Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tiểu luận xử lý tình trạng vi phạm trong quản lý vμ sử dụng đất đai, trong thực ...

Tài liệu Tiểu luận xử lý tình trạng vi phạm trong quản lý vμ sử dụng đất đai, trong thực hiện chế độ chính sách pháp luật, trong quản lý kinh tế.

.DOCX
30
2865
79

Mô tả:

TRƢỜNG ĐÀO TẠO CÁN BỘ LÊ HỒNG PHONG THÀNH PHỐ HÀ NỘI ------*------ TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP LỚP BỒI DƢỠNG KIẾN THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC CHƢƠNG TRÌNH CHUYÊN VIÊN K6A XỬ LÝ VIỆC TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Họ và tên: Đơn vị công tác: Nguyễn Thị Thu Thủy Văn phòng Thành ủy Hà Nội Hà Nội, tháng 11/2015 MỤC LỤC --------LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………………..…1 I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG……………………………………………….....3 1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống…………………………………......3 1.2. Mô tả tình huống…………………………………………………......3 II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG……………………………………………....7 2.1. Mục tiêu ………………….…………………………………………..7 2.2. Cơ sở lý luận………………………………………………………….8 2.3. Phân tích tình huống…………………………………………………..9 2.4. Nguyên nhân dẫn đến xảy ra tình huống………………………….….13 2.5. Hậu quả tình huống…………………………………………………...15 III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG…………………………………………………….15 3.1. Mục tiêu xử lý tình huống ………………………………………….15 3.2. Yêu cầu………………………………………………………………16 3.3. Xây dựng phương án giải quyết……….……………………………..16 3.4. Giải pháp thực hiện phương án 4……………………………………16 IV. KIẾN NGHỊ………………………………………………………………...23 KẾT LUẬN…………………………………………………………………….25 TÀI LIỆU THAM KHẢO TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên quyển I, II – Học viện Hành chính Quốc gia. 2.Quy chế làm việc của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, Thường trực Thành ủy Hà Nội khóa XV. 3.Luật đất đai năm 2013. 4. Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều Luật đất đai 2013. 5.Luật khiếu nại năm 2011. 6.Bộ luật dân sự năm 2005. 7.Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên LỜI MỞ ĐẦU Đất đai là tài nguyên đặc biệt của mỗi quốc gia. Dưới góc độ giá trị lịch sử - xã hội, đất đai là truyền thống, là cội nguồn của mỗi dân tộc, .. thì sự thiêng liêng, quý giá khó mà đo định được. Với mỗi một con người, một hộ gia đình thì đất đai là máu thịt, là cơ sở để sinh cơ, lập nghiệp. Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người thì đất đai và lao động của con người là yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Vì vậy, thực tế những năm trước đây cũng như hiện nay ở nước ta, đã từng xẩy ra những vụ tranh chấp đất đai giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức, giữa cộng đồng dân cư này với cộng đồng dân cư khác, hoặc giữa cộng đồng dân cư với tổ chức, tạo nên những “điểm nóng” khiếu kiện đông người, vượt cấp không những làm giảm hiệu quả và hiệu lực thi hành của pháp luật về đất đai, làm phương hại tới lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của người sử dụng đất hợp pháp, mà còn gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo điều kiện để những thế lực thù địch lợi dụng thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước. Giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là một trong những nội dung quan trọng trong công tác lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý Nhà nước của chính quyền các cấp về theo quy định của pháp luật. Thực hiện tốt nội dung này không những góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước về đất đai, mà còn góp phần đáng kể trong việc giữ gìn ổn định sản xuất, đời sống, phát triển kinh tế, hàn gắn tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng có thể xảy ra và sự chống phá của các thế lực thù địch, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội, cũng như củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. 1 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên Về phía bản thân, là một cán bộ làm việc tại Văn phòng Thành ủy, cơ quan có chức năng tham mưu, giúp việc cho Thành ủy, mà trực tiếp, thường xuyên là Thường trực và Ban Thường vụ Thành ủy lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đối ngoại của Thành phố, trong đó, có nội dung tham mưu đề xuất các giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, khắc phục những hạn chế trong giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đất đai, quản lý đô thị. Từ kinh nghiệm thực tiễn công việc được giao, cùng với những kiến thức, kỹ năng xử lý tình huống sau khóa học bồi dưỡng quản lý nhà nước ngạch chuyên viên, cũng như nội dung hướng dẫn của các thầy cô giảng viên Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong, trong khuôn khổ bài Tiểu luận cuối khóa này, tôi xin được lựa chọn tình huống “Xử lý việc tranh chấp đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Mặc dù đây là vụ việc không quá phức tạp, nhưng lại liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của người dân, nếu không xử lý tốt dễ phát sinh thành phức tạp kéo dài, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội. Vì thế, việc xử lý tình huống vụ việc là một bài học trong công tác quản lý Nhà nước cần được rút kinh nghiệm đối với các cấp chính quyền ở các địa phương, đặc biệt là ở một địa bàn “nóng bỏng” là Thủ đô Hà Nội - trái tim của cả nước, trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của cả nước. Để hoàn thành tiểu luận này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được sự quan tâm giúp đỡ của các cá nhân, tập thể trong và ngoài cơ quan. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo của Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong đã truyền đạt cho tôi những kinh nghiệm, kỹ năng cần thiết về quản lý hành chính nhà nước, cũng như các bạn học viên của lớp đã trao đổi nhiều kinh nghiệm quý báu để có thể vận dụng tham mưu giải quyết các tình huống phát sinh trong quá trình thực hiện chức năng của cơ quan, đơn vị công tác. Hy vọng rằng, bài tiểu luận hoàn thành sẽ góp phần đáp ứng yêu cầu hoàn thiện những kiến 2 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên thức lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn về xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai, quản lý đô thị của những người quan tâm nghiên cứu. Mặc dù có nhiều cố gắng, song, tiểu luận vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy, cô giáo, bạn bè đồng nghiệp để tiểu luận được hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn! 3 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG 1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống Cụ Đào Văn Mạnh và Vũ Thị Tâm sinh được 2 con trai; người con cả là ông Đào Văn Khắc, vợ ông Khắc là bà Đoàn Thị Như, cả hai ông bà đều làm nông nghiệp và sinh sống tại quê là xã M; người con thứ hai là ông Đào Văn Chung, thoát ly khỏi gia đình từ năm 1959 vào làm công nhân trong một nhà máy tại thị xã Q, 1979 ông Chung cưới vợ là bà Lê Thị Thúy, được nhà máy phân phối cho vợ chồng ông bà một căn hộ tập thể có diện tích 24 m². 1.2. Mô tả tình huống Vợ chồng ông Khắc, bà Như sinh được 3 người con: 2 trai và 1 gái; con trai cả là Đào Văn Thọ, con gái là Đào Thị Phượng và con trai út là Đào Văn Trọng. Vợ chồng ông Chung, bà Thúy cũng sinh được 3 người con, nhưng người con đầu và người con thứ hai đều bị bệnh và đã chết khi mới được 2 - 3 tuổi; người con thứ 3 là Đào Văn Tiến, sinh năm 1972. Lúc còn nhỏ, Tiến hay ốm đau phải thường xuyên nằm viện, nhiều người thấy vậy khuyên vợ chồng ông Chung nên cho Tiến làm con nuôi người khác hoặc nhờ người khác nuôi hộ thì mới có cơ may nuôi được. Tin theo lời khuyên đó, khi Tiến lên 2 tuổi, ông Chung bàn bạc với vợ nhờ vợ chồng anh chị mình là ông Khắc, bà Như giúp nhận cháu về nhà làm con nuôi. Thấu cảnh vất vả đường con cái của vợ chồng em trai, ông bà Khắc đã đồng ý và đến cơ quan tư pháp tại địa phương để làm thủ tục đăng ký nhận Tiến làm con nuôi, từ đó Tiến về ở hẳn với bố, mẹ nuôi (tức là bác ruột) tại xã M và được nuôi ăn, học cho đến năm 20 tuổi Tiến tốt nghiệp cấp 3 và thi đậu vào một trường đại học. Năm 1997, sau khi tốt nghiệp đại học và trở về thị xã Q làm việc, anh Tiến xây dựng gia đình và ở chung với bố mẹ đẻ trong căn hộ tập thể do nhà máy phân phối từ năm 1971. Trước khi các cụ Đào Văn Mạnh và Vũ Thị Tâm mất (năm 1970) đã để lại di chúc chia khu đất thổ cư đang ở làm 2 phần: một phần có diện tích là 320m² (trên đã xây dựng ngôi nhà cấp 4, có một bờ rào sát với thửa đất ao của hợp tác xã) cho vợ chồng ông Khắc; phần còn lại có diện tích 200m² (là đất vườn) cho vợ chồng ông Chung. 4 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên Năm 1983, do cần có kinh phí để tu sửa trường tiểu học nên Ủy ban nhân dân xã M đã “bán” cho gia đình ông Khắc toàn bộ thửa đất ao (có vị trí liền kề thửa đất 320 m² mà gia đình ông Khắc đang ở) diện tích 400 m² với mục đích để nuôi cá. Việc mua bán này có giấy thu tiền viết tay do cán bộ địa chính xã ký nhận, đồng thời còn được ghi vào một quyển sổ thu của địa chính xã, có chữ ký của người nộp tiền. Tuy nhiên, sau khi đã trả xong tiền cho xã M, gia đình ông Khắc đã tự ý san lấp ao, gộp chung vào thửa đất 320 m² mà gia đình ông đang ở. Đến năm 1985, thửa đất 400 m² lọt giữa khu dân cư, đồng thời nhân việc người con trai cả của ông là anh Thọ cưới vợ và xin ra ở riêng, nên ông đã xây một ngôi nhà cấp 4 kiên cố trên phần diện tích 400 m² nêu trên (nhưng để được hướng tốt nên ngôi nhà được xây có một gian đốc lấn vào thửa đất 320 m² cũ) và cho vợ chồng anh Thọ toàn bộ tài sản nhà đất này. Vợ chồng anh Thọ đã ở ổn định, đóng thuế nhà đất đầy đủ từ đó đến nay. Còn vợ chồng ông Khắc và người con trai út vẫn ở tại ngôi nhà cũ trên diện tích đất 320m² mà ông Khắc được chia thừa kế năm xưa (người con gái của ông Khắc đã lấy chồng và ở nhà chồng) và cũng trong thời gian này, xã M tổ chức thực hiện việc đăng ký đất đai, gia đình ông làm đơn xin đăng ký toàn bộ diện tích 720m² đất (gồm cả phần được thừa kế và phần đất mua thêm của xã M), nhưng Ủy ban nhân dân xã khi đó chỉ cho đăng ký và vào sổ đăng ký ruộng đất cho gia đình ông Khắc phần diện tích 320m² có nguồn gốc được thừa kế, phần diện tích đất này có số hiệu là thửa số 124 thuộc Tờ bản đồ địa chính số 6. Đầu năm 2005, gia đình ông Khắc có đơn đề nghị Ủy ban nhân dân huyện N xem xét, cho được chia tách thửa đất 720m² làm hai: một phần có diện tích 400 m² để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Thọ, phần 320 m² còn lại để cấp giấy chứng nhận cho con trai út, nhưng Ủy ban nhân dân huyện N chỉ đồng ý tách thửa và cấp giấy chứng nhận cho cả hai trường hợp nêu trên nếu gia đình ông Khắc nộp tiền chuyển mục đích sử dụng đất cho phần diện tích 400m², với lý do phần diện tích đất này có nguồn gốc là đất ao. Tuy nhiên, gia đình ông không chịu nộp tiền chuyển mục đích sử dụng đất với lý do: Đây là đất ông “mua” của xã M nên ông có quyền xây dựng nhà ở trên phần diện tích đất 5 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên này; hơn nữa, từ khi xây nhà trên phần diện tích đất mua đó, con trai ông đã ở liên tục, đóng thuế nhà đất đầy đủ cho đến nay. Sự việc bùng nhùng cho đến nay mặc dù gia đình ông đã nhiều lần gửi đơn khiếu nại đến xã M, huyện N nhưng vẫn chưa được giải quyết. Gia đình ông Chung, do điều kiện nhà ở tập thể quá chật chội, nên sau khi vợ chồng anh Tiến sinh con đầu lòng, ông đã bán căn hộ tập thể do nhà máy phân phối, đồng thời về quê bán toàn bộ phần diện tích đất 200m² được thừa kế để thêm tiền mua đất, xây nhà trên thị xã Q; sau khi nghỉ hưu ông bà rất muốn có một ngôi nhà nhỏ ở quê để về nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, nhưng do không có điều kiện về kinh tế, hơn nữa trên địa bàn xã M lúc này có nhiều dự án đầu tư, nên giá đất tăng vọt, vì vậy, nguyện vọng về mua đất ở quê của ông bà Chung khó có thể thực hiện được. Biết em có nguyện vọng như vậy nên ông Khắc bàn bạc với vợ con quyết định cho ông Chung 60m² trên thửa đất mình đang ở để ông Chung xây nhà, nhưng ông Chung từ chối không nhận. Đầu năm 2006, ông Khắc bị bệnh hiểm nghèo, chết. Trước đó, ông Khắc đã viết giấy (có xác nhận của vợ và các con ông và chứng nhận của Ủy ban nhân dân xã M) đồng thời đã cắm mốc ranh giới chia cho anh Tiến - con trai em mình 60m² đất trên thửa đất số 124 thuộc tờ bản đồ địa chính số 6 mà vợ chồng ông đang ở để anh Tiến xây nhà. Sau khi ông Khắc chết được ít lâu, và trong lúc vụ việc khiếu nại về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình bà Như chưa được Ủy ban nhân dân xã M, huyện N giải quyết, thì anh Tiến tiến hành xây tường rào xung quanh diện tích đất được ông Khắc cho và rao bán để lấy tiền thêm vốn kinh doanh. Do là đất của tổ tiên để lại, nên bà Như và các con bà khuyên can anh Tiến không nên bán, nhưng vợ chồng anh Tiến không nghe. Thấy vậy, các con bà Như đã tổ chức phá bỏ bức tường nói trên. Sau đó, ngày 20 tháng 9 năm 2014, bà Như và các con bà đã làm đơn gửi lên UBND xã M để đòi lại 60m² đất mà ông bà Khắc đã cho anh Tiến với hai lý do: Đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên chưa được chia tách để bán; ông Chung đã được thừa kế 200 m² đất của các 6 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên cụ để lại, hơn nữa anh Tiến chỉ là con nuôi của ông Khắc và bà Như nên không được thừa kế phần tài sản, đất đai của gia đình bà. Sau khi nhận đơn của bà Như, Ủy ban nhân dân xã M đã chuyển hồ sơ lên Ủy ban nhân dân huyện N đề nghị giải quyết. Ủy ban nhân dân huyện đã chuyển hồ sơ trên sang Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện để nghiên cứu, đề xuất. Sau khi xem xét toàn bộ hồ sơ, Phòng Tài nguyên và Môi trường đã báo cáo và trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện ký Quyết định số 15/QĐ-UB ngày 10 tháng 10 năm 2014 về việc giải quyết đơn đòi lại đất của bà Như với nội dung yêu cầu anh Tiến phải phá bỏ tường rào xây, trả lại 60 m² đất nói trên cho gia đình bà Như. Sau khi nhận được Quyết định của Chủ tịch UBND huyện Ủy ban nhân dân huyện N, ngày 20 tháng 10 năm 2007, anh Tiến lại tiếp tục gửi đơn khiếu nại lên phòng Tiếp dân của Ủy ban nhân dân huyện N khiếu nại Quyết định số 15/QĐ-UB, ngày 10 tháng 10 năm 2014. Ngày 28 tháng 10 năm 2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện N ra Quyết định số 19/QĐ-UB, bác đơn của anh Tiến, đồng thời yêu cầu anh Tiến phải thực hiện ngay việc trả lại đất cho bà Như; sau 45 ngày kể từ ngày ký Quyết định, nếu không sẽ bị cưỡng chế theo quy định của pháp luật. Sau khi nhận được Quyết định số 19/QĐ-UB, ngày 28 tháng 10 năm 2014 của Ủy ban nhân dân huyện N, anh Tiến thấy không thỏa đáng nên đã tiếp tục gửi đơn kiếu nại đến Ủy ban nhân dân thành phố C đề nghị xem xét giải quyết. II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG 2.1. Mục tiêu Căn cứ diễn biến sự việc để phân tích rõ từng nội dung cụ thể, phân tích nguyên nhân sự việc một cách khách quan, toàn diện, cụ thể, trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành, kết hợp quy chuẩn đạo đức xã hội, phong tục, tập quán địa phương để tìm ra các phương án giải quyết và lựa chọn được phương án hiệu quả nhất và tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, công dân, bảo đảm ổn định trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn hòa thuận trong gia đình, làng xóm. 7 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên 2.2. Cơ sở lý luận Khi giải quyết các tình huống cụ thể về tranh chấp đất đai, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đai dù chỉ là một người công dân bình thường, hay một đơn vị của Nhà nước đều phải bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, công bằng, dân chủ trước pháp luật. Đây là một vấn đề rất có ý nghĩa, vì trên thực tế có không ít trường hợp các cơ quan có thẩm quyền giải quyết không đúng những quan hệ đất đai theo luật định, điều đó không những gây thiệt hại kinh tế cho người có quyền sử dụng đất hợp pháp, mà còn để lại những hậu quả không tốt, làm giảm lòng tin của nhân dân vào các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Giải quyết có hiệu quả các tranh chấp đất đai và thực hiện nghiêm túc luật đất đai chính là nhằm tăng cường pháp chế Xã hội chủ nghĩa, ổn định chính trị, giữ vững trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy khi giải quyết các tình huống cần phải phân tích kỹ nội dung, diễn biến, nguyên nhân dẫn đến sự việc để tìm ra phương án giải quyết tối ưu nhất. 2.3. Phân tích tình huống Theo nội dung tình huống trên, việc khiếu nại về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình bà Như và tranh chấp đất đai giữa bà Như với anh Tiến cần phải phân tích cụ thể về trình tự thủ tục giải quyết nội dung đơn khiếu nại của các cơ quan đối với bà Như (Uỷ ban nhân dân xã M, Uỷ ban nhân dân huyện N, phòng Tài nguyên Môi trường huyện N và thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, việc áp dụng pháp luật để giải quyết sự việc này như thế nào? Từ đó mới tìm ra các phương án giải quyết hiệu quả. Cụ thể như sau: 2.3.1. Trình tự, thủ tục giải quyết Căn cứ hồ sơ vụ việc, cơ quan chức năng của Thành phố C cần tham mưu với lãnh đạo chỉ đạo các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương liên quan xem xét, giải quyết vụ việc theo đúng thẩm quyền. a) Về tranh chấp đất đai Ủy ban nhân dân xã M sau khi nhận đơn của bà Như đã không tổ chức hòa giải tại cơ sở để gia đình bà Như với gia đình anh Tiến cùng nhau thương 8 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên lượng với sự hỗ trợ của các cán bộ chuyên môn và cán bộ các tổ chức chính trịxã hội khác tại thôn, mà chuyển ngay đơn đến Ủy ban nhân dân huyện để giải quyết là trái với trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai quy định tại khoản 2, 3 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013. Cụ thể như sau: “2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải ”. “3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai”. b) Về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất - Theo quy định tại các khoản 2 Điều 100 Luật Đất đai 2013 thì một trong các điều kiện để được việc cấp giấy chứng nhận là: “2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất”. Như vậy, việc Ủy ban nhân dân xã M thụ lý hồ sơ chuyển cho Ủy ban nhân dân huyện N và Ủy ban nhân dân huyện N lại chuyển hồ sơ đó cho phòng Tài nguyên và Môi trường để xem xét đề xuất giải quyết trong khi biết rõ thửa đất trên hiện đang có tranh chấp là không đúng với quy định của pháp luật về đất đai. - Mặt khác, theo quy định tại khoản 2 Điều 60 Nghị định 43/2014/NĐCP của Chính phủ thì: 9 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên “1. Việc nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định như sau: Cơ quan tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục đăng ký đất đai, tài sản khác gắn liền với đất; cấp, cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận là Văn phòng đăng ký đất đai. Nơi chưa thành lập Văn phòng đăng ký đất đai thì Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh tiếp nhận hồ sơ đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện dự án đầu tư, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện tiếp nhận hồ sơ đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư có nhu cầu nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân cấp xã thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả. Trường hợp đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất; cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Ủy ban nhân dân cấp xã phải chuyển hồ sơ đến Văn phòng đăng ký đất đai. Vì vậy, nếu giả sử không có chuyện tranh chấp về đất đai xảy ra đối với thửa đất số 124 thuộc Tờ bản đồ địa chính số 6 như đã nêu trên, thì việc chuyển hồ sơ của Ủy ban nhân dân xã M và huyện N là không đúng với quy định của pháp luật. 2.3.2. Thẩm quyền giải quyết a) Về tranh chấp đất đai Trước hết, để xác định đúng thẩm quyền giải quyết trường hợp khiếu nại nêu trên, cần phải làm rõ việc sử dụng đất của gia đình bà Như thuộc trường hợp có giấy tờ về sử dụng đất hay không, chỉ sau khi xác định được rồi thì mới xác định thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp trên là thuộc cơ quan nào. Theo nội dung tình huống đã nêu thì thửa đất số 124 thuộc Tờ bản đồ địa chính số 6 đã được đăng ký trong Sổ Đăng ký ruộng đất. Như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013 thì phần diện tích này là thuộc 10 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên trường hợp có giấy tờ về quyền sử dụng đất. Và theo quy định tại khoản 1 Điều 203 của Luật Đất đai 2013 thì trường hợp tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân, cụ thể như sau: Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau: “1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết”. Vì vậy, việc Ủy ban nhân dân xã M chuyển hồ sơ cho Ủy ban nhân huyện N để giải quyết là không đúng thẩm quyền. b) Về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất: Việc tách thửa đất số 124 thuộc Tờ bản đồ địa chính số 6 với phần diện tích đất có nhà ở do anh Thọ đang sử dụng và xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất ở có diện tích 400m² là thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện N. Tuy nhiên, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 23 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai. Cụ thể như sau: “Trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền đã được sử dụng ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch thì người đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất đã được giao theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 của Nghị định này”. Thửa đất anh Thọ đang sử dụng để ở đã đủ các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 23 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP nói trên, nên được cấp giấy chứng nhận. Việc Ủy ban nhân dân huyện N yêu cầu phải nội tiền sử dụng đất 11 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên thì mới cho tách thửa để cấp giấy chứng nhận là không đúng quy định tại Khoản 2 Điều 23 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP. 2.3.3. Về nội dung của các đơn khiếu nại a) Nội dung đơn khiếu nại về việc đòi lại đất của bà Như gồm 2 lý do: - Thứ nhất là, đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên chưa được chia tách để chuyển nhượng. - Thứ hai là, ông Chung đã được thừa kế 200m² đất của các cụ để lại, hơn nữa anh Tiến chỉ là con nuôi của ông bà Như nên không được thừa kế phần tài sản, đất đai của gia đình bà. Cả 2 lý do mà bà Như nêu trên đều không phù hợp với các quy định của pháp luật về đất đai. Cụ thể: - Việc chia tách đất đai để chuyển nhượng không chỉ căn cứ vào việc thửa đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa, trong nhiều trường hợp, nếu người sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Khoản 1 điều 100 của Luật Đất đai 2013, đất không có tranh chấp, thì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất vẫn được tiến hành bình thường. - Quyền sử dụng đất của anh Tiến đối với phần diện tích 60m² đất mà anh Tiến được ông Khắc cho (có giấy tờ) không liên quan gì đến việc ông Chung (bố anh Tiến) đã được thừa kế 200 m² mà các cụ Đào Văn Mạnh và Vũ Thị Tâm đã để thừa kế từ năm 1970. Hơn nữa, việc ông bà Khắc nhận anh Tiến làm con nuôi đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo đúng quy định tại Điều 72 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014: “Việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và ghi vào Sổ hộ tịch”. Vì vậy, anh Tiến có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của một thành viên trong gia đình ông Khắc, được thừa kế quyền sử dụng đất mà ông Khắc để lại theo quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 179 Luật Đất đai năm 2013, cụ thể như sau: “Cá nhân sử dụng đất có quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của mình theo di chúc hoặc theo pháp luật. 12 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên Hộ gia đình được Nhà nước giao đất, nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Tuy nhiên, khi ông Khắc mất (thời điểm mở thừa kế) có để lại di chúc cho anh Tiến 60m² đất. Như vậy, theo quy định tại Điều 636 Bộ Luật dân sự năm 2005 thì anh Tiến nhận thừa kế không thuộc trường hợp thừa kế theo pháp luật mà thuộc trường hợp thừa kế theo di chúc. Di sản được nhận tùy thuộc vào ý chí của ông Khắc (người để di chúc) theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 648 của Bộ Luật Dân sự năm 2005, người lập di chúc có quyền: Phân định phần di sản cho từng người thừa kế. Vì vậy, việc bà Như cho rằng anh Tiến chỉ là con nuôi, không được nhận thừa kế là không đúng với các quy định nêu trên. b) Về nội dung khiếu nại quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân huyện N mà anh Tiến gửi Ủy ban nhân dân huyện: Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy việc khiếu nại là có cơ sở pháp lý. Đồng thời, việc Ủy ban nhân dân huyện N ban hành 02 Quyết định (Quyết định số 15/QĐ-UB, ngày 10 tháng 10 năm 2014 và Quyết định số 19/QĐ-UB, ngày 28 tháng 10 năm 2014) bác đơn khiếu nại của anh Tiến, buộc anh Tiến phải trả lại đất cho bà Như là trái quy định của pháp luật hiện hành. Qua phân tích ở trên cho thấy: Vụ việc tranh chấp giữa bà Như với anh Tiến lúc đầu không phải là vụ tranh chấp phức tạp, khó giải quyết, những căn cứ để hai bên dựa vào đó đưa ra các yêu sách thực ra đã được pháp luật hiện hành quy định rõ ràng, cụ thể, có thể tiến hành xem xét, kết luận ngay trong bước hòa giải tại cơ sở. Song, do làm không tốt công tác hòa giải ngay từ cơ sở nên vụ việc ngày càng phức tạp hơn, việc kiện tụng, khiếu nại đến nhiều cấp, nhiều nơi, tốn kém tiền của, thời gian của Nhà nước và công dân. 2.4. Nguyên nhân dẫn đến xảy ra tình huống 2.4.1. Nguyên nhân chủ quan Cán bộ, công chức là người có trách nhiệm thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế, do nhiều nguyên nhân mà một phận không nhỏ cán bộ, công chức tại địa phương, 13 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên nhất là cấp cơ sở rất lúng túng, thậm chí không biết xử lý mỗi khi các trường hợp cụ thể phát sinh; tham mưu, đề xuất và tổ chức thực hiện phương án xử lý không theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Có thể liệt kê những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên như sau: a) Một bộ phận cán bộ, công chức có năng lực chuyên môn nhưng vì công việc quá nhiều nên không đủ thời gian để nghiên cứu, cập nhật các văn bản quy phạm pháp luật mới mà Trung ương đã ban hành. Một bộ phận cán bộ, công chức khác, trình độ, năng lực chuyên môn bị hạn chế không cập nhật kịp hoặc có cập nhật nhưng hiểu không đúng các quy định mới mà Trung ương đã ban hành; ngoài ra còn một bộ phận cán bộ, công chức thiếu trách nhiệm, cửa quyền, độc đoán, tiêu cực, đùn đẩy, né tránh trong quá trình xử lý công việc. Việc ban hành các quyết định xử lý của các cơ quan chuyên môn quan liêu, phiến diện, thiếu công minh, làm cho tính chất vụ việc phức tạp hơn. b) Công tác bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn, năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ, công chức; đội ngũ cán bộ quản lý chưa được coi trọng; một bộ phận cán bộ được cử đi đào tạo nhưng không tận dụng cơ hội để tích lũy kiến thức, kinh nghiệm. c) Công tác kiểm tra, thanh tra chưa được quan tâm thường xuyên, đúng mức, để sự việc tranh chấp xảy ra lâu ngày nhưng không giải quyết hoặc giải quyết thiếu dứt điểm, không đúng quy định, làm cho tình hình và mức độ tranh chấp ngày một phức tạp hơn. 2.4.2. Nguyên nhân khách quan a) Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật ở cở sở còn hình thức, chưa kịp thời, dẫn đến tình trạng một bộ phận lớn người dân chưa am hiểu đúng pháp luật, chưa nhận thức đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình đối với Nhà nước với tổ chức, cá nhân khác khi xử lý các mối quan hệ xã hội nhất là những mối quan hệ phức tạp như trong lĩnh vực đất đai. b) Do quỹ đất ở ngày càng khó khăn, quỹ đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp; giá đất ở, đất nông nghiệp ngày một gia tăng, làm cho tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất nông nghiệp ngày càng trầm trọng. Người dân thiếu đất, 14 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên không còn đất sản xuất; không đủ việc làm, thất nghiệp ngày càng nhiều, tiêu cực xã hội gia tăng. c) Các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai trong những năm gần đây vừa quá nhiều, chính sách lại luôn luôn thay đổi, số vụ tranh chấp đất đai ngày càng nhiều và phức tạp, việc xử lý gặp khó khăn, để kéo dài và ngày càng phức tạp hơn. 2.5. Hậu quả tình huống Vụ tranh chấp giữa bà Như với anh Tiến lúc đầu không phải là vụ tranh chấp phức tạp, khó giải quyết, những căn cứ để hai bên dựa vào đó đưa ra các yêu sách thực ra đã được pháp luật hiện hành quy định rõ ràng, cụ thể, có thể tiến hành xem xét, kết luận ngay trong bước hòa giải tại cơ sở. Tuy nhiên, do việc giải quyết của Ủy ban nhân dân xã M, huyện N và cơ quan tham mưu là phòng Tài nguyên Môi trường huyện không đúng thẩm quyền (trong việc giải quyết tranh chấp đất đai) và việc áp dụng luật đất đai trong trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình bà Như sai, dẫn đến việc khiếu nại nhiều cấp, nhiều nơi, tốn kém tiền của, thời gian, làm cho tình hình phức tạp hơn; đồng thời, làm cho mối quan hệ tình cảm giữa gia đình bà Như và anh Tiến không được hàn gắn mà ngày càng căng thẳng hơn. III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG 3.1. Mục tiêu xử lý tình huống 3.1.1. Mục tiêu chung - Giải quyết tranh chấp đất đai phải đảm bảo kỷ cương pháp luật, phù hợp với nguyên tắc cơ bản mà Hiến pháp, Luật Đất đai hiện hành đã nêu: đất đai thuộc sở hữu của toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. - Giải quyết tranh chấp đất đai phải thấu tình, đạt lý, không để kéo dài, đảm bảo giảm thiểu thiệt hại kinh tế (nếu có); bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của người dân; đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, các lợi ích kinh tế - xã hội; vừa giữa nghiêm kỷ cương phép nước vừa phải kế thừa và phát triển truyền thống đạo đức tốt đẹp của cha ông. 15 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên 3.1.2. Mục tiêu cụ thể Mỗi vụ tranh chấp đất đai ngoài những đặc điểm chung còn có những đặc điểm riêng. Vì vậy, mục tiêu cụ thể vừa phải đảm bảo giải quyết được những điểm chung trong tranh chấp đất đai nhưng cũng vừa phải bảo đảm giải quyết được những đặc điểm mang tính đặc thù của từng vụ tranh chấp. Các mục tiêu cụ thể đảm bảo giải quyết cho những điểm chung trong tranh chấp đất đai gồm có: - Đối tượng cần giải quyết; - Cơ quan có thẩm quyền giải quyết; - Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tranh chấp; - Những đảm bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tranh chấp được thực thi. - Giải quyết nhanh, hiệu quả và dứt điểm các tranh chấp. 3.2. Yêu cầu Để bảo đảm thực hiện các mục tiêu cụ thể như đã nêu trên, tổ chức, cá nhân được giao trách nhiệm giải quyết vụ việc tranh chấp phải thực hiện đầy đủ, kịp thời các yêu cầu sau: - Nhanh chóng kiểm soát được tình huống, không để tình huống phát triển phức tạp thêm; đồng thời nhận diện đầy đủ, kịp thời bản chất của vụ tranh chấp để xác định đường hướng giải quyết. - Phân loại vụ việc tranh chấp. - Xác định nguồn gốc tranh chấp, các khoảng thời gian liên quan đến việc áp dụng cơ chế, chính sách, pháp luật có liên quan để làm căn cứ giải quyết. - Tập hợp đầy đủ hồ sơ, tài liệu, số liệu liên quan đến vụ việc tranh chấp. 3.3. Xây dựng phƣơng án giải quyết Đối với trường hợp tranh chấp, khiếu nại nhiều vấn đề (khiếu nại về việc đòi lại đất nhận thừa kế, khiếu nại về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất) như đã nêu ở phần trên. Tuy nhiên, để giải quyết khiếu nại của bà Như về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì trước hết phải giải quyết được tranh chấp đất đai giữa bà Như với anh Tiến. Từ đó, có thể đưa ra một số phương án giải quyết sau để phân tích, lựa chọn: 16 Tiểu luận tốt nghiệp Lớp QLHCNN ngạch Chuyên viên 3.3.1. Các phương án giải quyết a) Phương án 1: Giả thuyết Đội ngũ cán bộ, công chức tại địa phương nắm vững chính sách, luật pháp; có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững, có trách nhiệm cao trong công việc. Người dân tại địa phương am hiểu pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật. Đây là phương án tốt nhất trong mọi phương án. Muốn thực hiện được theo phương án này, thì cấp ủy phải làm tốt công tác chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ; cán bộ, đảng viên phải là hạt nhân trong tất cả các phong trào. Chính quyền địa phương phải thường xuyên chăm lo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức và người dân, xây dựng tủ sách văn hóa - pháp luật để người dân có điều kiện tiếp cận với các chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, phải thường xuyên quan tâm xây dựng làng văn hóa, tổ dân phố văn hóa, gia đình văn hóa. Tuy nhiên, hạn chế của phương án này là không phải mọi cán bộ, công chức, đảng viên và người dân đều có chung nhận thức và có trách nhiệm cao như đòi hỏi. Hơn nữa quan hệ đất đai rất phức tạp, đất đai lại là một tài sản lớn đối với con người. Vì vậy, khi bị các lợi ích kinh tế chi phối thì rất dễ xẩy ra các tranh chấp, nếu không có các phương án khác dự phòng thi khi phát sinh tranh chấp sẽ rất khó giải quyết. b) Phương án 2: Thuyết phục, vận động Phương án này áp dụng đối với các trường hợp các vụ việc tranh chấp đất đai đơn giản, tính chất và mức độ sự việc ít nghiêm trọng. Phương án này có ưu điểm là đơn giản, ít tốn kém, giữ được mối quan hệ tình cảm gia đình, láng giềng, đoàn kết trong xây dựng cuộc sống mới tại cộng đồng thôn, bản, khu dân cư, văn minh. Để thực hiện có hiệu quả phương án này, địa phương phải xây dựng được Mặt trận tổ quốc và các tổ chức đoàn thể thành viên của Mặt trận vững mạnh, có uy tín, có năng lực và kiến thức, hiểu biết về pháp luật thì mới giải quyết có tình có lý, hài hòa giữa các bên tranh chấp. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan