Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tìm hiểu motif của kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh trong truyện ...

Tài liệu Tìm hiểu motif của kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian việt nam và lào

.PDF
95
809
112

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LÝ TÌM HIỂU MOTIF CỦA KIỂU TRUYỆN NHÂN VẬT NGƯỜI THÔNG MINH, LÁU LỈNH TRONG TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM VÀ LÀO LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI , 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LÝ TÌM HIỂU MOTIF CỦA KIỂU TRUYỆN NHÂN VẬT NGƯỜI THÔNG MINH, LÁU LỈNH TRONG TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM VÀ LÀO Ngành: Văn Học Việt Nam Mã số: 8 22 01 21 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. Nguyễn Đức Ninh HÀ NỘI, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực. Tác giả Nguyễn Thị Lý MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 3 1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................. 3 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ....................................... 5 3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................... 11 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................... 12 5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................. 12 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ............................................................. 13 7. Kết cấu của luận văn ......................................................................... 13 Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ KIỂU TRUYỆN NHÂN VẬT NGƯỜI THÔNG MINH, LÁU LỈNH TRONG TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM VÀ LÀO ........................................................................................... 14 1.1. Một số khái niệm lý luận liên quan .............................................. 14 1.2. Xác định thể loại của kiểu truyện nhân vật người thông minh trong truyện dân gian Việt Nam và Lào ............................................. 16 1.3. Kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian Việt Nam và Lào ............................................................................. 19 Chương 2 NHỮNG MOTIF TƯƠNG ĐỒNG CỦA KIỂU TRUYỆN NHÂN VẬT NGƯỜI THÔNG MINH, LÁU LỈNH TRONG TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM VÀ LÀO .......................................................... 24 2.1. Những motif tương đồng ............................................................... 24 2.2. Căn nguyên sự tương đồng trong kiểu truyện ............................ 48 1 Chương 3 NHỮNG MOTIF KHÁC BIỆT CỦA KIỂU TRUYỆN NHÂN VẬT NGƯỜI THÔNG MINH, LÁU LỈNH TRONG TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM VÀ LÀO ........................................................... 56 3.1. Những motif khác biệt ................................................................... 56 3.2. Căn nguyên sự khác biệt trong kiểu truyện ................................ 70 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 79 PHỤ LỤC ............................................................................................................... 87 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Các nhà nghiên cứu văn học Đông Nam Á đã từng nhận định: văn học dân gian là thành tựu của văn hóa Đông Nam Á nói chung và ở Lào nói riêng. Vì vậy với mong muốn nghiên cứu về một thể loại văn học ở Việt Nam trong tương quan so sánh với văn học Lào- một nước láng giềng gần gũi, chúng tôi nhận thấy văn học dân gian là đối tượng nghiên cứu phù hợp. Nghiên cứu văn học dân gian Đông Nam Á còn chưa nhiều, nhất là các thể loại tự sự dân gian. Các nghiên cứu của các nhà khoa học trước đây có xu hướng thiên về thể loại trữ tình dân gian. Chính vì vậy, nghiên cứu về tự sự dân gian, mà cụ thể hơn là truyện dân gian còn nhiều khoảng trống cần được lấp đầy. Nghiên cứu truyện dân gian trong đề tài của chúng tôi góp phần bổ sung một phần vào khoảng trống đó. Trong kho tàng truyện dân gian Đông Nam Á, kiểu truyện (type) nhân vật người thông minh, láu lỉnh là một trong những kiểu truyện xuất hiện ở Lào, Việt Nam và nhiều nước khác. Trong truyện dân gian ở Việt Nam và Lào thường có những kiểu truyện về những nhân vật thông minh, láu lỉnh, ranh mãnh như Xiêng Miệng, Xiêng Nọi, Trạng Quỳnh, Xiển Bột, Ba GiaiTú Xuất, Thủ Thiệm…. Đây là kiểu truyện mà tính trí tuệ, uyên bác được đề cao và chi phối tới toàn bộ kết cấu của cốt truyện. Bên cạnh tính trí tuệ, kiểu truyện còn hấp dẫn bởi sự hài hước và tính giải trí do tính cách láu lỉnh, ranh mãnh của các nhân vật tạo ra. Nhận ra sức hấp dẫn của kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh một số nhà nghiên cứu đã có những kiến giải mang tính chất gợi mở về một khía cạnh nổi bật nào đó liên quan đến nhân vật. Tuy nhiên còn nhiều vấn đề cốt lõi như kết cấu, motif,… cần phải được đào sâu và mở rộng hơn nữa. Mặt khác, vấn đề cốt yếu là sự giống và khác nhau của kiểu truyện này ở Việt Nam- Lào như thế nào, tại sao lại có sự giống 3 và khác nhau đó? Giải quyết những vấn đề này giúp chúng ta có “cái nhìn tham chiếu” đầy đủ, sáng tỏ về giá trị của kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh ở Đông Nam Á nói chung và hai nước Việt Nam- Lào nói riêng. Nghiên cứu về type và motif là những hướng đi để tìm ra bản chất, đặc trưng và sự phân bố của truyện dân gian theo các khu vực, vùng miền. Motif là thành tố góp phần làm rõ đặc điểm của một type truyện cụ thể nào đó. Phân tích motif là “con đường ngắn nhất” cho sự liên kết của các văn bản truyện kể dân gian trên toàn thế giới. Trên thế giới, đã có nhiều công trình thu thập và thống kê về type và motif truyện dân gian theo cấp độ quốc gia, khu vực như: Bảng phân loại và danh mục kiểu truyện dân gian và Bảng chỉ mục các motif văn học dân gian của Antti Aarne và Stith Thompson, các nghiên cứu về type và motif trong truyện dân gian Nhật Bản của Hiroko - Ikeda (Nhật Bản), về type và motif trong truyện dân gian Trung Quốc của Wolfram Eberhard (Đức)…Tuy nhiên chưa có công trình nào phân loại về type và motif một cách hệ thống trong truyện dân gian khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam- Lào nói riêng. Sự thể hiện các motif của kiểu truyện về nhân vật thông minh, láu lỉnh ở Lào và Việt Nam trong đề tài này sẽ là những chứng cứ xác thực minh chứng cho sự đặc sắc của kiểu truyện, qua đó có cái nhìn cơ bản, đa diện, đa chiều về kiểu truyện này ở những nền văn hoá dân tộc khác nhau của khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên việc nghiên cứu truyện dân gian không phải chỉ dừng lại ở đó. Ngoài việc tìm ra mối liên kết giữa các type truyện dân gian thông qua các motif tương đồng, cần phải nghiên cứu về nguồn gốc lịch sử của truyện, nguyên nhân tạo ra sự tương đồng và khác biệt của motif ở truyện dân gian các nước, sự thể hiện tính chất xã hội….Vì vậy, tìm hiểu những motif của kiểu truyện nhân vật thông minh láu lỉnh và căn nguyên tạo 4 ra sự tương đồng và khác biệt của các motif đó trong truyện dân gian Việt Nam, Lào là cần thiết và hữu ích. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài - Nghiên cứu ở nước ngoài Đầu những năm 20 thế kỷ XX, trên thế giới có ít nhất có 4 trường phái nghiên cứu khoa học đã từng đặt ra vấn đề về đơn vị type và motif trong lĩnh vực nghiên cứu truyện kể dân gian. Nổi bật nhất là hai công trình khoa học chất lượng tiêu biểu của trường phái Phần Lan: The Type of the Folktale – A Classification and Bibliography (Bảng phân loại và danh mục kiểu truyện dân gian), do Antti Aarne biên soạn và Stith Thompson mở rộng được xuất bản lần đầu vào năm 1928 tại Helsinki, được biết đến với tên gọi tắt là Từ điển A-T.Tuy nhiên, sau đó S.Thompson đã biên soạn một bộ từ điển truyện dân gian không phải ở cấp độ cốt truyện (type) mà là ở cấp độ chi tiết (motif), bởi ông nhận ra sự tương đồng trong các truyện dân gian ở cấp độ motif thường xuyên hơn cấp độ type. Công trình thứ hai đó là Motif index of FolkLiterature( Bảng chỉ mục các motif văn học dân gian) xuất bản năm 1936. Trong đó các tác giả đã lập bảng phân loại các motif đơn nhất và chia từ điển ra làm 23 mục lớn, trong đó mục từ J: The wise and the foolish tập hợp các motif về người khôn ngoan và ngu ngốc. Có 2799 motif về người khôn ngoan và ngu ngốc mà các tác giả đã thống kê được, trong đó mục motif J1100- J1249: là nhóm motif về những người thông minh và hành động, mục motif J1250- J1499: là nhóm motif phản biện bằng lời nói thông minh. Các motif về người thông minh trong cuốn từ điển này chủ yếu xuất hiện trong các truyện dân gian ở Châu Âu, Châu Mỹ như: Ý, Pháp, Anh, Iceland, Do Thái, Ai Len, Mỹ… và một số nước Châu Á, trong đó tiêu biểu nhất là Ấn Độ. Chúng tôi nhận thấy không có sự xuất hiện các motif về người thông minh trong các truyện dân gian khu vực Đông Nam Á trong cuốn từ điển này. 5 Tuy nhiên đây là cứ liệu tin cậy giúp chúng tôi tham khảo khi triển khai tìm hiểu về motif của kiểu truyện người thông minh trong truyện dân gian của Việt Nam và Lào. Bộ sách hai cuốn Tuyển tập V.Ia. Propp (2003) do một nhóm tác giả biên dịch một cách công phu gồm 4 phần: 1. Hình thái học truyện cổ tích, 2. Những căn rễ lịch sử của truyện cổ tích thần kỳ, 3. Những lễ hội nông nghiệp Nga, 4. Folklore và thực tại. Cuốn sách là nguồn tài liệu tham khảo quý giá cung cấp cho chúng tôi rất nhiều những vấn đề khoa học về lý thuyết nghiên cứu truyện kể dân gian cùng với những thí dụ cụ thể từ những ứng dụng tỉ mỉ của tác giả cuốn sách nhằm làm sáng rõ các quan điểm lý thuyết của mình. Với Tuyển tập V.Ia. Propp chúng tôi kế thừa định nghĩa motif về phương diện hình thái học của trường phái cấu trúc -chức năng, phương pháp nghiên cứu motif theo phương diện cấu tạo và phương pháp nghiên cứu motif theo phương diện tiếp cận nguồn gốc và sự biến đổi lịch sử. Ngoài các bộ sách có tính chất định hướng nghiên cứu kể trên, dưới đây chủ yếu chúng tôi điểm lại các công trình nghiên cứu của các học giả Lào về văn học dân gian Lào. Cuốn Văn học Lào do Bò Xẻng Khâm Vôông Đa La chủ biên xuất bản năm 2008, Nhà xuất bản và phát hành sách Quốc gia Lào, với luận cứ của các nhà nghiên cứu bản địa đã giúp chúng tôi có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về văn học dân gian Lào nói chung và kiểu nhân vật thông minh trong truyện cổ Lào nói riêng. Trong đó, các nhà nghiên cứu đã xếp kiểu truyện về các nhân vật thông minh ở một số nước Đông Nam Á vào thể loại truyện cười dân gian: “Kiểu truyện cười này từng được thấy ở nhiều nước anh em xóm giềng như ở Việt Nam có truyện “Trạng Quỳnh”, ở Campuchia có truyện “ Thơ Mênh Chây”, ở Thái Lan có truyện “ Sỉ Tha Nôn 6 Chay”[ 47, tr 125]. Sự khẳng định về thể loại của kiểu truyện là cơ sở để chúng tôi tham khảo trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình. Năm 2014, Viện khoa học xã hội quốc gia Lào- Viện nghiên cứu văn hóa xuất bản cuốn Tuyển tập Văn học Lạn Xạng tập 1, trong đó các tác giả xếp truyện Xiêng Miệng vào trong tập hợp các tác phẩm văn học dân gian của Lào thuộc thời kì Lạn Xạng và chỉ rõ thuộc thời vua Su Li Nha Vông Sả ( từ năm 1633). Việc cung cấp dữ liệu về thời gian ra đời truyện Xiêng Miệng một cách chính xác giúp chúng tôi có căn cứ lịch sử trong quá trình nghiên cứu những vấn đề liên quan tới nhân vật. Cuốn Lịch sử- Văn học Lào-học hỏi từ 108 truyện cổ Lào và truyện thế giới của Nghệ nhân ưu tú Mạ Hả Bun Mi Thếp Sỉ Mương là một trong số rất ít những cuốn sách viết về Xiêng Miệng- nhân vật thông minh, láu lỉnh tiêu biểu ở Lào. Trong cuốn sách, Nghệ Nhân đề cập tới những nội dung khái quát trong truyện Xiêng Miệng. Trong đó tác giả có nhấn mạnh sự bí ẩn và phức tạp về thời gian ra đời Xiêng Miệng. Đây là một trong những tài liệu hiếm hoi góp phần định hướng về nội dung cốt truyện về Xiêng Miệng. Trong cuốn Giáo trình năm thứ nhất của Đại học chuyên ngành Tiếng Lào- Văn học do Vụ nghiên cứu Cấp cao- Bộ Giáo Dục và thể thao Lào biên soạn năm 2016, xếp truyện Xiêng Miệng thuộc thể loại truyện cười. Việc xác định thể loại tác phẩm của các nhà nghiên cứu bản địa là định hướng cho chúng tôi trong việc xác định thể loại của kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh ở Lào. - Nghiên cứu ở trong nước Qua các nguồn tư liệu tiếng Việt đã tiếp cận được, người viết nhận thấy các tài liệu liên quan đến motif của kiểu truyện nhân vật thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian Đông Nam Á nói chung và hai nước Lào Việt Nam nói 7 riêng còn rất hạn chế về số lượng. Các bài viết, các công trình nghiên cứu chủ yếu mới chỉ đưa ra những kiến giải ban đầu về sự tồn tại của kiểu nhân vật thông minh trong khu vực Đông Nam Á và thế giới. Từ năm 1978, trong chuyên đề Nghiên cứu tiến trình lịch sử văn học dân gian Việt Nam, Trường Đ.H.S.P I Hà Nội in năm 1978, Đỗ Bình Trị đã đánh giá về nét độc đáo của nhân vật trí xảo trong truyện trạng Việt Nam đồng thời ông có nhắc đến khái niệm “tình tiết” trong văn học dân gian. Ông nhận định so với nhiều tình tiết nổi tiếng trong văn học dân gian thế giới có cốt truyện này ở những dân tộc thì dị bản Việt Nam có không ít chỗ trùng lặp. Ở Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Tấn Đắc là một trong những người đầu tiên thực hiện lập bảng mục lục tra cứu Type và Motif cho từng bộ sưu tập truyện kể. Lần đầu tiên trong tập Những truyện kể Vêtala ( NXB KHXH Hà Nội, 1986) do chính tác giả dịch có kèm theo bảng tra cứu type và motif. Nguyễn Tấn Đắc cũng đã lập bảng tra cứu type và motif cho sưu tập Truyện dân gian Campuchia của Vũ Tuyết Loan, Nguyễn Sĩ Tuấn, Nguyễn Thị Hiệp( NXB KHXH Hà Nội, 1987). Trong tài liệu này Nguyễn Tấn Đắc có nhắc đến những truyện về trí thông minh trong phần viết về loại truyện cổ mang tính xã hội của Campuchia: “ Truyện kể Campuchia cũng diễn đạt tài tình trí thông minh láu lỉnh, tài ứng phó đối đáp của dân gian. Những chùm truyện về Thmênh Chây, về thằng Lêu, về con thỏ, rất được nhân dân Campuchia yêu thích” [24, tr. 10] Ngoài việc giới thiệu truyện kể dân gian, nhà nghiên cứu cũng bước đầu chú ý quan sát phân tích type và motif của truyện. Đến năm 2001, cuốn sách Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif của tác giả đã được xuất bản. Loạt tác phẩm này của tác giả là sự tiếp nối lý thuyết type và motif của trường phái Phần Lan trên thế giới khi áp dụng ở một vài trường hợp của một số nước Đông Nam Á. 8 Trong cuốn Truyện Trạng Đông Nam Á (2001), NXB Tổng hợp Đồng Nai, Trương Sĩ Hùng đã khẳng định sự kế thừa của truyện trạng với các thể loại khác của văn học dân gian và đặt các hệ thống truyện trạng Việt Nam bên cạnh các hệ thống truyện trạng của nước ngoài để chỉ ra những đặc trưng cơ bản, tiêu biểu cho thể loại truyện trạng. Ông cũng khẳng định mối liên hệ giữa truyện Trạng Quỳnh và truyện trạng ở các nước láng giềng của Việt Nam: “ không phải ngẫu nhiên, khi xếp các hệ thống Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Xiển Bột… của Việt Nam bên cạnh Thơmênh Chây của Cămpuchia, Xiêng Miệng của Lào ta thấy ngay được tính thống nhất trong nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, thống nhất về chủ đề tư tưởng. Nếu liên hệ rộng hơn đến tài liệu văn học dân gian của các dân tộc ít người Việt Nam – ta sẽ gặp những tác phẩm tương tự: Truyện Lục Pia(Tày), Truyện Chú Cuội (Mường), Chàng Ngốc (Chăm), Chàng Gơnác Hucr (Xrê)” [19, tr.20]. Đây là một định hướng nghiên cứu sự tương đồng về type nhân vật trong các truyện dân gian Lào và Việt Nam, góp phần hỗ trợ chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn. Đức Ninh trong cuốn Về một số vấn đề văn hóa dân gian( Folklore) Đông Nam Á ở phần viết về truyện cổ tích động vật và cổ tích sinh hoạt của Mã Lai- Inđônêxia cho rằng, trong kiểu truyện cổ tích sinh hoạt của Mã LaiInđônêxia nổi lên hai loại hình tượng nhân vật: hình tượng nhân vật thông minh, ranh mãnh hoặc đại bịp, nói dối như Cuội và hình tượng nhân vật đần độn, ngu ngốc tham lam. Trong đó, với hình tượng nhân vật thông minh, ranh mãnh: “ Tương tự loại nhân vật này là Silunchai ở Malaixia, Thơ Mênh Chây hoặc A Lêu ở Campuchia, Si ThaNon Trai ở Thái Lan, thằng Cuội ở Việt Nam”[ 29, tr. 101]. Quan điểm xem các nhân vật này là dạng nhân vật thông minh, ranh mãnh là quan điểm mang tính chất định hướng và gợi hứng cho luận văn này. 9 Năm 2012, một công trình về type truyện đã ra đời ở Việt Nam do Nguyễn Thị Huế chủ biên: Từ điển type truyện dân gian Việt Nam, Nxb Lao động, HN. Công trình này đưa ra rất nhiều những type truyện liên quan đến những nhân vật kiểu như Trạng Quỳnh. Nhóm type truyện này được sắp xếp thuộc nhóm type truyện cười, truyện trạng, giai thoại từ mục 568-761. Tuy nhiên trong tài liệu này không gọi tên type truyện là type về nhân vật thông minh, láu lỉnh. Năm 2013, nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Chiến trong bài viết Truyện nhân vật thông minh láu lỉnh trong văn học dân gian Đông Á ( Trường hợp trạng Quỳnh của Việt Nam và Kim Sodal của Triều Tiên), Tạp chí khoa học xã hội, số 4/2013, khẳng định sự ra đời của kiểu nhân vật này chính là ước mơ về trí tuệ dân gian với tài phán đoán, sáng tạo và dũng cảm. Trong nhiều trường hợp họ là cán cân công lý mang lại công bằng và quyền lợi cho những người không có địa vị trong xã hội. Bài viết chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa truyện Trạng Quỳnh (Việt Nam) và truyện Kim Sondal (Triều Tiên) và bước đầu có những lý giải về sự tương phản của hai chuỗi truyện này. Năm 2016, Tác giả La Mai Thi Gia trong cuốn: Motif trong nghiên cứu truyện kể dân gian: lý thuyết và ứng dụng đã đưa ra đề nghị một cách tiếp cận hiệu quả nhất hiện nay trong nghiên cứu motif truyện kể dân gian qua một ứng dụng cụ thể từ trường hợp motif tái sinh. Đồng thời cuốn sách đã giới thiệu được quan điểm nhị nguyên về motif, những phương thức nghiên cứu motif theo quan điểm này và các ứng dụng trên thế giới khi nghiên cứu motif theo thuyết nhị nguyên. Cuốn sách này cũng là một tài liệu tin cậy để chúng tôi tham khảo khi nghiên cứu về kiểu truyện dân gian từ góc độ type và motif. Năm 2014, Tác giả Đặng Quốc Minh Dương trong luận án: Kiểu truyện con vật tinh ranh trong truyện dân gian Việt Nam và thế giới thể hiện quan 10 niệm nhân vật tinh ranh là những con vật mà trong quan niệm dân gian được xem là thông minh, tinh quái, mưu trí. Từ đó tác giả triển khai nghiên cứu nhân vật thông minh với tư cách nhân vật- con vật. Tuy cũng lựa chọn đối tượng nghiên cứu là nhân vật tinh ranh, thông minh nhưng luận án mới chỉ lựa chọn trong phạm vi con vật. Đây là khoảng trống trong nghiên cứu về kiểu nhân vật thông minh, láu lỉnh với tư cách là con người trong truyện cười dân gian. Bước đầu tìm hiểu tình hình tư liệu, chúng tôi nhận thấy vấn đề motif của kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian Việt Nam và Lào chưa được giới nghiên cứu trong và ngoài nước nghiên cứu như một đối tượng độc lập. Đến thời điểm này vấn đề này vẫn còn là một khoảng trống trong nghiên cứu. Với luận văn này, người viết mong muốn sẽ đưa ra được những nhận diện khái quát về kiểu truyện đồng thời nghiên cứu và phân tích về một số motif thường gặp ở kiểu truyện nhân vật thông minh trong truyện cổ 2 nước Việt Nam và Lào. Dù chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện motif của kiểu truyện về nhân vật thông minh ở hai nước nhưng để thực hiện đề tài, chúng tôi cũng đã được thừa hưởng thành quả của nhiều công trình sưu tầm, tập hợp, biên dịch truyện dân gian và nghiên cứu ở Việt Nam và Lào. Những tài liệu này hỗ trợ chúng tôi về mặt phương pháp đồng thời cung cấp những cốt truyện cùng các bản kể về truyện dân gian để chúng tôi tiện khảo sát và nghiên cứu. Những khoảng trống được gợi ra từ những tài liệu kể trên đã khiến chúng tôi nghiên cứu vấn đề Tìm hiểu motif của kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian Việt Nam và Lào . 3. Mục đích nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: 11 + nhận diện khái quát về kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian của 2 nước Việt Nam và Lào + làm rõ sự khác biệt và tương đồng của các motif trong kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian Việt Nam và Lào. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Là các motif của kiểu truyện về nhân vật người thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian Việt Nam và Lào. - Phạm vi nghiên cứu: chúng tôi tập trung nghiên cứu những truyện dân gian ở Việt Nam và Lào mà có nhân vật chính là người thông minh, tính cách láu lỉnh . 5. Phương pháp nghiên cứu + Phương pháp liên ngành: Trong luận văn này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành. Trong đó chúng tôi sử dụng phương pháp liên ngành để lý giải căn nguyên của sự tương đồng và khác biệt của các motif trong truyện dân gian Việt Nam và Lào. Tiếp cận vấn đề dưới góc độ của nhiều ngành khoa học giúp chúng tôi thấy được nét gặp gỡ, giao thoa trong các kiểu truyện nhân vật thông minh của hai nước Đông Nam Á do chịu (hoặc không chịu) ảnh hưởng về văn hóa, xã hội, lịch sử, địa lý, tôn giáo… +Phương pháp thống kê – phân loại: Phương pháp này được sử dụng trong việc khảo sát, phân loại và trong khi so sánh đối chiếu các motif trong truyện dân gian Việt Nam và Lào. Nhờ phương pháp thống kê mà chúng tôi có được các số liệu để phân loại các truyện kể; cũng qua đây thấy được tần suất xuất hiện các motif của kiểu truyện ở hai nước. Nhờ phương pháp này mà chúng tôi có những số liệu tin cậy, làm cơ sở để đưa ra những lý giải thích hợp, những kết luận, khái quát khoa học về các motif của kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh ở Việt Nam và Lào. 12 +Phương pháp so sánh – loại hình: Phương pháp so sánh – loại hình được sử dụng trong suốt quá trình xử lí đề tài. Phương pháp này giúp chúng tôi thấy được những tương đồng và dị biệt về nhân vật, kết cấu, motif,... của kiểu truyện ở hai nước. Từ đó đưa ra những gợi mở về căn nguyên tương đồng, khác biệt của kiểu truyện này trong truyện dân gian giữa hai nước. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Luận văn nghiên cứu các motif của kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian Việt Nam và Lào, góp phần bổ sung thêm cho nghiên cứu về motif và type truyện trong văn học dân gian nói chung. - Là tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm đến chuyên ngành này. 7. Kết cấu của luận văn Để thực hiện luận văn, chúng tôi dự định triển khai nghiên cứu theo khung đề cương sau: Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Khái quát về kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian Việt Nam và Lào. Chương 2: Những motif tương đồng của kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian Việt Nam và Lào. Chương 3: Những motif khác biệt của kiểu truyện nhân vật người thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian Việt Nam và Lào. 13 Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ KIỂU TRUYỆN NHÂN VẬT NGƯỜI THÔNG MINH, LÁU LỈNH TRONG TRUYỆN DÂN GIAN VIỆT NAM VÀ LÀO 1.1. Một số khái niệm lý luận liên quan 1.1.1. Khái niệm type truyện Theo Từ điển Văn học (bộ mới) “Tập hợp những truyện có cùng chủ đề và cốt truyện tương tự như nhau, được gọi là kiểu truyện” [18, tr.1841]. Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu dùng khá nhiều thuật ngữ chỉ nội hàm khái niệm kiểu truyện: type, dạng thức, típ truyện, dạng truyện. Như theo Nguyễn Tấn Đắc “Type chỉ một tập hợp những truyện có cùng cốt kể thuộc cùng một kiểu truyện, hay một đơn vị truyện” [12, tr.136]. Nghiên cứu type truyện trong văn học dân gian là cách thức nghiên cứu những truyện có chung một chủ đề, cốt truyện. Các truyện này sẽ có nhiều motif tương đồng, tất nhiên các motif này không hoàn toàn trùng khớp nhau trong tất cả các truyện. Sự tương đồng giữa các motif góp phần làm thành một type truyện với hệ thống các motif đặc trưng có ý nghĩa phản ánh riêng. Trong truyện dân gian Lào và Việt Nam có một kiểu truyện với nhân vật chính là những người có tính cách thông minh nhưng láu lỉnh, ranh mãnh, hay sử dụng những mẹo lừa bịp, tinh quái. Trong đề tài, chúng tôi vận dụng lý thuyết type truyện để nghiên cứu về kiểu nhân vật thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian Việt Nam và Lào. Từ đây chúng tôi xin được gọi tên type truyện này là: Kiểu truyện về nhân vật người thông minh, láu lỉnh trong truyện dân gian Lào và Việt Nam. Cách gọi này tương đồng với thuật ngữ type truyện trong các công trình nghiên cứu của nước ngoài và Việt Nam. 14 1.1.2. Khái niệm motif Motif là một trong những thuật ngữ văn học dân gian được sử dụng nhiều nhất hiện nay trong các công trình nghiên cứu về thể loại tự sự dân gian. Theo định nghĩa của Lê Bá Hán- Trần Đình Sử “Từ Hán Việt là mẫu đề (do người Trung Quốc phiên âm chữ motif trong tiếng pháp), có thể chuyển thành các từ khuôn, dạng hoặc kiểu trong tiếng Việt, nhằm chỉ những thành tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn định bền vững và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật, nhất là trong văn học nghệ thuật dân gian.” [17, Tr.197]. Như vậy, chúng ta có thể hiểu motif có những tính chất: Thứ nhất là những chi tiết tạo nên một cốt truyện. Thứ hai được sử dụng nhiều lần trong truyện. Thứ ba mang tính chất ổn định, bền vững. Như đã nói, motif chính là phần tử đơn vị cấu tạo nên cốt truyện. Motif nhỏ hơn type. Nói cách khác, type là đơn vị lớn hơn motif, trong một type có thể chứa nhiều motif. Trong đề tài này, chúng tôi xem motif là dạng thức được lặp đi lặp lại nhiều lần và tiềm tàng những giá trị văn hóa, những lớp nghĩa riêng nhưng có sự ổn định trong kiểu (type) truyện về những nhân vật thông minh ở hai nước Lào, Việt Nam. Các motif khảo sát trong đề tài này được chúng tôi lựa chọn dựa trên những nguyên tắc sau: - Những motif được lựa chọn là những motif có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện nhân vật thông minh, láu lỉnh đồng thời là yếu tố không thể thiếu góp phần hình thành nên cốt truyện. -Dựa trên việc so sánh giữa các cốt truyện có cùng motif, chúng tôi chọn ra những motif có tần suất xuất hiện cao nhất trong truyện dân gian hai nước Việt Nam và Lào. 15 Dựa trên tiêu chí này, chúng tôi lựa chọn được 13 motif tiêu biểu với tần suất xuất hiện nhiều nhất trong các truyện. 1.2. Xác định thể loại của kiểu truyện nhân vật người thông minh trong truyện dân gian Việt Nam và Lào Trong các công trình nghiên cứu đi trước, việc xác định thể loại để từ đó xếp truyện Xiêng Miệng, Xiêng Nọi, Chàng Pô… ở Lào hoặc Trạng Quỳnh, Xiển Bột, Ba Giai- Tú Xuất… ở Việt Nam (các nhân vật cùng loại tính cách) vào ô nào trong bảng phân loại của văn học dân gian cho đến nay vẫn chưa thống nhất. Nhìn chung các nghiên cứu văn học dân gian về kiểu truyện của loại nhân vật này chia thành bốn nhóm ý kiến chính: 1. Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng nên xem kiểu truyện dân gian này là một thể loại riêng: Vũ Ngọc Khánh trong tuyển tập Kho tàng về các ông Trạng Việt Nam đã thể hiện quan điểm đó. Trong tuyển tập này, ngoài các giai thoại viết về Trạng Nguyên có thật trong lịch sử Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh còn dành một phần tuyển tập về các Trạng dân phong trong đó có truyện về các nhân vật Trạng Quỳnh, Trạng Lợn... Trong cuốn Truyện Trạng Đông Nam Á(2001), NXB Tổng hợp Đồng Nai, đặt truyện trạng Việt Nam trong tương quan so sánh với một số truyện trạng Đông Nam Á, Trương Sĩ Hùng có “Ý kiến đề xuất về thể loại văn học dân gian: truyện trạng dân gian ở Việt Nam” tồn tại như một thể loại tương đối độc lập như các thể loại khác của văn học dân gian. [19, tr.17]. Ngoài ra có rất nhiều nhà nghiên cứu: Thạch Phương, Nguyễn Chí Bền, Mai Hương, Đỗ Bình Trị, Đặng Văn Lung, Bùi Mạnh Nhị, Trần Tấn Vĩnh, Nguyễn Tấn Phát… cũng có quan niệm tương tự khi gọi kiểu truyện về những nhân vật thông minh này là truyện Trạng . 2. Nhóm ý kiến thứ hai xếp kiểu truyện này vào loại truyện cổ tích sinh hoạt. Trong cuốn: Văn học khu vực Đông Nam Á( tái bản năm 2000), nxb Đại 16 Học Quốc gia Hà Nội do Đức Ninh chủ biên, người viết phần văn học Campuchia đã chia văn học dân gian thành 3 loại: Thần thoại và truyền thuyết, Truyện cổ tích và Tục ngữ ca dao-dân ca. Trong thể loại truyện cổ tích, các tác giả cho rằng: “ Trong kho tàng truyện cổ tích Campuchia, truyện cổ tích sinh hoạt và cổ tích về loài vật nổi trội độc đáo với những mô típ truyện về nhân vật thông minh, láu lỉnh và con thỏ ranh mãnh khôn ngoan phản ánh tài trí của nhân dân Campuchia... Người thông minh yếu kém về vật chất nhưng lại có sức mạnh trí tuệ, như Th mênh Chey” [26, tr. 101-106]. Vẫn giữ quan điểm này, Đức Ninh trong cuốn Về một số vấn đề văn hóa dân gian( Folklore) Đông Nam Á ở phần viết về truyện cổ tích động vật và cổ tích sinh hoạt của Mã Lai- Inđônêxia đã cho rằng trong kiểu truyện cổ tích sinh hoạt của Mã Lai- Inđônêxia nổi lên hai loại hình tượng nhân vật: hình tượng nhân vật thông minh, ranh mãnh hoặc đại bịp, nói dối như Cuội và hình tượng nhân vật đần độn, ngu ngốc tham lam. Trong đó, với hình tượng nhân vật thông minh, ranh mãnh: “ Tương tự loại nhân vật này là Silunchai ở Malaixia, Thơ Mênh Chây hoặc A Lêu ở Campuchia, Si ThaNon Trai ở Thái Lan, thằng Cuội ở Việt Nam”[ 29, tr. 101]. 3. Nhóm ý kiến thứ ba xếp nhóm truyện kiểu như Trạng Quỳnh thành một tiểu loại của truyện cười dân gian. Ở Lào, các nhà nghiên cứu văn học dân gian cũng có cùng quan điểm với nhóm thứ nhất khi xếp kiểu truyện về các nhân vật thông minh như Trạng Quỳnh vào thể loại truyện cười dân gian: “ Kiểu truyện cười này từng được thấy ở nhiều nước anh em xóm giềng như ở Việt Nam có truyện “Trạng Quỳnh”, ở Campuchia có truyện “ Thơ Mênh Chây”, ở Thái Lan có truyện “ Sỉ Tha Nôn Chay”[47, tr.125]. “Việc biến hóa giữa các đoạn, phần trong truyện cười đã thể hiện cho thấy tính cách và tài năng sắc sảo, lém lỉnh của các nhân vật”. [47, tr.124]. Cũng trong cuốn Văn học khu vực Đông Nam Á (tái bản năm 2000), Nxb Đại Học Quốc gia Hà Nội 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan