Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tìm hiểu các biện pháp mà ngân hàng trung ương áp dụng để kiểm soát mức cung tiề...

Tài liệu Tìm hiểu các biện pháp mà ngân hàng trung ương áp dụng để kiểm soát mức cung tiền từ năm 2010 2014

.DOC
35
272
92

Mô tả:

CÁC TỪ VIẾT TẮT NHTM: Ngân hàng thương mại NHTW: Ngân hàng trung ương DTBB: dự trữ bắt buộc NHNN: Ngân hàng nhà nước CSTT: Chính sách tiền tệ CPI: chỉ số giá tiêu dùng TCTD: Tổ chức tín dụng 1 LỜI MỞ ĐẦU Ổn định tài chính tuy không phải là nội dung mới nhưng vấn đề này vẫn luôn nhận được sự quan tâm hàng đầu của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế cũng như các khu vực trên thế giới. Các quốc gia trên thế giới đều nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của ổn định tài chính như một điều kiện cần thiết để ổn định kinh tế vĩ mô do sự gắn kết chặt chẽ của hai yếu tố này. Lĩnh vực tiền tệ ngân hàng là một trong những lĩnh vực có độ nhạy cảm cao nhất, nó tác động tới hầu hết các ngành nghề trong nền kinh tế hiện nay. Do vậy, ổn định tiền tệ, ổn định hệ thống ngân hàng được xem là nội dung chủ chốt quan trọng, chính yếu trong ổn định hệ thống tài chính. Trong công cuộc ổn định tài chính, các quốc gia đều nhận thấy vai trò quan trọng của NHTW, bởi NHTW có sự tập trung và am hiểu thị trường tài chính, các định chế và cơ sở hạ tầng – là những vấn đề chính yếu để thực hiện “chính sách an toàn vĩ mô” nhằm ổn định tài chính. Tại Việt Nam, cho đến nay, hệ thống ngân hàng vẫn đóng vai trò cốt lõi trong hệ thống tài chính với tổng quy mô tín dụng của hệ thống ngân hàng chiếm trên 80% tổng cung ứng vốn ra nền kinh tế hàng năm. Vì vậy, vai trò kiểm soát mức cung tiền của NHTW ra nền kinh tế ngày càng quan trọng. Nhận thức được điều này, em lựa chọn đề tài “Tìm hiểu các biện pháp mà Ngân hàng Trung ương áp dụng để kiểm soát mức cung tiền từ năm 2010 - 2014” làm tiểu luận kinh tế vĩ mô để nhìn lại chặng đường điều hành chính sách tiền tệ của NHTW trong những năm qua, từ đó đưa ra một số kiến nghị của bản thân để hoàn thiện hệ thống điều hành chính sách tiền tệ của NHTW, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định, tăng trưởng kinh tế bền vững trong tương lai. Do kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế, em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn! 2 CHƯƠNG 1 – GIỚI THIỆU CHUNG. 1.1/ Giới thiệu chung về kinh tế học vĩ mô. Kinh tế vĩ mô nghiên cứu hoạt động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và quan tâm đến những vấn đề mà bất cứ quốc gia nào trong cơ chế thị trường đều gặp phải, đó là: Làm thế nào để tăng trưởng nhanh và ổn định; Làm thế nào để kiềm chế lạm phát; Làm thế nào để tạo ra nhiều việc làm cho người lao động; Làm thế nào để ổn định tỷ giá hối đoái và cân bằng cán cân thanh toán; làm thế nào để phân bổ nguồn lực một cách hợp lý và phân phối của cải một cách công bằng giữa các thành viên trong xã hội. 1.1.1/ Đối tượng nghiên cứu của Kinh tế học vĩ mô. Kinh tế vĩ mô là một phân ngành của kinh tế học nghiên cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Những vấn đề then chốt được kinh tế học vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao gồm: mức sản xuất, thất nghiệp, mức giá cả chung và cán cân thương mại của một nền kinh tế. Phân tích kinh tế vĩ mô hướng vào giải đáp câu hỏi: Điều gì quyết định giá trị hiện tại của các biến số này? Điều gì quyết định sự thay đổi của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn? Nói cách khác, kinh tế vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của một quốc gia trước những vấn đề kinh tế và xã hội cơ bản như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hóa và tư bản, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập giữa các thành viên trong xã hội. Một quốc gia có thể có những lựa chọn khác nhau tùy thuộc vào các ràng buộc về nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị - xã hội. Song sự lựa chọn đúng đắn nào cũng cần đến sự hiểu biết sâu sắc về các hoạt động mang tính khách quan về hệ thống kinh tế. 1.1.2/ Phương pháp nghiên cứu. Kinh tế học vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng thể. Theo phương pháp này, kinh tế vĩ mô xem xét sự cân bằng đồng thời của tất 3 cả các thị trường (thị trường hàng hóa, thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường tài chính), xem xét đồng thời khả năng cung cấp sản lượng của toàn bộ nền kinh tế, khả năng tiêu dùng của toàn bộ nền kinh tế, từ đó xác định đồng thời mức giá cả và sản lượng cân bằng của nền kinh tế. Đây là nhân tố quyết định đến hiệu quả của hệ thống kinh tế. Thực chất, việc khảo sát mỗi biến số này trong những khoảng thời gian khác nhau hiện tại, ngắn hạn, dài hạn. Mỗi khoảng thời gian đòi hỏi chúng ta phải sử dụng các mô hình thích hợp để tìm ra các nhân tố quyết định đến các biến số kinh tế vĩ mô này. Kinh tế học vĩ mô sẽ cung cấp những kiến thức và công cụ phân tích kinh tế thích hợp. Những kiến thức và công cụ phân tích này đã được đúc kết từ nhiều công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học kinh tế thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Ngoài ra, kinh tế vĩ mô còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu, phân tích phổ biến như tư duy trừu tượng, phân tích thống kê số lớn, mô hình toán và đặc biệt là các mô hình kinh tế lượng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong phân tích kinh tế vĩ mô. 1.2/ Mức cung tiền và vai trò kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng trung ương. 1.2.1/ Tiền cơ sở (H). Ngân hàng trung ương là cơ quan độc quyền phát hành tiền. Lượng tiền phát hành chủ yếu là tiền mặt được gọi là tiền cơ sở (cơ số của tiền). Trong quá trình lưu thông, một phần của lượng tiền này được các tác nhân giữ lại ở dạng tiền mặt để chi tiêu dần, và một phần nằm lại tại các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng dưới dạng tiền dự trữ. Vậy lượng tiền cơ sở ban đầu bằng tiền mặt đang lưu hành và tiền mặt dự trữ ở các ngân hàng: H=U+R Trong đó: H: tiền cơ sở U: tiền mặt lưu hành R: tiền dự trữ trong các ngân hàng 4 Khi NHTM tham gia vào thị trường tiền tệ, thì việc xác định tổng lượng tiền trở nên phức tạp hơn bởi sự quay vòng bộ phận tiền cơ sở trong tay các ngân hàng. Sự quay vòng đã làm tăng mức cung tiền cơ sở còn được gọi là tiền mạnh lên nhiều lần. Mức cung tiền. Mức cung tiền là tổng số tiền có khả năng thanh toán. Nó bao gồm tiền mặt đang lưu hành và các khoản tiền gửi không kỳ hạn của các NHTM. Như vậy, mức cung tiền lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ sở, bởi hoạt động tạo ra tiền ngân hàng của hệ thống NHTM. Mức cung tiền trước hết được quyết định bởi quy mô của lượng tiền cơ sở và sau đó là khả năng tạo ra tiền của hệ thống NHTM nhờ số nhân tiền tệ. Hình 1: Mức cung tiền MS = U + D MS = mM.H Trong đó: H: tiền cơ sở được NHTW phát hành mM: số nhân tiền tệ MS: mức cung tiền U: tiền mặt lưu hành D: tiền gửi ở các NHTM 1.2.2/ Số nhân tiền. Số nhân của tiền là tỷ lệ khuếch đại lượng tiền cơ sở thông qua hoạt động của hệ thống NHTM và sự kiểm soát tiền tệ của NHTW. mM = MS / H 5 Nếu tỷ lệ dự trữ ở NHTM bằng tỷ lệ dự trữ thực tế của NHTW và mọi giao dịch trong nền kinh tế đều thông qua ngân hàng thì số nhân tiền mM = 1/rb Nhưng trong thực tế, một phần tiền được công chúng giữ lại dưới dạng tiền mặt (không gửi vào ngân hàng) và tỷ lệ dự trữ thực tế của NHTM (r a) có thể lớn hơn tỷ lệ DTBB. Trong hình 1, mức cung tiền bao gồm tiền mặt và tiền gửi không kỳ hạn. MS = U + D Gọi tỷ lệ giữ tiền mặt trong lưu thông so với tiền gửi sẽ là s = U/D, và tỷ lệ dự trữ thực tế ra = Ra/D. Trong đó: ra: tỷ lệ dự trữ thực tế của NHTM Ra: lượng dự trữ thực tế của NHTM D: tiền gửi H = U + Ra mM = = = = Từ công thức trên cho thấy số nhân tiền m M phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ thực tế của NHTM và phụ thuộc vào tỷ lệ giữa tiền mặt lưu hành và tiền gửi (s). * Tỷ lệ dự trữ thực tế ra càng nhỏ thì số nhân tiền càng lớn. Tỷ lệ dự trữ thực tế ra phụ thuộc các nhân tố sau: - Tỷ lệ DTBB do NHTW quy định. - Tính ổn định của các nguồn tiền mặt vào ra của các NHTM. - Sự thiệt hại do phải trả lãi suất nếu phải vay tiền khi thiếu hụt dự trữ. * Tỷ lệ giữa tiền mặt so với tiền gửi (s) càng nhỏ, số nhân tiền càng lớn. Tỷ lệ (s) phụ thuộc vào: - Thói quen thanh toán của dân chúng. - Tốc độ tăng của tiêu dùng. - Phụ thuộc vào khả năng sẵn sàng đáp ứng tiền mặt của các NHTM. - Trong trường hợp (s) rất nhỏ hoặc bằng 0 và ra = rb thì mM = 1/rb. Mức cung tiền có tác động mạnh mẽ đến trạng thái hoạt động của nền kinh tế. Vì tiền có chức năng là trao đổi nên khi hàng hóa và dịch vụ được sản 6 xuất ra nhiều hơn thì cũng cần thiết phải tăng lượng cung tiền và ngược lại. Mối quan hệ này được xác định trong phương trình trao đổi về lượng của tiền tệ. M.V = P.Q = GNPn Trong đó: M: mức cung tiền V: tốc độ lưu thông tiền tệ P: mức giá trung bình Q: sản lượng thực tế Có thể viết lại như sau: M= Giả sử tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tương đối ổn định thì mức cung tiền (M) cần phải được điều chỉnh theo GNP n. Sự thay đổi của mức cung tiền có tác động trực tiếp tới lãi suất thị trường tiền tệ và qua lãi suất tác động đến tiêu dùng, đầu tư, xuất nhập khẩu. Do vậy, việc kiểm soát mức cung tiền (M) được coi là một chính sách tiền tệ quan trọng đặc biệt trong quản lý nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Muốn kiểm soát được (M), ta có MS = H x mM, thì phải có khả năng tác động vào lượng tiền mạnh (H) và số nhân tiền tệ (m M). Vai trò này được NHTW đảm nhận. 1.2.3/ NHTW và vai trò kiểm soát tiền tệ của NHTW. * Chức năng của NHTW: - Ngân hàng của các NHTM: NHTW giữ các khoản dự trữ cho các NHTM, thực hiện tiến trình thanh toán cho hệ thống các NHTM và hoạt động như là một “người cho vay của phương sách cuối cùng” đối với NHTM trong trường hợp khẩn cấp như là rơi vào tình trạng không còn khả năng thanh toán. - Ngân hàng của Chính phủ: NHTW giữ các tài khoản cho Chính phủ, nhận tiền gửi và cho vay đối với Kho bạc nhà nước, hỗ trợ chính sách tài khóa của Chính phủ bằng việc mua tín phiếu của Chính phủ. - Kiểm soát mức cung tiền để thực thi chính sách tiền tệ nhằm ổn định và phát triển nền kinh tế. - Hỗ trợ giám sát và điều tiết hoạt động của thị trường tài chính. 7 * Thực thi chính sách tiền tệ: NHTW điều chỉnh mức cung tiền và các tỷ lệ lãi suất bằng nhiều công cụ khác nhau nhằm tác động vào lượng tiền mạnh (H) và số nhân tiền (m M). Ngoài ra, NHTW có thể trực tiếp kiểm soát có lựa chọn một số khoản tín dụng và một số biện pháp khác. (1) Nghiệp vụ thị trường mở: Thị trường mở là thị trường tiền tệ của NHTW được sử dụng để mua bán trái phiếu kho bạc của Nhà nước nhằm đạt được mục tiêu điều chỉnh lương tiền trong lưu thông. Các chứng từ có giá mà NHTW thường sử dụng để tiến hành nghiệp vụ thị trường mở là các chứng khoán kho bạc, vì thị trường của những chứng khoán này rất “lỏng” và có dung lượng kinh doanh lớn. Muốn tăng lượng cung tiền, NHTW sẽ mua trái phiếu ở thị trường mở. Kết quả là đã đưa thêm vào thị trường một lượng tiền cơ sở bằng cách tăng dự trữ ở các NHTM. Điều đó dẫn đến tăng khả năng cho vay và nhận gửi nhờ số nhân tiền tệ. Kết quả là cung tiền tăng gấp bội so với tiền mua trái phiếu của NHTW. Để có kết quả ngược lại, NHTW sẽ bán trái phiếu kho bạc của Nhà nước trên thị trường mở. Với cách vận hành như trên, nghiệp vụ thị trường mở có một số ưu điểm hơn so với các công cụ khác của CSTT, đó là: - NHTW có thể chủ động tiến hành mà không phải phụ thuộc vào nhu cầu của các ngân hàng trung gian. - Nghiệp vụ này tương đối linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Nếu mong muốn của NHTW là thay đổi dự trữ của các ngân hàng ở biên độ lớn, NHTW sẽ mua hoặc bán nhiều chứng khoán và ngược lại. - Nghiệp vụ này dễ dàng được đảo ngược lại khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành. Giả sử NHTW thấy rằng cung tiền tệ tăng quá nhanh do mua bán trên thị trường quá nhiều, thì NHTW có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở và ngược lại. - Nghiệp vụ thị trường mở có thể hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính. 8 Tuy nhiên, để phát huy hết hiệu quả của công cụ này, đòi hỏi hầu hết tiền trong lưu thông phải nằm ở tài khoản ngân hàng, nghĩa là phải có sự phát triển cao của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt. Mặt khác, phải có một thị trường tài chính phát triển. Vì vậy công cụ này được sử dụng thường xuyên nhất, hiệu quả nhất đối với NHTW của các nước công nghiệp phát triển – nơi có công nghệ ngân hàng tiên tiến và thị trường tài chính hoàn chỉnh. Còn đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, việc sử dụng công cụ này chưa mang lại hiệu quả cao. (2) Quy định tỷ lệ DTBB: Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàng trung gian phải đưa vào dự trữ theo luật định. Mức DTBB cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ lệ DTBB do NHTW quy định. Tỷ lệ DTBB là tỷ lệ phần trăm trên lượng tiền gửi mà ngân hàng trung gian huy động được, phải để dưới dạng dự trữ. Như vậy, mỗi ngân hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại sau khi đã trừ phần dự trữ bắt buộc, NHTW có thể hạn chế hoặc bành trướng khối tiền tệ mà hệ thống ngân hàng có khả năng cung ứng cho nền kinh tế. Một cách khái quát, khi NHTW tăng hoặc giảm tỷ lệ DTBB thì NHTW có thể làm giảm hoặc tăng hệ số tạo tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, và kết quả là khối lượng tín dụng mà các ngân hàng trung gian có thể cung ứng cho nền kinh tế giảm hoặc tăng. Nhìn chung, DTBB là công cụ mang tính chất hành chính của NHTW nhằm điều tiết mức cung tiền tệ của ngân hàng trung gian cho nền kinh tế, thông qua hệ số tạo tiền. Ưu điểm của việc sử dụng DTBB để kiểm soát cung tiền tệ là nó có thể tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và tác động một cách đầy quyền lực. Mặt khác, chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ DTBB thì tác động của nó đến khối tiền tệ là rất lớn. Tuy nhiên, ưu điểm vừa nêu cũng có mặt trái của nó. Đó là khi NHTW muốn thay đổi cung tiền tệ ở biên độ nhỏ, nó khó có thể thực hiện được nếu sử dụng công cụ này. Bên cạnh đó, việc thay đổi tỷ lệ DTBB cũng phải để cho các ngân hàng trung gian một thời gian đủ để tăng khoản dự trữ lên mức bắt buộc mới. 9 (3) Lãi suất chiết khấu: Chính sách chiết khấu là công cụ của NHTW trong việc thực thi CSTT, bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh. Khi NHTW cho vay các ngân hàng kinh doanh làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng, từ đó làm tăng thêm lượng tiền cung ứng. NHTW kiểm soát công cụ này chủ yếu bằng cách tác động đến giá cả khoản vay (lãi suất cho vay tái chiết khấu). Khi NHTW nâng lãi suất tái chiết khấu, tức làm cho giá cả khoản vay tăng, hạn chế cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm khả năng cho vay nền kinh tế của các ngân hàng kinh doanh giảm xuống, lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại, khi NHTW giảm lãi suất cho vay tái chiết khấu, giá khoản vay rẻ hơn, khuyến khích cho vay các ngân hàng kinh doanh, làm cho khả năng cho vay của ngân hàng kinh doanh đối với nền kinh tế tăng lên, lượng tiền cung ứng tăng lên. Ưu điểm của công cụ này: - Do việc vay mượn thực hiện trên nền giấy tờ có giá nên thời hạn vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả tương đối chắc chắn. - Thông qua biện pháp chiết khấu và tái chiết khấu, cụ thể là thông qua lãi suất chiết khấu, NHTW có thể thực hiện tốt vai trò người cho vay cuối cùng. Tuy nhiên, công cụ này cũng có những hạn chế nhất định: - NHTW có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt các NHTM phải đi vay, tức là NHTW có quyền lựa chọn vay hay không. Do vậy NHTW khó có thể kiểm soát được việc cung ứng tiền một cách có hiệu quả. Hơn nữa lại rất khó trong việc đảo ngược những thay đổi trong chính sách chiết khấu. - Khi NHTW ấn định một lãi suất đặc biệt nào đó tạo ra sự biến động khoảng cách giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất thị trường, dẫn tới thay đổi ngoài dự kiến khối lượng tiền vay, khó kiểm soát cung tiền tệ. (4) Hạn mức tín dụng: 10 Hạn mức tín dụng là khối lượng tín dụng tối đa mà NHTW có thể cung ứng cho tất cả các NHTM trong thời kỳ nhất định (năm hay quý), phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kỳ đó. Khi ổn định hạn mức tín dụng cho mỗi thời kỳ, NHTW thường căn cứ vào kế hoạch tăng trưởng kinh tế cộng với chỉ số lạm phát cho phép trong thời kỳ đó. Hạn mức tín dụng này không phải là chỉ tiêu ấn định cho toàn bộ nền kinh tế mà chỉ là chỉ tiêu ấn định đối với các doanh nghiệp. Các NHTM có thể thực hiện hạn mức tín dụng của mình lớn hơn hạn mức tín dụng mà NHTW ấn định cho ngân hàng mình nếu NHTM này huy động được lượng vốn lớn hơn. Vì vốn do các NHTM huy động và cho vay ra dù lớn hơn rất nhiều lần hạn mức tín dụng được NHTW cung ứng cũng không ảnh hưởng đến khối lượng tiền tệ vào hay rút ra khỏi lưu thông. Công cụ này có ưu điểm đó là một biện pháp mạnh có hiệu quả đáng kể. Thông qua đó, NHTW khống chế được lượng tiền cung ứng một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, trên cơ sở hạn mức tín dụng, NHTW tiến hành phân bổ hạn mức tín dụng. Cùng với thời gian, hạn mức có thời điểm phù hợp, có thời điểm lại không phù hợp. Điều này gây ra khó khăn cho các đơn vị khi nhu cầu của khách hàng tăng cao, trong khi đó các nguồn đáng kể hạn mức tín dụng cũng không đủ. Kiểm soát hạn mức là cách kiểm soát gò bó, cứng nhắc không phù hợp với cơ chế hiện nay, một cơ chế đòi hỏi sự quản lý phải hết sức mềm dẻo, uyển chuyển, khống chế hạn mức tín dụng có thể làm mất đi cơ hội đầu tư của một số ngân hàng, giảm khả năng điều tiết của NHTW. Vì vậy, việc điều chỉnh tăng hạn mức tín dụng không thể một sớm một chiều mà cần có thời gian, vì vậy tính kịp thời khó đảm bảo. Việc kiểm soát bằng hạn mức tín dụng có thể là một trong nhiều nguyên nhân đẩy lãi suất lên. Trong khi nhu cầu chiết khấu để vay NHTW của một số ngân hàng phát sinh không được giải quyết do hết hạn mức tín dụng thì ở một số ngân hàng khác hạn mức tín dụng lại tạm thời dư thừa. Ở đây, quan hệ trao đổi sẽ diễn ra và chi phí sẽ góp phần đẩy lãi suất lên. 11 CHƯƠNG 2 – CÁC BIỆN PHÁP KIỂM SOÁT MỨC CUNG TIỀN CỦA NHTW GIAI ĐOẠN 2010 – 2014. 2.1/ Thực trạng nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2010 – 2014. Năm 2010, chỉ số tiêu dùng CPI tháng 12 tăng 1,98% đẩy lạm phát cả nước ở mức 11,75% so với năm 2009. Con số này vượt gần 5% so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm (khoảng 8%). Trong khi đó, nếu tính bình quân từng tháng (cách tính mới của Tổng cục thống kê) thì lạm phát năm 2010 tăng 9,19% so với năm 2009. Bảng 1 – Diễn biến tốc độ tăng CPI năm 2010 và 2009. (Nguồn: Tổng cục thống kê) Ta có thể thấy lạm phát tăng cao những tháng đầu năm và cuối năm, mức tăng có độ vênh lớn, tháng cao nhất so với tháng thấp nhất lệch nhau đến hơn 1,5%. Tính chung CPI năm 2010, CPI giáo dục tăng mạnh nhất gần 20%, tiếp đó là hàng ăn 16,18%, nhà ở - vật liệu xây dựng 15,74%, các ngành giao thông, hàng hóa & dịch vụ khác, thực phẩm đều có mức tăng trên 10%. Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6%. Chỉ số giá vàng tăng 36,72%, chỉ số USD tăng 7,63%. Về CPI vùng miền, đáng chú ý là chỉ số CPI khu vực nông thôn tháng 12 tăng 2,04%, cao hơn 1,87% của khu vực thành thị. Bước sang năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng tuy vẫn ở mức cao nhưng đã có xu hướng giảm. 12 Bảng 2 – Diễn biến tốc độ tăng CPI năm 2011 và 2010 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 tăng 0,53% so với tháng trước, thấp hơn nhiều so với mức tăng 1,38% và 1,98% của cùng kỳ năm 2009 và 2010. Đây cũng là tháng thứ năm liên tiếp trong năm có chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp hơn 1%. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ, các nhóm có chỉ số giá tăng cao hơn mức tăng chung là: may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,86%; nhóm nhà hàng ăn uống tăng 0,69%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,86%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng thấp hơn mức tăng chung là: nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,51%, đồ uống và thuốc lá tăng 0,49%, văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,35%, thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,24%, giao thông tăng 0,16%, giáo dục tăng 0.05%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông có chỉ số giảm 0,09%. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 so với cùng kỳ năm trước tăng 18,13%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với bình quân năm 2010. Bảng 3 – Diễn biến tốc độ tăng CPI năm 2012. 13 (Nguồn: Tổng cục thống kê) Bảng 4 – So sánh tốc độ tăng CPI các tháng năm 2012. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2012 tăng 0,27% so với tháng trước, lạm phát 2012 được kiềm chế ở mức 6,81%. Trong năm 2012 có tới 7 tháng CPI chỉ tăng dưới 1% và hầu hết các tháng chỉ tăng dưới 0,5%. Cụ thể, theo phân tích của Tổng cục thống kê , CPI tăng không quá cao vào 2 tháng đầu năm (tăng 1% vào tháng 1 và tăng 1,37% vào tháng 2) nhưng tăng cao nhất vào tháng 9 với mức tăng 2,2%, chủ yếu do tác động của nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục. Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng đã chậm dần trong những tháng cuối năm. Nhìn lại năm 2012, Tổng cục trưởng Tổng cục thống kê Đỗ Thức cho biết, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 (tăng 6,81% so với cùng kỳ năm 2011) xấp xỉ mức tăng 6,52% của năm 2009, thấp hơn nhiều so với mức tăng 11,75% của năm 2010 và mức tăng 18,13% của năm 2011, nhưng lại là năm giá có nhiều biến động bất thường. Cụ thể chỉ số giá tiêu dùng tăng không quá cao vào 2 tháng đầu năm (0,1% vào tháng 1 và 1,37% vào tháng 2), nhưng tăng cao nhất vào tháng 9 với mức tăng 2,2%, chủ yếu do tác động của nhóm thuốc và dịch vụ y tế và nhóm giáo dục. Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng đã chậm dần trong các tháng cuối năm, điều này thể hiện tính kịp thời và hiệu quả của việc triển khai Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 26/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác quản lý, điều hành và bình ổn giá. 14 Theo Tổng cục thống kê, chỉ số giá tiêu dùng cả nước năm 2013 chỉ tăng 6,04%, đây là mức tăng thấp nhất trong 10 năm trở lại đây. Theo đó, chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2013 tăng 0,51% so với tháng trước và tăng 6,04% so với cùng kỳ năm trước. Bảng 5 – Diễn biến tốc độ tăng CPI năm 2013. (Nguồn: Tổng cục thống kê) Trong các nhóm hàng hóa dịch vụ, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng có chỉ số giá tháng 12/2013 so với tháng trước tăng cao nhất với mức tăng 2,31%, may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,57%, hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,49%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ còn lại có chỉ số giá giảm gồm: giao thông giảm 0,23%, bưu chính viễn thông giảm 0,01%. Mức tăng trưởng của năm tuy thấp hơn mục tiêu tăng 5,5% đề ra nhưng cao hơn mức tăng 5,25% của năm 2012 và có tín hiệu phục hồi. Bước sang năm 2014, con số lạm phát của năm đã thấp ngoài dự đoán của Tổng cục thống kê khi qua 12 tháng chỉ tăng 1,86%. Đây là mức lạm phát thấp hơn cả những năm 1996 – 1999. 15 Bảng 6 – Chỉ số giá tiêu dùng năm 2014 và so sánh từ năm 2004 đến 2014. (Nguồn: Tổng cục thống kê) So với tháng 11/2014, chỉ số giá tiêu dùng của tháng 12 tiếp tục giảm 0,23%, nối tiếp xu thế tăng trưởng âm của tháng 11, đây là tháng thứ 3 liên tiếp của năm 2014 có chỉ số giá giảm. Theo bảng công bố của Tổng cục thống kê, chỉ có 2 nhóm giảm giá mạnh là nhà ở, vật liệu xây dựng giảm 0,88% và nhóm giao thông giảm sâu 3,01%. Xu hướng âm giá này hoàn toàn thuận chiều theo xu hướng giảm giá xăng dầu liên tục. Các nhóm hàng còn lại đều tăng rất khiêm tốn dưới 0,5% như nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống chỉ tăng 0,04%, nhóm đồ uống thuốc lá tăng 0,24%, nhóm giày dép mũ nón may mặc tăng 0,5%. Nhóm bưu chính viễn thông là nhóm tăng mạnh nhất nhưng cũng chỉ ở tỷ lệ 0,92%. Nhìn lại chặng đường 15 năm qua, mức lạm phát dưới 2% của Việt Nam trong năm 2014 thấp hơn cả năm 1996 là 4,5%, năm 1997 là 3,7%, năm 2002 là 4%, năm 2003 là 3%. So với con số lạm phát kỷ lục năm 2008, những năm trở lại đây, lạm phát đã từng bước được kiềm chế. Để đạt được điều này, các nhà lãnh đạo đã phải nỗ lực sử dụng hiệu quả các biện pháp kinh tế vĩ mô, mà trong đó không thể không kể đến những giải pháp để kiểm soát mức cung tiền của NHTW. 2.2/ Các biện pháp NHTW đã áp dụng để kiểm soát mức cung tiền giai đoạn 2010 - 2014. NHTW được biết đến như là một cơ quan vận hành đảm bảo sự ổn định tiền tệ và điều tiết thị trường tiền tệ. Sự ổn định ở đây được xét trên khía cạnh ổn định của giá cả trong nước, tỷ giá và của hệ thống thanh toán. Thông thường 16 NHTW sẽ thực hiện vai trò của mình thông qua các công cụ CSTT, người cho vay cuối cùng và hoạt động thanh tra, giám sát, điều tiết hoạt động ngân hàng. Tại Việt Nam, NHNN đảm nhận vai trò như là một NHTW, và vai trò đó ngày càng được khẳng định trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, đặc biệt là sau năm 2008. Cùng với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, NHNN Việt Nam đã thực hiện điều chỉnh mức cung tiền phù hợp qua từng thời kỳ thông qua các công cụ của CSTT góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định nền kinh tế quốc gia. 2.2.1/ NHTW kiểm soát mức cung tiền năm 2010. Trong năm 2010, góp phần vào các kết quả khả quan của kinh tế nhà nước, NHNN đã điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và thận trọng, phù hợp với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và bám sát tình hình thực tế, góp phần quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Cụ thể là: - Điều hành linh hoạt các công cụ CSTT (nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn, hoán đổi ngoại tệ, DTBB) để tăng lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông, đáp ứng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế với tốc độ tăng 23%; tỷ trọng tiền mặt lưu thông trong tổng phương tiện thanh toán giảm so với các năm trước. - Phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương triển khai Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, ban hành cơ chế khuyến khích các TCTD mở rộng cho vay vốn với lãi suất thấp hơn khu vực khác, thông qua giảm DTBB, cho vay tái cấp vốn, mở rộng mạng lưới TCTD. - Trong 10 tháng đầu năm, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn định ở mức 8%/năm, kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và giám sát việc thực hiện các tỷ lệ an toàn của TCTD, điều hành lãi suất huy động và lãi suất cho vay giảm dần theo chỉ đạo của Chính phủ (đến cuối tháng 10, lãi suất huy động VND bình quân 10,44%/năm, cho vay 13,18%/năm). Hai tháng cuối năm, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản và tái cấp vốn tăng 1%/năm, kết hợp điều hành chặt chẽ lượng tiền cung ứng, quy định trần lãi suất huy độngVND 14%/năm để ổn định thị trường tiền tệ, đã làm tăng lãi suất thị trường và giảm cầu tín dụng (cuối tháng 12, lãi suất huy động VND bình quân 12,44%/năm, cho 17 vay 14,96%/năm, cho vay nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu 12-14%/năm, lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng 9,5-12%/năm). - Giám sát chặt chẽ diễn biến thị trường tiền tệ và thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn hệ thống. Hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM, ban hành quy định mới phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và điều kiện thực tế của hệ thống TCTD nước ta về tỷ lệ an toàn. 2.2.2/ NHTW kiểm soát mức cung tiền năm 2011. Tuy nhiên, năm 2011, trước dự báo của các tổ chức quốc tế và tình hình kinh tế thế giới tăng trưởng không mấy khả quan, thậm chí còn có thể chậm hơn năm 2010, bất ổn kinh tế vĩ mô và biến động phức tạp của thị trường tài chính tiền tệ toàn cầu dự kiến tiếp tục gây khó khăn cho quá trình phục hồi nền kinh tế thế giới. Trong khi, kinh tế trong nước đang phải đối mặt với những vấn đề nan giải như lạm phát, nhập siêu cao, tình trạng đô – la hóa trong nền kinh tế, một bộ phận của khu vực tài chính (thị trường bất động sản, chứng khoán, ngoại hối…) diễn biến còn phức tạp. Để tháo gỡ dần khó khăn, đồng thời góp phần thực hiện thành công Nghị quyết số 51/2010/QH12 ngày 08/11/2010 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, ngay từ đầu năm, Chính phủ chỉ đạo sát sao các Bộ, ngành chức năng trong nền kinh tế, đặc biệt là ngành ngân hàng tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Chủ trương của Chính phủ được thể hiện rõ nét thông qua Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 09/01/2011 về điều hành CSTT và đặc biệt là Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ. Trên cơ sở đó, ngay từ đầu năm 2011, NHNN đã xác định mục tiêu định hướng trong việc điều hành CSTT là điều hành CSTT chủ động, linh hoạt và thận trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, thực hiện mạnh mẽ các biện pháp điều hành nhằm kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới 20%, điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế. Các công cụ CSTT và biện pháp điều hành được thực hiện phù hợp với quy định của Luật NHNN, chỉ đạo của Chính phủ và điều kiện thực tế của thị trường tài chính – tiền tệ. 18 Quán triệt tinh thần đó, ngay từ những tháng đầu năm 2011, NHNN đã quyết liệt trong việc thay đổi chính sách điều hành, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý ngoại hối, công cụ lãi suất. Đồng thời cũng rất chủ động, linh hoạt trong công tác quản lý, nhằm đảm bảo tính kịp thời, thích ứng của các chính sách ban hành phù hợp với thực tế và chỉ đạo của Chính phủ trong từng giai đoạn. Chính vì vậy, sau gần nửa năm thực hiện Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ, thông qua công tác điều hành CSTT, NHNN Việt Nam cũng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, đảm bảo sự ổn định, tính thông suốt của thị trường tiền tệ, kiểm soát được lãi suất, mức tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đã đề ra. Một trong số đó là nâng cao hiệu quả của công cụ lãi suất (đặc biệt là lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất trên thị trường mở - OMO), kết hợp hài hòa với các công cụ gián tiếp nhằm đảm bảo tính thanh khoản trong hệ thống, kiểm soát được sức ép gia tăng lãi suất. Nếu năm 2008, để kiểm soát lạm phát, hạ nhiệt thị trường tín dụng, lãi suất cơ bản được sử dụng như một công cụ chính yếu với tần suất và mức độ điều chỉnh lớn, thì trong nhứng tháng đầu năm 2011, để phù hợp với tinh thần của Luật NHNN ban hành năm 2010 chủ yếu sử dụng lãi suất cơ bản làm công cụ chống cho vay nặng lãi nên NHNN đã liên tục điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Cho đến thời điểm nửa đầu năm 2011, NHNN đã 4 lần điều chỉnh tăng đối với lãi suất tái cấp vốn và 3 lần điều chỉnh tăng đối với lãi suất tái chiết khấu kể từ đầu năm 2011, nâng tỷ lệ lãi suất tái cấp vốn lên 14% và lãi suất tái chiết khấu lên mức 13%. 19 Bảng 7 – Lãi suất điều hành của NHNN 6 tháng đầu năm 2011. Xu hướng điều hành này là một bước tiến tích cực của NHNN trong công tác điều hành lãi suất, từng bước cơ cấu lại các mức lãi suất cho phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp NHNN thực hiện tốt hơn vai trò người cho vay cuối cùng của mình, cũng như ngăn chặn được sự ỷ lại và lạm dụng nguồn vốn giá rẻ của một số NHTM từ NHNN. Đồng thời, các mức lãi suất này cũng đã phát được tín hiệu điều hành CSTT của NHNN, thực hiện tương đối tốt vai trò là lãi suất định hướng trên thị trường (lãi suất trên thị trường OMO dao động bình quân trong khoảng 13-14%; lãi suất trên thị trường liên ngân hàng dao động từ 12-13,18%). Nhờ đó mà hoạt động điều tiết thị trường của NHNN qua thị trường mở trong những tháng đầu năm tương đối trôi chảy; giữ vững được thanh khoản cả hệ thống, kết hợp hài hòa giữa thị trường và quản lý. Thành công đầu tiên phải kể đến là NHNN đã hút về gần hết lượng tiền cung ứng phục vụ Tết Nguyên Đán (toàn bộ lượng tiền cung ứng phục vụ cho dịp Tết khoảng 130 nghìn tỷ đồng đã được NHNN rút về hơn 100 nghìn tỷ đồng) khi mà lượng tiền gửi dịp Tết 2011 tăng mạnh so với Tết năm 2010, NHNN đã quyết định tăng mức tiền mặt ra lưu thông và chuyển tiền đến những khu vực có nhu cầu lớn. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan