngữ văn ở HS. Để làm được điều đó một cách có hiệu quả thì việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học là một yêu cầu tất yếu. 1.3. Việc dạy học theo hướng tích hợp trong nhà trường phổ thông hiện nay còn nhiều bất cập Đã nhiều năm, qua thực tế dạy học vẫn tồn tại một khuyết điểm khó khắc phục, đó là tình trạng GV dạy bài nào soạn bài đó và chỉ biết bài đó. Kế hoạch soạn bài theo toàn chương, theo học kì đã được đặt ra từ nhiều thập kỉ trước nhưng cho đến nay nhược điểm đó ở nhiều GV hầu như vẫn chưa được khắc phục. Vì vậy, hầu hết mỗi bài học đều bị tách rời khỏi hệ thống, dạy một bài Tiếng Việt nhưng không chú ý đến sự liên thông với các kiến thức Tiếng Việt cùng hệ thống và những bộ phận liên quan như Đọc văn, Làm văn. Hậu quả của lối giảng dạy này là không những không giúp HS nắm vững kiến thức cụ thể đang học và kiến thức hệ thống không được sâu chuỗi, liên kết với nhau mà còn làm hạn chế khả năng tư duy tổng hợp kiến thức của HS, khiến HS có tâm lý chán học. Lối dạy học manh mún đó còn phương hại đến việc rèn luyện tư duy khái quát, tư duy hệ thống - vốn là những năng lực quan trọng cần thiết cho HS THPT. Thực tế quan sát được từ các nhà trường phổ thông, việc đổi mới phương pháp dạy học đối với tất cả các môn học, đặc biệt trong môn Ngữ Văn còn rất nhiều hạn chế. Chương trình Ngữ văn 10 đã đưa ra định hướng về đổi mới phương pháp và hình thức dạy học theo tinh thần tích hợp, nhưng những 9 nghiên cứu cụ thể về dạy học theo quan điểm tích hợp, một đặc thù của bộ môn lại chưa được triển khai một cách thoả đáng. Đối với phân môn Tiếng Việt nói riêng, phương pháp dạy học Tiếng Việt yêu cầu vận dụng nguyên tích hợp phải lấy khâu đọc - hiểu và thực hành Làm văn làm hai trục tích hợp chủ yếu, phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa cung cấp tri thức lí thuyết với rèn luyện kĩ năng và bồi dưỡng năng lực Tiếng Việt cho HS, không dạy học quá nhiều các tri thức hàn lâm nhưng cũng không dạy học theo kiểu kinh nghiệm chủ nghĩa. Nhưng trên thực tế thì hầu hết các GV đều dạy nhiều về lý thuyết hàn lâm mà ít cho HS đi vào thực hành. Việc khai thác các dữ liệu qua phần Đọc văn còn rất hạn chế, HS chưa có điều kiện để tự mình huy động hết vốn kiến thức vào vận dụng làm các bài tập… Trước tình hình thực tế đó, việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích hợp nói chung và trong phân môn Tiếng Việt nói riêng đang trở thành vấn đề vô cùng bức thiết. Làm sao để nâng cao chất lượng giáo dục nước nhà, đáp ứng mục tiêu của nền giáo dục hiện đại là một câu hỏi lớn không chỉ với các nhà hoạch định đường lối, chính sách giáo dục mà cần được lưu tâm bởi tất cả các nhà giáo đang trực tiếp làm công tác giảng dạy, giáo dục HS. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên cùng điều kiện nghiên cứu của bản thân đã gợi cho người viết ý tưởng lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tích hợp kiến thức Ngữ Văn trong dạy học bài “Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật” (Ngữ văn 10 - tập 2)” làm luận văn thạc sỹ. Trên cơ sở đó, chúng tôi cũng mong muốn có những đóng góp phần nào trong việc định hướng triển khai thực hiện giảng dạy một bài Tiếng Việt nói chung theo hướng tích hợp trong chương trình THPT. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong mỗi chúng ta, ai cũng hiểu được rằng cuộc sống là muôn hình muôn vẻ, nó được coi là bộ đại bách khoa toàn thư về kinh nghiệm và phương pháp. Vì mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống bao giờ cũng là những tình 10 huống tích hợp. Không thể giải quyết một vấn đề và nhiệm vụ nào của lí luận và thực tiễn mà lại không sử dụng tổng hợp các kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng đa ngành của nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy có thể nói rằng, tư tưởng tích hợp bắt nguồn từ cơ sở khoa học và đời sống. Trong lịch sử phát triển khoa học của nhân loại, các lĩnh vực khoa học ngày càng phân hoá thì tính tích hợp lại càng chặt chẽ. Do vậy, sang thế kỷ XX đã xuất nhiện nhiều khoa học liên ngành, đa ngành. Các khoa học đã chuyển từ tiếp cận “phân tích - cấu trúc” sang tiếp cận “tổng hợp - hệ thống”. Sự thống nhất của tư duy phân tích và tổng hợp đều cần thiết cho sự phát triển nhận thức, đem lại cách nhận thức biện chứng về mối quan hệ giữa bộ phận với toàn thể. Việc giảng dạy các khoa học trong nhà trường vì thế cũng phải phản ánh sự phát triển hiện đại của khoa học, không thể cứ tiếp tục giảng dạy các khoa học như những lĩnh vực tri thức riêng rẽ. Bởi thế, tích hợp đã trở thành một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới. Vì điều kiện khó khăn trong việc thu thập và bao quát các tư liệu nước ngoài, chúng tôi chưa thực sự tìm hiểu đầy đủ các công trình nghiên cứu về tích hợp của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, với những tài liệu đã thu thập được, chúng tôi mong muốn phần nào có thể nêu lên một số nhận xét tổng quát về tình hình nghiên cứu cũng như một số nội dung tích hợp đã và sẽ được đề cập trong bài. 2.1. Dạy học tích hợp ở một số nước trên thế giới Trên thế giới, tích hợp đã trở thành một trào lưu sư phạm hiện đại bên cạnh các trào lưu sư phạm theo mục tiêu, giải quyết vấn đề, phân hoá, tương tác... Trào lưu sư phạm tích hợp xuất phát từ quan niệm về quá trình học tập, trong đó toàn thể các quá trình học tập góp phần hình thành ở HS những năng lực rõ ràng. Khái niệm năng lực ở đây được hiểu là một khái niệm tích hợp bao hàm cả những nội dung, những hoạt động cần thực hiện và những tình huống có diễn ra các hoạt động. Theo ý nghĩa đó, năng lực được định nghĩa là sự tích hợp các kĩ năng (các hoạt động) tác động một cách thích hợp và tự 11 nhiên lên các nội dung trong một loạt tình huống cho trước, để giải quyết những vấn đề do tình huống đó đặt ra. Năng lực này là một hoạt động phức hợp đòi hỏi sự tích hợp, phối hợp các kiến thức và kĩ năng, chứ không phải là sự tác động các kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung. Khoa sư phạm tích hợp nhấn mạnh dạy học là dạy cách tìm tòi, sáng tạo và cách vận dụng kiến thức vào các tình huống khác nhau. Tức là, dạy cho HS biết cách sử dụng kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống cụ thể, có ý nghĩa nhằm mục đích hình thành, phát triển năng lực. Đồng thời chú ý xác lập mối liên hệ giữa các kiến thức, kĩ năng khác nhau của các môn học hay các phân môn khác nhau để bảo đảm cho HS khả năng huy động có hiệu quả những kiến thức và năng lực của mình vào giải quyết các tình huống tích hợp. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhiều Hội nghị trên thế giới quan tâm đến lý thuyết về tích hợp như: Tháng 9 –1968, Hội đồng liên quốc gia về giảng dạy khoa học, với sự bảo trợ của UNESCO đã tổ chức tại Varna (Bungari) “Hội nghị tích hợp việc giảng dạy các khoa học”. Hội nghị này đặt ra hai vấn đề: “Vì sao phải dạy học tích hợp các khoa học?” và “dạy học tích hợp các khoa học là gì?”. Đến năm 1972, Hội nghị phối hợp trong chương trình giáo dục của UNESCO họp tại Paris đã đưa ra định nghĩa dạy học tích hợp các khoa học. Ngay sau đó, UNESCO lại tổ chức Hội nghị đào tạo GV vào tháng 4 năm 1973 tại Đại học tổng hợp Maryland bàn thêm về khái niệm dạy học tích hợp các khoa học còn bao gồm cả dạy học tích hợp các khoa học với công nghệ học. Nghĩa là phải chỉ ra cách thức chuyển từ nghiên cứu khoa học sang triển khai ứng dụng, làm cho các tri thức kĩ thuật - công nghệ trở thành một bộ phận quan trọng của đời sống xã hội hiện đại. Cũng theo hướng tích hợp các khoa học với công nghệ, gắn học với hành, Xavier Roegiers (Phó Giám đốc văn phòng Công nghệ Giáo dục và Đào tạo của Liên minh Châu Âu) cho rằng: giáo dục nhà trường phải chuyển từ đơn thuần dạy kiến thức sang phát triển ở HS các năng lực hành động, xem 12 năng lực (compétence) là khái niệm “cơ sở” của khoa sư phạm tích hợp (pédagogie de l'intégration). Theo Xavier Roegiers, sư phạm tích hợp (SPTH) là một quan niệm về quá trình học tập, trong đó toàn bộ quá trình học tập góp phần hình thành ở HS những năng lực cụ thể có dự tính trước những điều kiện cần thiết cho HS, nhằm phục vụ cho các quá trình học tập sau này hoặc nhằm hoà nhập HS vào cuộc sống lao động. Như vậy SPTH tìm cách làm cho quá trình học tập có ý nghĩa. Trong cuốn “Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường” của Xavier Roegiers do Đào Trọng Quang và Nguyễn Ngọc Nhị dịch (1996) đã đưa ra cái nhìn tổng quan về dạy học tích hợp. Trong cuốn sách này tác giả đã đưa ra định nghĩa và mục tiêu của khoa sư phạm tích hợp; ảnh hưởng của khoa sư phạm tích hợp đối với chương trình; ảnh hưởng của khoa sư phạm tích hợp đối với việc đánh giá những kiến thức HS đã lĩnh hội và ảnh hưởng của khoa sư phạm tích hợp đối với việc biên soạn sách giáo khoa. Quan điểm tích hợp còn được thể hiện khá rõ trong nhiều công trình nghiên cứu cũng như SGK của một số nước như: Trung Quốc, Pháp, Malaixia, Đức... Tuy nhiên, việc đưa tích hợp vào các môn khoa học tự nhiên và các môn khoa học xã hội của một số nước là khác nhau. Riêng ở môn Tiếng, xu hướng tích hợp từ Tiểu học đến THPT của các nước trên thế giới là tương đối thống nhất. Tích hợp triệt để các mảng nội dung để dạy các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết thông qua việc cho HS tiếp xúc với loại văn bản ngay từ những buổi đầu HS tập đọc, tập viết ở bậc Tiểu học đến THPT. Như vậy, tích hợp là một hiện tượng khá phổ biến đã xuất hiện từ lâu ở các nước trên thế giới. Nhưng mỗi nước lại có những cách nhìn nhận và áp dụng riêng tùy thuộc đặc điểm tình hình từng quốc gia, từng môn học mà không đi lệch khỏi đường ray cốt lõi của nó. 13 2.2. Dạy học tích hợp ở Việt Nam Vấn đề tích hợp môn học trên thế giới đã có từ rất lâu, nhưng ở Việt Nam mới có manh nha từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây và ngày càng được chú trọng với những mức độ khác nhau. Ở Việt Nam, Thời Pháp thuộc, quan điểm tích hợp được thể hiện trong một số môn ở trường Tiểu học như môn “Cách trí”, sau đổi thành môn “Khoa học thường thức”. Môn học này được dạy một số năm ở trường Tiểu học của miền Bắc nước ta. Từ những năm 1987, việc nghiên cứu xây dựng môn “Tìm hiểu tự nhiên - xã hội” của Việt Nam theo quan điểm tích hợp đã được thiết kế đưa vào dạy học từ lớp 1 đến lớp 5. Đến năm 2000, quan điểm tích hợp được thể hiện trong chương trình, SGK và các hoạt động DH ở Tiểu học. Tuy nhiên khái niệm tích hợp vẫn còn mới lạ với nhiều GV. Sang chương trình ở cấp Trung học, tích hợp được thể hiện chủ yếu ở mức thấp, chưa được áp dụng sâu. Một trong những nguyên nhân chính là do việc dạy học tích hợp liên quan đến nhiều yếu tố đòi hỏi phải có quá trình chuẩn bị lâu dài mà chúng ta chưa thực hiện được đầy đủ như: chương trình, sách giáo khoa, tổ chức dạy học, phương pháp dạy và học, đánh giá, kiểm tra, thi... Tuy vậy, ngày càng có nhiều nội dung giáo dục được tích hợp vào một số môn học ở bậc Trung học (như: dân số, môi trường, phòng chống HIV/AIDS, chống các tệ nạn xã hội, giáo dục pháp luật, an toàn giao thông...) bằng phương thức lồng ghép. Việc dạy học các nội dung này bước đầu đã làm cho GV có một số kinh nghiệm thực tiễn về tích hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện dạy học tích hợp trong chương trình và sách giáo khoa mới sau 2015. Thực tiễn trong những thập niên 90 trở lại đây, việc dạy học của chúng ta vẫn mang tính “hàn lâm, lý thuyết” nhiều. Đặc điểm cơ bản đó là chú trọng việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học đã được quy định trong chương trình mà chưa chú trọng đầy đủ đến chủ thể người học cũng như đến khả năng ứng dụng tri thức đã học trong những tình huống thực tiễn. Mục tiêu dạy học 14 trong chương trình được đưa ra một cách chung chung, không chi tiết; việc quản lý chất lượng giáo dục chỉ tập trung “điều khiển đầu vào” là nội dung dạy học. Đến nay, việc chuyển đổi SGK ở trường phổ thông theo hướng tích hợp là một yêu cầu tất yếu đổi mới việc dạy và học Ngữ văn. Chương trình THPT môn Ngữ văn, năm học 2002 do Bộ giáo dục và Đào tạo dự thảo đã ghi rõ: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy” [tr. 27]. “Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của GV và tích hợp trong hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo” [tr. 40]. Sau gần mười năm thực hiện chương trình Ngữ văn THCS mới, bước đầu chúng ta đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Với việc lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc để biên soạn chương trình, vấn đề dạy học Ngữ văn THCS theo hướng tích hợp ngày càng được nghiên cứu sâu và rộng. Nhưng có một vấn đề đáng bàn là ở nước ta trong nhiều năm qua, tích hợp được chú ý nhiều tại các hội thảo, hội nghị, song đến nay nó vẫn chưa thực sự trở thành nguyên tắc hoặc định hướng chung, nhất quán từ đầu trong việc xây dựng chương trình, viết sách giáo khoa và định hướng dạy học các môn học ở các cấp học phổ thông. Tích hợp mới chỉ là một trong những định hướng cơ bản xây dựng chương trình Tiểu học năm 2000. Vì định hướng tích hợp chưa trở thành quan điểm chỉ đạo phát triển chương trình Giáo dục phổ thông nên việc quán triệt định hướng này trong đào tạo cũng có những hạn chế nhất định. Mặc dù, đội ngũ chuyên gia giáo dục và đội ngũ GV đã có nhận thức về tích hợp không tạo môn học mới như tích hợp một số mặt giáo dục trong dạy học môn học, tích hợp trong nội bộ 15 môn học nhưng việc xây dựng một số chủ đề tích hợp và dạy học theo dự án thì còn rất hạn chế. Ở Việt Nam, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề tích hợp, nhưng tiêu biểu là tích hợp trong môn Ngữ văn như: Trương Dĩnh trong cuốn“Thiết kế dạy học Ngữ văn THCS theo hướng tích hợp”, đã nêu lên những phương diện tích hợp trong dạy học Ngữ văn THCS; năng lực tích hợp, kiểu văn bản tích hợp, phương pháp tích hợp; mối quan hệ giữa tích hợp và tích cực; tích hợp và hiệu quả dạy học tích hợp; tích hợp gắn liền với đời sống xã hội và cách triển khai các bài dạy cụ thể trong chương trình THCS theo định hướng tích hợp... Người rất tâm huyết với vấn đề đọc hiểu và vấn đề tích hợp là GS.TS. Nguyễn Thanh Hùng. Trong bài "Tích hợp trong dạy học Ngữ văn" đăng trên tạp chí "Nghiên cứu giáo dục" (số 6, tháng 3 năm 2006), tác giả đã chỉ ra bản chất của tích hợp là "Phương hướng phối hợp (Integrate) một cách tốt nhất các quá trình học tập của nhiều môn học cũng như các phân môn Văn, Tiếng Việt, Làm văn trong một môn Ngữ văn". Trên cơ sở phân tích tư tưởng tích hợp, tác giả chỉ ra ý nghĩa của tích hợp: "Tích hợp trong nhà trường sẽ giúp HS học tập thông minh, biết vận dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng và phương pháp của khối lượng tri thức toàn diện, hài hoà (Harnonie), hợp lý (Algebra) trong tình huống khác nhau và mới mẻ trong cuộc sống hiện đại". Quan tâm đến vấn đề tích hợp, TS. Đỗ Ngọc Thống, người tham gia biên soạn chương trình SGK Ngữ văn THCS cũng có nhiều đóng góp đáng ghi nhận. Trong cuốn "Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở THCS" Nxb GD (2002); tác giả có một hệ thống bài viết về quan điểm tích cực và việc dạy học Văn theo hướng tích hợp, giúp người đọc hiểu rõ "Việc lấy tên chung của cuốn sách là Ngữ văn không chỉ đơn thuần là dồn ba phân môn lại thành một cuốn sách theo kiểu gộp lại (Combination) mà chúng được xây dựng theo tinh thần tích hợp (Integration)". Trong bài viết "Dạy học môn Ngữ văn theo nguyên tắc tích hợp", tác giả chỉ ra biểu hiện của tích hợp là "Trong cuốn 16 sách cả ba phân môn Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn cùng dựa trên một văn bản chung để khai thác, hình thành, rèn luyện các kiến thức và kỹ năng của mỗi phân môn". Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra ưu điểm của nguyên tắc dạy học tích hợp: “Tích hợp thể hiện trong việc xây dựng cấu trúc SGK, trong quá trình tổ chức giờ dạy học, thay đổi cách soạn giáo án, cách kiểm tra đánh giá chất lượng học tập của HS”. TS. Nguyễn Văn Đường trong "Tích hợp trong dạy học Ngữ văn bậc THCS", (Tạp chí Giáo dục, 2002) cũng đã đề cập đến một số cơ sở lý luận và thực tiễn, bản chất của tích hợp và đề ra những phương hướng thực hiện tích hợp trong dạy học Ngữ văn, song mới chỉ dừng lại ở phạm vi ứng dụng cho THCS. Ngoài ra còn có một số sách tham khảo, các bài báo, luận văn viết về vấn đề tích hợp trong dạy học Ngữ văn của nhiều tác giả: Trần Bá Hoành, Nguyễn Khắc Phi, Vũ Thị Sơn, Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử… Các tài liệu trên đã đặt cơ sở lý luận cho việc dạy học theo hướng tích hợp, song đối tượng chủ yếu vẫn là THCS. Đối với cấp THPT, các tài liệu bàn về vấn đề dạy học theo hướng tích hợp còn rất ít. Tích hợp không chỉ được chú trọng nhiều trong dạy học Ngữ văn nói chung, mà những năm gần đây cũng đã bắt đầu thu hút khá nhiều học giả nghiên cứu dạy học tích hợp riêng trong phần Tiếng Việt. Nhưng do điều kiện và thời lượng có hạn, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu trong phạm vi trường Đại học Giáo dục. Như trong chuyên ngành Ngữ văn của riêng trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội đã có một số công trình nghiên cứu: Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh - Trường Đại học giáo dục (2008 - 2010) “Dạy các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ theo hướng tích hợp trong chương trình Ngữ văn lớp 6, lớp 7 THCS”; luận văn thạc sĩ của tác giả Lưu Quỳnh Nga Trường Đại học Giáo dục (2008 - 2010): “Dạy học Tiếng Việt lớp 10 trung học phổ thông theo hướng tích hợp (ban cơ bản)”; luận văn thạc sĩ của tác giả 17 Nguyễn Thị Hường - Trường Đại học Giáo dục (2010 - 2012): “Dạy học loạt bài thực hành kỹ năng sử dụng Tiếng Việt lớp 10 theo hướng tích hợp”... Có thể thấy rằng, tích hợp đã trở thành xu hướng chung của việc xây dựng chương trình và SGK Ngữ văn của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới và cũng không phải là điều hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử xây dựng chương trình, SGK Tiếng Việt và Văn học của nước ta. Tuy nhiên, ở Việt Nam, vấn đề tích hợp trước đây chủ yếu vẫn dựa trên quan điểm lấy Văn học làm trung tâm, mục tiêu của mỗi bài học trong SGK chủ yếu vẫn nhằm giúp HS cảm thụ các tác phẩm văn chương. Những kiến thức Tiếng Việt, Làm văn được đề cập đến còn rời rạc, ngẫu nhiên do tính chất của văn bản xếp theo trình tự văn học sử quyết định. Trong khi đó, chúng ta thấy việc xây dựng chương trình và SGK Ngữ văn theo quan điểm tích hợp hiện nay vừa kế thừa tính tích hợp đã được thể hiện trong các chương trình và SGK Ngữ văn trước đây, đồng thời có sự đổi mới theo hướng cập nhật và tiếp cận với chương trình và SGK tích hợp trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy các bài cụ thể trong chương trình Ngữ văn nói chung và phần Tiếng Việt nói riêng vẫn còn bị bỏ ngỏ. Đa phần các tác giả nghiên cứu mới chỉ đưa ra phương pháp dạy học tích hợp chung trong một nhóm bài mà chưa chỉ ra được việc triển khai dạy một bài cụ thể trong chương trình theo hướng tích hợp như thế nào. Mặt khác, các tác giả chủ yếu nghiên cứu tích hợp ở các dạng bài mang tích chất luyện tập, thực hành nhiều mà chưa có công trình nghiên cứu nào chuyên sâu vào tích hợp kiến thức Ngữ với Văn ở các dạng bài hình thành, xây dựng khái niệm, kiến thức mới. Các kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước chính là nguồn tài liệu quý báu, có giá trị cho chúng tôi sử dụng làm luận cứ hoặc làm phương pháp chứng minh luận điểm của mình để từ đó tiếp tục tìm hiểu và phát triển sâu hơn nữa các vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn của phương pháp tích hợp được vận dụng trong dạy học môn Ngữ Văn nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng trong nhà trường THCS, và THPT. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan