MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ..........................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.............................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu ..............................................................................2
5. Kết cấu luận văn ...........................................................................................2
NỘI DUNG .....................................................................................................3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ..................3
1.1.Khái niệm, nguồn gốc, tính chất hai mặt của tăng trưởng kinh tế ................3
1.1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế ...............................................................3
1.1.2. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế .............................................................4
1.1.3.Tính chất hai mặt của tăng trưởng kinh tế .............................................7
1.2. Các yếu tố tác động đến sự tăng trưởng kinh tế..........................................9
1.2.1. Đầu tư và vốn đầu tư.............................................................................9
1.2.2. Yếu tố lao động .................................................................................. 15
Chương 2: THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA THÀNH
PHỐ CẦN THƠ TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY................................................ 17
2.1. Vài nét về Cần Thơ và và những tiềm năng tăng trưởng kinh tế của thành
phố Cần Thơ...................................................................................................17
2.1.1. Vài nét về Cần Thơ ............................................................................ 17
2.1.2. Những tiềm năng tăng trưởng kinh tế thành phố Cần thơ ................... 21
2.2. Thành tựu và hạn chế............................................................................... 31
2.2.1. Thành tựu .......................................................................................... 31
2.2.2. Hạn chế.............................................................................................. 42
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ CỦA THÀNH PHỐ CẦN THƠ ............................... 48
3.1. Phương hướng phát triển kinh tế của thành phố Cần Thơ......................... 48
3.1.2. Những quan điểm làm cơ sở hình thành phương hướng tăng trưởng kinh
tế của thành phố Cần Thơ ............................................................................... 48
3
3.1.2. Phương hướng phát triển kinh tế của thành phố Cần Thơ ................... 49
3.2. Một số giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của thành phố Cần Thơ ....50
3.2.1. Nhóm giải pháp về vốn đầu tư ........................................................... 50
3.2.2. Giải pháp về lao động ........................................................................ 52
3.2.3. Giải pháp về khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng ............................ 53
3.2.4. Giải pháp về giáo dục đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ .............. 56
KẾT LUẬN ............... ............................................................................. 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 59
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau năm 1986, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta đã đạt
được những thắng lợi đáng kể, biểu hiện rõ nhất thành công đó là tốc độ tăng
trưởng kinh tế (GDP) đạt bình quân 6,32% giai đoạn 1990-2009. Đóng góp vào
thành tựu tăng trưởng đó phải kể đến sự tăng trưởng của các vùng kinh tế trong
cả nước. Tuy chưa phải là vùng kinh tế trọng điểm của cả nước nhưng đồng bằng
sông Cửu Long được xem là cái noi trong sản xuất nông nghiệp của nước ta,
đóng góp khá lớn vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Với những lợi thế nổi trội so với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu
Long, Cần Thơ từ lâu đã được coi là thủ phủ của miền Tây Nam Bộ, và vị thế
của Cần Thơ một lần nữa được nâng lên tầm cao mới khi trở thành thành phố
trực thuộc Trung ương vào ngày 01/01/2004, trở thành đô thị loại I vào ngày
24/6/2009.
Trở thành đô thị loại I đồng nghĩa với trọng trách đặt ra đối với Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân thành phố Cần Thơ trong giai đoạn phát triển mới là hết
sức lớn lao. Thành phố ven sông này hội tụ những điều kiện tự nhiên lý tưởng
với những vùng sinh thái rộng lớn, ruộng đất phì nhiêu, những dòng sông chở
nặng phù sa, quanh năm nước ngọt,…Đặc biệt, với những tuyến giao thông huyết
mạch như Quốc lộ 1A, quốc lộ 91, cầu Cần Thơ, cảng Cái Cui, sân bay Trà Nóc,
Cần Thơ là đầu mối hệ thống giao thông thủy, bộ tỏa đi các tỉnh trong khu vực và
cả nước. Bên cạnh đó, Cần Thơ còn là trung tâm khoa học – công nghệ với Đại
học Cần Thơ, Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long và các trường dạy nghề, trung
tâm công nghệ phần mềm… Đó là những nguồn lực quan trọng bảo đảm cho Cần
Thơ phát triển kinh tế theo hướng toàn diện, bền vững.
Tuy nhiên, chúng ta cần biết yếu tố nào đóng góp quan trọng đến tăng trưởng
kinh tế và mức độ ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế của thành phố Cần Thơ,
cũng như việc sử dụng một cách hiệu quả nhất các yếu tố tác động đến sự tăng
trưởng kinh tế. Vì thế, tác giả đã chọn đề tài “Tìm hiểu về sự tăng trưởng kinh tế
thành phố Cần Thơ từ năm 2000 đến nay” nhằm tìm ra nhân tố sản xuất nào tác
động chính đến sự tăng trưởng kinh tế Cần Thơ, để từ đó đề ra những giải pháp
đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế của thành phố phát triển một cách bền vững.
5
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng của tăng
trưởng kinh tế của thành phố Cần Thơ trong những năm qua, phân tích các yếu tố
tác động đến tăng trưởng kinh tế của thành phố Cần Thơ, từ đó đề xuất những
quan điểm, phương hướng, giải pháp góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh
tế của Cần Thơ trong thời gian tới.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích thực trạng tăng trưởng kinh tế, vốn đầu tư, lao động của thành phố
Cần Thơ.
- Phân tích sự đóng góp của lao động và vốn đầu tư trong tăng trưởng kinh tế.
- Đề xuất một số quan điểm, phương hướng, giải pháp góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của thành phố Cần Thơ.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: tìm hiểu thực trạng tăng trưởng kinh tế của thành phố
Cần Thơ từ năm 2000 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này, tác giả đã sử dụng những quan điểm của các nhà
kinh tế học trước Mác cùng với lý luận chủ nghĩa Mác về vấn đề tăng trưởng
kinh tế. Thông qua các chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng
để đi sâu giải quyết vấn đề thực trạng tăng trưởng kinh tế của thành phố Cần
Thơ.
Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các phương pháp như: Logic và
lịch sử, thu thập tài liệu, xử lý tài liệu (phân tích, tổng hợp, nhận xét, so sánh,
đánh giá)…
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, mục lục và kết luận, nội dung luận văn
gồm 3 chương với 06 tiết.
6
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. Khái niệm, nguồn gốc, tính chất hai mặt của tăng trưởng kinh tế
1.1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các nước trên
thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai đoạn của quốc gia. Điều
này càng có ý nghĩa quan trọng đối với các nước đang phát triển trong quá trình
theo đuổi mục tiêu tiến kịp và hội nhập với các nước đang phát triển.
Tăng trưởng kinh tế được xem là một trong những vấn đề hấp dẫn nhất trong
nghiên cứu kinh tế phát triển và cùng với thời gian, quan niệm về vấn đề này
cũng ngày càng hoàn thiện hơn.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và
tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng
trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng
nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện
dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu
GDP, GNI và được tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu
người. (Trích: Kinh tế phát triển, chủ biên GS. TS. Vũ Ngọc Phùng, NXB Lao
động xã hội, trang 17).
Hiện nay, trên thế giới người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị của
cải của xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm
quốc nội.
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị tính bằng tiền của những
hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của mình (dù
là sản xuất ở trong nước hay ở nước ngoài) trong một thời kỳ nhất định (thường
là một năm).
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ
hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra trên lãnh thổ của nước đó (dù nó
thuộc về người trong nước hay người nước ngoài) trong một thời gian nhất định
(thường là một năm).
7
So sánh tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ta
thấy:
GNP = GDP + thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài.
Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài = thu nhập chuyển về nước của công
dân nước đó làm việc ở nước ngoài trừ đi thu nhập chuyển ra khỏi nước của
người nước ngoài làm việc tại nước đó.
Tăng trưởng kinh tế là mức gia tăng GDP hay GNP năm sau so với năm trước.
1.1.2. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế
Để giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế, các nhà kinh tế học dùng các
mô hình kinh tế và lý thuyết tăng trưởng để giải thích. Có thể chia ra thành 2 thời
kỳ: thời kỳ trước Keynes và thời kỳ sau Keynes.
Thời kỳ trước Keynes:
Với sự đóng góp khá quan trọng trong việc nghiên cứu và giải thích các hiện
tượng kinh tế vào lý thuyết tăng trưởng kinh tế của: Adam Smith, David Ricardo,
Karl Marx, Alfred Marshall…
Adam Smith (1723 - 1790):
Với tác phẩm “Sự giàu có của các dân tộc”, nhà lý luận kinh tế chính trị Anh
nổi tiếng này đã đi đầu trong việc giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế.
Theo ông, lao động là nhân tố chính tạo ra của cải cho đất nước chứ không phải
đất đai hay tiền bạc, điều này được thể hiện rõ trong học thuyết “Giá trị lao
động”. Ông đã chủ trương phân công lao động và chuyên môn hóa, yếu tố quan
trọng cho việc tăng năng suất lao động và sản lượng đầu ra. Từ đó, ông nhận định
tăng trưởng kinh tế có tính hiệu suất tăng dần theo quy mô, nhà nước không nên
can thiệp vào thị trường mà hãy để cho “Bàn tay vô hình” của thị trường tự động
điều chỉnh.
David Ricardo (1772-1823):
Nhà kinh tế học người Anh này cho rằng nông nghiệp là ngành quan trọng
nhất nên đất đai, lao động và vốn là những yếu tố cơ bản cho sự tăng trưởng. Ông
đưa ra luận điểm đất đai sản xuất nông nghiệp (R, Resources) là nguồn gốc của
tăng trưởng kinh tế và cũng đồng thời là nguyên nhân giới hạn sự tăng trưởng.
8
Ngoài ra, Ricardo cho rằng giá cả và tiền công có tính linh hoạt nên
có khả năng tự điều chỉnh. Do đó, theo ông chính sách của chính phủ là không
quan trọng, thậm chí còn hạn chế khả năng tăng trưởng kinh tế.
Karl Marx (1818 – 1883):
Nhà kinh tế học người Đức đã đóng góp lớn vào lý thuyết tăng trưởng kinh
tế với công trình nổi tiếng bộ “Tư bản”. Theo Mác, các yếu tố của tăng trưởng
kinh tế là: đất đai, lao động, vốn và tiến bộ kỹ thuật. Ông cho rằng, để tăng năng
suất lao động (tức tạo ra giá trị thặng dư) thì phải cải tiến kỹ thuật, mà cải tiến kỹ
thuật thì cần vốn nên phải tích lũy tích lũy tư bản (nguồn gốc của tích lũy tư bản
là giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra). Mác đứng trên lĩnh vực sản xuất
để chia hoạt động xã hội thành hai lĩnh vực: sản xuất vật chất và phi sản xuất.
Theo ông chỉ có lĩnh vực sản xuất vật chất mới sáng tạo ra sản phẩm xã hội. Mác
còn cho rằng, khi thu được giá trị thặng dư nhà tư bản sẽ dùng giá trị thặng dư
này để đầu tư mở rộng sản xuất dẫn đến tăng trưởng kinh tế, nhưng do thiếu cầu
nên dẫn đến khủng hoảng thừa (khủng hoảng giúp nhà tư bản đổi mới và khôi
phục) vì vậy chính sách nhà nước có vai trò quan trọng, đặc biệt trong việc kích
cầu.
Alfred Marshall (1842-1924):
Nhà kinh tế học đi đầu cho trường phái tân cổ điển với tác phẩm nổi tiếng
“Các nguyên lý của kinh tế học” vào năm 1890. Ông cho rằng: vốn có thể thay
thế cho lao động và có nhiều cách kết hợp khác nhau giữa vốn với lao động (tăng
vốn trên một đơn vị lao động – phát triển theo chiều sâu; tăng vốn phù hợp với
lao động – phát triển theo chiều rộng); tiến bộ kỹ thuật là yếu tố cơ bản thúc đẩy
sự phát triển kinh tế. Ông có một số quan điểm giống với trường phái cổ điển,
khi cho rằng: nền kinh tế có hai đường tổng cung (thực tế và tiềm năng); khi nền
kinh tế có biến động trong điều kiện cạnh tranh thì giá cả và tiền công sẽ điều
chỉnh nền kinh tế về mức sản lượng tiềm năng và sử dụng hết lao động (toàn
dụng lao động); chính sách của chính phủ chỉ ảnh hưởng đến mức giá chứ không
tác động vào sản lượng (vai trò mờ nhạt).
Thời kỳ sau Keynes:
Với tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” vào
năm 1936, Keynes đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử kinh tế
9
học, tạo cơ sở cho sự ra đời của một trường phái kinh tế mới – trường phái
Keynes mới. Ông đã làm thay đổi quan điểm về vai trò của chính phủ trong điều
hành, thúc đẩy kinh tế phát triển. Mở đầu cho sự ra đời dòng lý thuyết tăng
trưởng hiện đại này là mô hình Harrod – Domar.
Harrod – Domar do hai nhà kinh tế học Roy Harrod (Anh) và Evsay Domar
(Mỹ) cùng đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp
ở các nước phát triển.
Mô hình này xem đầu ra của các đơn vị kinh tế phụ thuộc vào tổng
số vốn đầu tư cho nó.
Ta có:
Tốc độ tăng trưởng:
(*)
Tỷ lệ tiết kiệm: mà S = I nên hay (1)
Gọi k là tỷ số gia tăng giữa vốn và đầu ra.
mà nên hay
(2)
Thế (1) & (2) vào (*), ta được:
g = I/k . s/I = s/k
Như vậy: g = s/k
(3)
Trong đó: g: là tốc độ tăng trưởng GDP.
s: là tỷ lệ tiết kiệm.
k: là mức tăng vốn đầu tư trên mức tăng GDP (hay được gọi là chỉ
số ICOR).
Từ (3) ta thấy, tốc độ tăng trưởng GDP tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ
nghịch với ICOR.
Ông cho rằng, tiết kiệm và đầu tư là bí mật của tăng trưởng, nhưng đây cũng
là trở ngại của các nước đang phát triển (khả năng huy động vốn kém do thu
nhập thấp dẫn đến s thấp).
Robert Solow (sinh 1956):
Nhà kinh tế học người Mỹ đã khắc phục những nhược điểm của mô hình
Harrod – Domar, Solow đưa ra một mô hình mới (mô hình tăng trưởng ngoại
sinh, với biến ngoại sinh là tiến bộ công nghệ) để giải thích bản chất của tăng
trưởng kinh tế. Điểm đột phá của mô hình này là giảm sự cứng nhắc của mô hình
Harrod – Domar bằng cách sử dụng hàm sản xuất tân cổ điển với giả định các
10
nhân tố sản xuất có năng suất biên giảm dần. Khi vốn trên một lao động gia tăng,
sản lượng trên một lao động sẽ tăng, sự gia tăng của vốn sẽ tạo ra mức tăng
trưởng cao đối với các nước đang phát triển. Trong dài hạn các nền kinh tế sẽ hội
tụ về 1 điểm (điểm dừng), tại đây khi tăng lượng vốn thì tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế sẽ bằng 0. Mô hình này có ý nghĩa lớn trong việc giải thích tăng
trưởng từ đóng góp của các nhân tố sản xuất.
1.1.3. Tính chất hai mặt của tăng trưởng kinh tế
1.1.3.1. Vai trò của tăng trưởng kinh tế
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo những
biểu hiện chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng. Trong đó tăng trưởng kinh tế là cơ
sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội.
Trước hết, tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng, chất
lượng hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng kinh tế là
tiền đề vật chất để giảm bớt đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn đề có ý
nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con đường vượt lên khắc phục sự lạc
hậu, hướng tới sự giàu có, thịnh vượng
Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã
hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ,
giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế văn
hóa,… phát triển.
Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp.
Khi một nền kinh tế có tỉ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân
quan trọng là đã sử dụng tốt lực lượng lao động. vì vậy, tăng trưởng kinh tế
nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
thất nghiệp được lượng hóa dưới tên gọi quy luật Okum 1 (hay quy luật 2,5% 1). Quy luật này xác định, nếu GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm so
với GNP tiềm năng của năm đó thì tỉ lệ thất nghiệp giảm đi 1%.
Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng,
củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã
hội chủ nghĩa hội.
11
Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là
điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước
đang phát triển.
Do vậy, tăng trưởng kinh tế là vấn đề cực kì quan trọng, liên quan đến sự thịnh
suy của một quốc gia. Bởi thế, chính phủ nước nào cũng ưu tiên các nguồn lực
của mình do sự tăng trưởng kinh tế, coi đó là cái gốc, là nền tảng giải quyết mọi
vấn đề khác. Trên cơ sở giải quyết vấn đề tăng trưởng kinh tế tạo nhiều của cải
mới, người ta mới có thể giải quyết hàng loạt vấn đề khác như cân bằng ngân
sách, đầu tư chiều sâu, phúc lợi xã hội chủ nghĩa hội, giải quyết việc làm, chống
các tội phạm, đảm bảo ngân sách cho quốc phòng và an ninh…ngược lại nếu
không đạt được sự tăng trưởng kinh tế ở mức độ cần thiết thì trong xã hội sẽ có
khả năng nảy sinh hàng loạt vấn đề rất nan giải. Bài học của Việt Nam trong thời
kì khủng hoảng kinh tế trầm trọng (khoảng những năm 1976 – 1986) đã cho thấy
vai trò của tăng trưởng kinh tế như thế nào.
1.1.3.2. Những tác động tiêu cực của tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một yếu tố cơ bản của phát triển. Tuy nhiên, không
phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội như mong muốn.
Sự tăng trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn nền kinh tế đến “trạng thái quá nóng”,
lạm phát xảy ra, làm cho kinh tế xã hội thiếu bền vững, hay tăng trưởng kinh tế
cao làm cho bộ phận dân cư giàu lên nhưng đồng thời cũng làm cho sự phân hóa
giàu nghèo giữa các tầng lớp có thu nhập cao với tầng lớp có thu nhập thấp ngày
càng tăng, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng một mặt do cơ
hội và thành quả tăng trưởng kinh tế không được chia sẻ một cách đồng đều, mặt
khác do những biểu hiện làm giàu bất chính gia tăng như: tham nhũng, buôn lậu,
làm ăn phi pháp v.v…Có lẽ Trung Quốc là nước đã ý thức được điều này, cho
nên họ không quá lạc quan khi kinh tế tăng trưởng nhiều năm liên tục đạt trên
10%/năm. Họ cho rằng đó là một nền kinh tế quá “nóng”. Cần phải kiềm chế bớt
để có thể điều chỉnh các vấn đề xã hội, vì nếu không xử lý tốt mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với các vấn đề xã hội thì không tạo nên sự phát triển bền
vững được. Mặt khác, Trung Quốc là một nước vận dụng nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nếu không điều chỉnh kịp thời ngay từ đầu thì
sự tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ đưa Trung Quốc đi chệch quỹ đạo đã định.
12
Bản thân tăng trưởng kinh tế không tự nhiên mang lại sự công bằng, bình đẳng
trong xã hội. Vì vậy, sự đầu tư và hướng dẫn về giáo dục, sức khỏe và các dịch
vụ khác cũng tạo nên một sự chênh lệch giữa các nhóm người trong xã hội. Ta
thấy rằng, nếu nghiên cứu riêng sự tăng trưởng kinh tế thì phải thừa nhận rằng,
nền kinh tế thế giới ngày càng tăng trưởng cao, của cải tuôn ra ngày càng nhiều
và sang thế kỉ XXI, sự tăng trưởng đạt từ trình độ “kỳ diệu” trong lịch sử loài
người. Tổng sản lượng hàng năm của thế giới trong vòng 270 năm từ 1700 đến
1970 đã tăng khoảng 2000 lần, loài người đã khám phá mặt trăng và khai thác vũ
trụ, nhưng buồn thay công bằng xã hội lại dường như bị vi phạm ngày càng
nghiêm trọng hơn. Loài người sản xuất nhiều của cải hơn, nhưng loài người sống
với nhau dường như bất công hơn và vô đạo đức hơn. Thế giới tư bản chủ nghĩa
với hơn 20 nước giàu có, trong đó có những nước cực kì giàu có như Mỹ, Nhật
Bản vẫn không giải quyết được công bằng xã hội.
Bên cạnh đó, vấn đề tăng trưởng kinh tế (đặc biệt là đối với những nước có
nền kinh tế kém phát triển) do nhiều nguyên nhân đã gây ra ô nhiễm môi trường
cho một vùng, một khu vưc, thậm chí cả một quốc gia và làm gia tăng ảnh hưởng
xấu đến môi trường thế giới.
Như vậy, trong quá trình phát triển, xã hội nảy sinh những mâu thuẫn. Nếu
giải quyết được những mâu thuẫn không đối kháng thì xã hội sẽ phát triển, nếu
giải quyết không tốt thì mâu thuẫn có thể trở thành đối kháng có thể dẫn xã hội đi
tới thoái hóa, thậm chí suy sụp. Giải quyết tốt mâu thuẫn chính là làm tăng sự
thống nhất hài hòa giữa lợi ích đối lập đến tột đỉnh, triệt giảm sự xung đột đấu
tranh giữa chúng đến mức nhỏ nhất có thể.
1.2. Các yếu tố tác động đến sự tăng trưởng kinh tế
1.2.1. Đầu tư và vốn đầu tư
1.2.1.1. Một số quan điểm về đầu tư và vốn đầu tư
Theo nghĩa rộng, đầu tư là sự hy sinh nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra.
Đầu tư theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực
hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
13
Vốn đầu tư phát triển là vốn được bỏ ra để thực hiện mục đích đầu tư nhằm
sau một chu kỳ hoạt động nhất định hoặc sau một thời gian hoạt động nhất định
thu được một giá trị lớn hơn giá trị vốn đã bỏ ra.
1.2.1.2. Vai trò của vốn đầu tư trong tăng trưởng kinh tế
Một xã hội muốn tồn tại và phát triển cần phải đầu tư, đầu tư đó được biểu
hiện dưới dạng tiền gọi là vốn đầu tư.
Xét về phương diện toàn xã hội thì vốn đầu tư là toàn bộ giá trị nhân lực, tài
lực được bỏ thêm vào cho hoạt động của toàn xã hội trong thời gian nhất định
thường là một năm.
Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, đầu tư gồm:
Đầu tư cho sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi
trường;
Đầu tư cho sức khoẻ con người và phát triển trí tuệ văn hoá xã hội;
Đầu tư khác như: đầu tư cho bộ máy quản lý nhà nước, an ninh quốc
phòng, hợp tác quốc tế,…
Suy cho cùng, đầu tư đều đưa tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhưng tác
động đến tăng trưởng kinh tế thì đầu tư ở mỗi lĩnh vực lại không giống nhau. Đầu
tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi
trường có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và hiệu quả của đầu tư cho
thấy nhanh hơn, rõ ràng hơn. Chính vì vậy vốn đầu tư vào lĩnh vực này được xem
là quan trọng nhất, đặc biệt với các nước đang phát triển. Người ta thường xem
đây là đầu tư vào kinh tế và dùng để tính các chỉ tiêu phát triển kinh tế tầm vĩ
mô.
Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó những thay đổi
trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng
và công ăn, việc làm. Khi đầu tư tăng lên, có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua
sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng … tăng lên. Đầu tư
sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là có thêm các nhà máy, thiết bị, phương tiện
vận tải mới được đưa vào sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế.
Điều cần lưu ý là sự tác động của vốn đầu tư và vốn sản xuất đến tăng trưởng
kinh tế không phải là quá trình riêng lẻ mà nó là sự kết hợp, đan xen lẫn nhau, tác
động liên tục vào nền kinh tế.
14
Ngày nay vốn đầu tư và vốn sản sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của
quá trình sản xuất. Vốn sản xuất vừa là yếu tố đầu vào, vừa là sản phẩm đầu ra
của quá trình sản xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng
năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế, mà còn là điều kiện
để nâng cao trình độ khoa học – công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư
theo chiều sâu, hiện đại hóa quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp
phần vào việc giải quyết công ăn, việc làm cho người lao động khi mở ra các
công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất. Cuối cùng, cơ cấu sử dụng vốn
đầu tư là điều kiện quan trọng tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế
đất nước.
Mối quan hệ giữa cơ cấu đầu tư và tốc độ tăng trưởng
Các nhà kinh tế đều thừa nhận đầu tư là một trong những nhân tố quan
trọng nhất đối với tăng trưởng kinh tế, muốn có tăng trưởng phải có đầu tư.
Tuy nhiên cơ cấu đầu tư (đầu tư vào đâu) là một vấn đề gây nhiều tranh cãi.
Các nhà kinh tế đều đồng ý với nhau rằng cần có một cơ cấu đầu tư hợp lý,
để tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý. Thuật ngữ "hợp lý" ở đây được hiểu là cơ cấu đầu
tư và cơ cấu kinh tế như thế nào để đảm bảo được tốc độ phát triển nhanh và bền
vững. Mặc dù đồng ý với nhau như vậy nhưng các nhà kinh tế có quan điểm rất
khác nhau về cách thức tạo ra một cơ cấu đầu tư "hợp lý". Có một số quan điểm
chủ yếu sau đây:
Quan điểm của trường phái tân cổ điển
Quan điểm này cho rằng Nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế
trong quá trình phân bổ nguồn lực (Vốn, lao động...) mà sự vận động của thị
trường sẽ thực hiện tốt hơn vai trò này. Trường phái này khẳng định một trong
những ưu điểm của kinh tế thị trường đó là sự phân bổ nguồn lực một cách tự
động dưới sự tự điều khiển của thị trường. Các doanh nghiệp với mục đích tối đa
hoá lợi nhuận sẽ tìm kiếm những cơ hội đầu tư tốt nhất cho mình. Tuy nhiên giả
thiết của trường phái tân cổ điển là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Đó là thị
trường mà người bán và người mua không ai kiểm soát và có khả năng kiểm soát
giá cả và có đầy đủ thông tin trong cả hiện tại và tương lai. Trong thực tế giả
định này là một điều phi thực tế, nhất là về thông tin.
Quan điểm ủng hộ sự can thiệp của chính phủ
15
Quan điểm này cho rằng do thị trường không hoàn hảo, nhất là đối với các
nước đang phát triển, nên tự vận động của thị trường sẽ không mang lại kết quả
tối ưu. Thông tin không hoàn hảo có thể dẫn đến sản xuất và đầu tư quá mức.
Mặt khác, ở hầu hết các nước đang phát triển, kinh tế còn lạc hậu, phụ thuộc
vào nông nghiệp, nếu để thị trường tự vận động sẽ không tạo ra sự phát triển
mạnh mẽ. Nhà nước cần tạo ra sự khởi động ban đầu để hình thành nên các
ngành công nghiệp. Sự can thiệp của Nhà nước trong việc phân bổ nguồn lực cho
công nghiệp là cần thiết. Sở dĩ phải phát triển công nhiệp bởi đây là khu vực có
thể tăng năng suất nhanh nhất do ứng dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật, ngoài
ra khu vực này còn tạo ra kích thích cho toàn nền kinh tế. Vì lý do đó mà các
nước đang phát triển chủ trương đẩy mạnh phát triển công nghiệp, hay còn gọi là
quá trình công nhiệp hoá.
Tuy nhiên, ở nhiều nước sự can thiệp quá mức của nhà nước vào quá trình
công nghiệp đôi khi không hiệu quả. Rất nhiều ngành công nghiệp được hình
thành theo ý chí chủ quan của một số nhà lãnh đạo, chứ không dựa trên các phân
tích kinh tế kỹ càng. Tham nhũng, các hoạt động tìm kiếm đặc lợi càng làm cho
vấn đề thêm nghiêm trọng, lúc đó nền kinh tế chịu sự rủi ro rất cao của những
quyết định sai.
Quan điểm về tăng trưởng cân đối
Theo Rosenstain - Rodan, khái niệm tăng trưởng cân đối được đưa ra nhằm
mô tả sự tăng trưởng cân đối giữa các ngành trong nền kinh tế. Ông đề nghị đầu
tư nên hướng một lúc vào nhiều ngành để tăng cung cũng như kích thích cầu cho
nhiều sản phẩm. Sự phát triển trong công nghiệp chế biến đòi hỏi một lượng đầu
tư trong một thời gian dài; từ đó phát sinh sự phát triển song song cả hàng hoá
phục vụ sản xuất cũng như phục vụ tiêu dùng. Ý tưởng về cú huých lập luận rằng
gia tăng mạnh mẽ về đầu tư sẽ dẫn đến mức tiết kiệm tăng lên do gia tăng trong
thu nhập. Theo Rosenstain - Rodan, mục đích của viện trợ nước ngoài cho các
nước kém phát triển là đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế tới một điểm mà ở
đó tốc độ tăng trưởng kinh tế mong muốn có thể đạt được trên nền tảng tự duy
trì, không phụ thuộc vào nguồn tài trợ bên ngoài.
16
Theo Nurske, ông ủng hộ sự phát triển cân đối, sản xuất hàng loạt nhiều
loại sản phẩm để gia tăng cầu, lúc đó sẽ khai thác được "lợi thế về qui mô",
như vậy hiệu quả đầu tư mới cao và đẩy nhanh tốc độ phát triển.
Tăng trưởng không cân đối
Hirschman (1958) đưa ra một mô hình mang tính trái ngược. Ông cho rằng
sự mất cân đối giữa cung và cầu tạo ra động lực cho nhiều dự án mới. Theo cách
tiếp cận này vốn đầu tư cần được nhà nước phân phối cho những ngành công
nghiệp trọng điểm, nhằm tạo ra cơ hội ở những ngành khác trong nền kinh tế;
khái niệm về "liên hệ ngược" và "liên hệ xuôi" cũng ra đời từ ông này. Hai khái
niệm này được tính toán từ mô hình I/O. Ông cho rằng sự mất cân đối này sẽ tạo
ra sự phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi, nhiều
định chế của cơ chế thị trường chưa hoàn chỉnh, nên các điều kiện của thị trường
cạnh tranh hoàn hảo rõ ràng là chưa đáp ứng được. Mặt khác, nền kinh tế của ta
đang ở mức phát triển thấp, chịu ảnh hưởng của một thời gian dài trong cơ chế kế
hoạch hoá tập trung... Tất cả những đặc tính đó cho thấy Nhà nước cần đóng vai
trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế, không thể để thị trường
tự thân vận động.
1.2.1.3. Các nguồn vốn đầu tư
Khu vực kinh tế Nhà nước
Vốn ngân sách Nhà nước: là nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước
(ngân sách trung ương, ngân sách địa phương) cho các dự án đầu tư và các công
trình xây dựng.
Vốn vay cho đầu tư xây dựng cơ bản và mua sắm thiết bị: gồm vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn vay từ các nguồn khác.
Vốn của các doanh nghiệp Nhà nước: là nguồn vốn được hình thành từ
vốn tích lũy của chủ doanh nghiệp, từ lợi nhuận của doanh nghiệp trích ra để đầu
tư, từ thanh lý tài sản, từ nguồn vốn khấu hao tài sản cố định, từ các quỹ của
doanh nghiệp có thể huy động được bao gồm cả hình thức huy động vốn cổ phần,
phát hành trái phiếu (nếu được phép), vốn góp liên doanh từ giá trị quyền sử
dụng đất, nhà xưởng, vật tư, tiền mặt của các bên đối tác liên doanh.
17
Vốn khu vực kinh tế nhà nước khác: là vốn huy động được ngoài các
nguồn vốn nói trên: ví dụ từ nguồn quà biếu, tặng của các chính phủ, tổ chức phi
chính phủ, các tổ chức cá nhân khác, vốn hỗ trợ đặc biệt từ các quĩ khác (không
phải là đầu tư tín dụng của Nhà nước).
Khu vực ngoài quốc doanh:
Đầu tư tư nhân:
- Đầu tư trực tiếp (FDI): là một hình thức của đầu tư quốc tế mà chủ đầu
tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần của các dự án nhằm giành quyền điều
hành hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ,
thương mại.
- Đầu tư gián tiếp: là hình thức đầu tư mà ở đó chủ đầu tư nước ngoài đầu
tư bằng hình thức mua cổ phần của các công ty nước sở tại (ở mức khống chế
nhất định) để thu lợi nhuận mà không tham gia trực tiếp.
- Tín dụng thương mại: đây là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay vốn
và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay. Nguồn vốn này nhằm hỗ trợ cho các
hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu giữa các nước và cũng nhằm hỗ trợ cho
đầu tư nước ngoài.
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Đây là nguồn viện trợ song phương hoặc đa phương với một phần là không
hoàn lại, phần còn lại chịu lãi suất thấp và thời gian cho vay tùy thuộc vào từng
dự án. Đây cũng là nguồn vốn của Chính phủ nước ngoài hỗ trợ trực tiếp hoặc
gián tiếp thông qua các tổ chức quốc tế, tổ chức liên chính phủ, phi chính phủ
hoặc là nguồn ODA hỗn hợp bao gồm: một phần của Chính phủ nước ngoài, một
phần do các doanh nghiệp hoặc tổ chức phi Chính phủ đóng góp. Vốn ODA có
thể đi kèm hoặc không đi kèm các điều kiện chính trị.
Các hình thức chủ yếu của hỗ trợ phát triển:
Hỗ trợ dự án: đây là hình thức chủ yếu, bao gồm các hỗ trợ cơ bản cho
những dự án cải thiện cơ sở hạ tầng và những hỗ trợ kỹ thuật về mặt kỹ thuật
cho dự án.
Hỗ trợ phi dự án: chủ yếu là viện trợ chương trình đạt được sau khi kí các
hiệp định với đối tác tài trợ dành cho một mục đích tổng quát với thời hạn
nhất định.
18
Tín dụng thương mại: là những khoản tín dụng dành cho chính phủ các
nước sở tại với các điều khoản “mềm” về lãi suất, thời gian ấn định, hoặc dài
hạn nhưng thường kèm theo những ràng buộc nhất định.
1.2.2. Yếu tố lao động
1.2.2.1. Khái niệm
“Lao động là hoạt động hữu ích của con người nhằm sáng tạo ra của cải vật
chất và tinh thần cần thiết để thoả mãn những nhu cầu của cá nhân, của một
nhóm người, của doanh nghiệp hoặc của toàn xã hội” (Trích: Thực trạng lao
động Cơ sở lí luận và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội
2005, trang 13).
Lao động là một loại hàng hoá đặc biệt, dịch vụ lao động cũng như những
hàng hoá và dịch vụ khác được mua bán trên thị trường lao động (PGS.
TS. Phan Thúc Quân, Kinh tế phát triển, NXB thống kê, năm 2006).
Lao động tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Để tạo ra được nhiều của cải vật
chất cho xã hội cần cả về chất lượng lẫn số lượng lao động:
- Số lượng lao động phản ánh sự đóng góp của lao động vào phát triển kinh
tế. Số lượng lao động phụ thuộc vào dân số, quy mô và cơ cấu của nguồn lao
động do quy mô và cơ cấu dân số quyết định. Như ở Việt Nam, một nước đang
phát triển với dân số tăng nhanh đã làm cho thu nhập bình quân trên đầu người
thấp và lao động không có việc làm dư thừa nhiều.
- Chất lượng lao động là yếu tố làm cho lao động có năng suất cao hơn. Chất
lượng lao động có thể nâng cao bằng giáo dục, đào tạo và rèn luyện sức khoẻ.
Khi người lao động có trình độ văn hoá, khoa học kĩ thuật, trình độ quản lý trình
độ tay nghề cao và sức khoẻ tốt sẽ làm việc có năng suất cao hơn, mang lại lợi
ích kinh tế nhiều cho xã hội cũng như cho bản thân họ.
1.2.2.2. Vai trò của lao động trong tăng trưởng kinh tế
Khi chúng ta nói đến dân số, lao động và sự phát triển là nói đến vai trò của
con người trong sự phát triển. Vai trò này thể hiện ở hai mặt:
Thứ nhất, người lao động đã tạo ra sản phẩm bằng sự lao động trí óc sáng tạo
và tay nghề lao động của mình. Có thể nói người lao động là người cung sản
phẩm.
19
Thứ hai, người lao động đóng vai trò là người tiêu dùng các sản phẩm, dịch
vụ và tiếp thu kho tàng văn hoá, lịch sử của dân tộc và nhân loại. Ở khía cạnh
này, người lao động là người cầu sản phẩm.
Có thể nói vai trò hai mặt của con người trong dân số và lao động luôn
có mối quan hệ biện chứng với nhau và nó là một trong những nhân tố quyết định
đến sự phát triển.
1.2.2.3. Thị trường lao động
Thị trường lao động là cách nói gọn của thị trường sức lao động muốn nhấn
mạnh đến thị trường của việc sử dụng sức lao động vì sử dụng sức lao động đó
là lao động.
Theo tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì thị trường lao động là thị trường
mà trong đó các dịch vụ lao động được mua bán thông qua một quá trình để xác
định số lượng lao động được sử dụng cũng như mức tiền lương và tiền công.
Riêng ở Việt Nam, có thể nói thị trường lao động là nơi thực hiện các dịch vụ lao
động giữa người bán và người mua sức lao động thông qua các hình thức thỏa
thuận giá cả (tiền lương, tiền công) và các điều kiện khác trên cơ sở hợp đồng
hay thỏa thuận lao động.
20
Chương 2
THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA THÀNH PHỐ
CẦN THƠ TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY.
2.1. Vài nét về Cần Thơ và những tiềm năng tăng trưởng kinh tế của thành
phố Cần Thơ
2.1.1. Vài nét về Cần Thơ
Năm 1739, vùng đất Cần Thơ được khai mở và chính thức có mặt trên dư đồ
Việt Nam với tên gọi là Trấn Giang. Cùng với những thăng trầm của lịch sử dân
tộc, vùng đất Trấn Giang – Cần Thơ đã trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi và địa
giới hành chính. Mỗi giai đoạn lịch sử đều ghi dấu những bước phát triển mới
của vùng đất này (Trích: Cần Thơ thế và lực trong thế kỉ XXI (2006), NXB chính
trị quốc gia, Hà Nội. Trang 44).
Vị trí địa lý
Thành phố Cần Thơ nằm ở trung tâm vùng hạ lưu châu thổ sông Cửu Long
dài trên 55 km, dọc bên bờ tây
sông Hậu.
Thành phố Cần Thơ tiếp giáp:
Phía Bắc giáp An Giang;
phía Nam giáp Hậu Giang;
phía Tây giáp Kiên Giang;
phía Đông giáp Vĩnh Long và
Đồng Tháp.
Thành phố Cần Thơ có tọa độ
địa
lý
105013’38’’ đến
tọa
105050’35’’ kinh độ Đông, và
9055’08’’ đến 10019’38’’ vĩ độ
Bắc.
Thành phố Cần Thơ với diện
tích tự nhiên 1.390 km2 cách
biển Đông 75 km, cách thủ đô
Hà Nội 1.877 km và cách thành phố Hồ Chí Minh 169 km về phía Bắc (theo
đường bộ). Trong đó, diện tích đất nông nghiệp 115.705 ha với 92.820 ha trồng
21
lúa (chiếm 80,2% diện tích đất nông nghiệp), 1.097,8 ha đất mặt nước nuôi trồng
thủy sản, 227,28 ha đất lâm nghiệp có trồng cây phân tán và 5.959,6 ha đất ở
(Theo số liệu tài nguyên môi trường Cần Thơ điều tra, 1/5/2004).
Dân số - lao động:
Dân số: 1.198.555 người (theo Niên giám Thống kê 2009) . Tỷ lệ dân khu
vực thành thị là 783.104 người chiếm 65,84%, nông thôn là 406.451 chiếm
34,17% Về thành phần dân tộc: Người kinh: 1.153.341 người; Hoa: 14.212
người; Khmer: 21.343 người; các dân tộc khác: 568 người.
Lao động: Số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động là 758.518
người. Trong đó, lao động tham gia nền kinh tế quốc dân: 540.994 người; Số lao
động được đào tạo nghề trong năm là 41.200 người. Tỷ lệ lao động được đào
tạo/tổng số lao động là 39,07%. (Theo Báo cáo của BCH Đảng bộ Cần Thơ khóa
XI trình Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần thơ lần thứ XII, Ủy Ban nhân
dân thành phố Cần Thơ).
Đơn vị hành chính:
Hiện nay, thành phố Cần Thơ có 8 đơn vị hành chính, bao gồm 5 quận (Ninh
Kiều, Bình Thủy, Ô Môn, Cái Răng, Thốt Nốt) và 3 huyện (Phong Điền, Cờ Đỏ,
Vĩnh Thạnh). Trong đó, Ninh Kiều là quận trung tâm thành phố. Cần Thơ là đô
thị loại II, trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương từ tháng 1 năm
2004 và là trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ, văn hóa, khoa học –
kỹ thuật của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, Cần Thơ chính thức
được công nhận là đô thị loại I, ngày 24/06/2009.
Cần Thơ – thủ phủ của các tỉnh miền Tây Nam Bộ - đang lớn mạnh từng
ngày. Hệ thống đường bộ, đường thủy, sân bay, cảng biển, các khu chế xuất, khu
công nghiệp, mạng lưới bưu chính – viễn thông, ngân hàng hệ thống cung cấp
điện, nước hiện đại cùng các khu đô thị mới đang hình thành là những yếu tố thu
hút ngày càng nhiều các nhà đầu tư đến với Cần Thơ.
Thành phố Cần Thơ – trung tâm của đồng bằng sông Cửu Long
Sau khi Cần Thơ được chia tách thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương
và thành lập tỉnh Hậu Giang. Vai trò của thành phố Cần Thơ càng được khẳng
định: “Là vị trí trung tâm và là đô thị lớn nhất trong hệ thống các đô thị đồng
bằng Sông Cửu Long”.
22
- Xem thêm -