Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh lâm đồng...

Tài liệu Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh lâm đồng

.PDF
92
302
117

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ NGỌC THÀNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÂM ĐỒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ NGỌC THÀNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÂM ĐỒNG Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số:8380102 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.VŨ THƯ HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu thống kê, kết quả đề cập trong luận văn là trung thực, chính xác và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Tác giả luận văn Vũ Ngọc Thành MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ..................................................................................................7 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thi hành án dân sự ................................... 7 1.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ................................. 14 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự ........................................................................................................................... 24 Kết luận Chương 1 ................................................................................................ 29 Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG .....................................................30 2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội và yếu tố phát sinh các vụ việc về thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng ................................................................................................. 30 2.2. Thực trạng tổ chức thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng ............................ 33 2.3. Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng ........................ 36 2.4. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng ............................................................................................................................... 43 Kết luận Chương 2 ................................................................................................ 58 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG ..59 3.1. Quan điểm đổi mới về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự................... 59 3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng ............................................................................................................. 66 Kết luận Chương 3 ................................................................................................ 77 KẾT LUẬN ..............................................................................................................78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CHA : Chấp hành viên THA : Thi hành án THADS : Thi hành án dân sự TTV : Thẩm tra viên TPL : Thừa pháp lại TAND : Tòa án nhân dân TCCB : Tổ chức cán bộ UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Kết quả thi hành án về việc (từ năm 2014 – 2018) .................................. 39 Bảng 2.2. Kết quả thi hành án về giá trị (từ 2014 – 2018) ....................................... 39 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án dân sự là hoạt động của Nhà nước nhằm đưa các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay và các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật ra thi hành trên thực tế. Trong hoạt động tư pháp, nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Thi hành án dân sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa; góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Sau hơn hai mươi lăm năm, kể từ khi tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ chuyển từ Tòa án sang Chính phủ quản lý (tháng 7 năm 1993), hệ thống thi hành án dân sự đã được hình thành, từng bước phát triển, hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và ngày càng được củng cố, xác định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao trong từng giai đoạn cụ thể. Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp trong giai đoạn 2009 - 2012, toàn ngành phải thi hành tổng số 1.804.381 việc, với số tiền phải thu 90.444 tỷ đồng, bình quân một năm phải thi hành hơn 451 ngàn việc, với 22.611 tỷ đồng; giai đoạn 2013 - 2016 tổng số việc phải thi hành là 3.138.943 việc, với số tiền phải thu 436.150 tỷ đồng, bình quân một năm phải thi hành 784.735 việc, với 109.037 tỷ đồng; trong hai năm 2017 và năm 2018 số việc phải thi hành là 1.809.879 việc, với số tiền phải thu 368.960 tỷ đồng, bình quân một năm phải thi hành 904.939 việc, với 184.480 tỷ đồng. Như vậy qua số liệu thống kê cho thấy số việc và số tiền phải thi hành án hàng năm rất lớn, năm sau cao hơn năm trước, đặc biệt về số tiền có sự tăng cao đột biến. Tuy nhiên 1 công tác thi hành án dân sự đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, về cơ bản hàng năm đều đạt và vượt các chỉ tiêu, nhiệm vụ được Quốc hội, Chính phủ giao; nhiều vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài đã được quan tâm chỉ đạo xử lý, giải quyết dứt điểm. Hoạt động thi hành án dân sự đã tạo được lòng tin đối với Đảng, Nhà nước và Nhân dân, góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự hiện nay vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế như: Hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự còn nhiều bất cập, vướng mắc, chưa phù hợp với thực tiễn; việc kiện toàn, đổi mới tổ chức, bộ máy còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao ngày càng nặng nề; cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động vẫn còn nhiều khó khăn, đầu tư thiếu đồng bộ; chế độ chính sách đối với người làm công tác thi hành án còn chưa tương xứng với tính chất đặc thù công việc; tình trạng khiếu nại, tố cáo ngày càng nhiều, diễn biến phức tạp; cơ chế phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự đạt hiệu quả chưa cao; kết quả công tác thi hành án dân sự đạt được hàng năm chưa thật sự bền vững; án tồn đọng chuyển kỳ sau, án có điều kiện thi hành nhưng kéo dài, chậm giải quyết còn nhiều... những bất cập, tồn tại này nếu không có cơ chế, biện pháp giải quyết một cách căn cơ, triệt để sẽ ảnh hưởng, làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong thời gian tới. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta có lịch sử hình thành và phát triển chưa lâu, chính vì thế để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, đòi hỏi cần tiếp tục phải có sự tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu về thi hành án dân sự ở nhiều khía cạnh, giác độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn để có sự đánh giá, nhìn nhận một cách khoa học nhất, khách quan nhất về thi hành án dân sự, qua đó đưa ra những khuyến nghị để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự nói chung và đặc thù tại các địa phương nói riêng, đảm bảo hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả. Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng" để làm luận văn thạc sỹ 2 chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân sự, đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân sự. Xin nêu một số công trình: Đề tài cấp bộ: "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp phối hợp với Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì; Đề tài cấp bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số: 96-98-027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (nay là Tổng Cục thi hành án dân sự) chủ trì năm 1996; Đề tài cấp nhà nước: “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ Tư pháp chủ trì, năm 2000; Đề tài cấp bộ: “Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện” của Dự án VIE/98/001” do Bộ Tư pháp chủ trì năm 1998; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, năm 2001; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự”, tác giả Lê Xuân Hồng, năm 2002; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Thi hành quyết định trọng tài tại Việt Nam” của tác giả Trần Anh Tuấn, năm 2002; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Đổi mới tổ chức và hoại động thi hành án dân sự tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Quang Thái, năm 2003; Luận văn thạc sỹ Luật học “Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn, năm 2004; Luận văn thạc sỹ luật học “Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự” của tác giả Hoàng Kim Chiến, năm 2010; Đề tài khoa học cấp Bộ “Thực trạng đội ngũ Chấp hành viên và xây dựng khung chương trình đào tạo Chấp hành viên theo yêu cầu cải cách tư pháp ”, năm 2010, do PGS.TS Nguyễn Văn Luyện, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS – Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” của tác giả Nguyễn Khánh Na; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” của tác giả Trần Văn Phong; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Pháp luật về thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” của tác giả Lê Thị 3 Lanh. Ngoài các công trình nghiên cứu nói trên, còn có Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Luật Hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, các công trình nghiên cứu, các bài viết được công bố trên sách, báo, tạp chí; một số bài viết liên quan đến thi hành án dân sự được đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Luật học... Các công trình nghiên cứu nêu trên có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở những góc độ, khía cạnh khác nhau. Ở một số công trình đã đề cập đến một số vấn đề thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự, như chủ yếu xuất phát từ thực tiễn tại địa phương, chưa có công trình nghiên cứu tổng thể, toàn diện, chuyên sâu về thực trạng công tác thi hành án dân sự trên cả nước trong giai đoạn hiện nay để có giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự nói chung và đặc thù của tỉnh Lâm Đồng nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng nói riêng, có ý nghĩa đối với công tác thi hành án dân sự nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra để giải quyết các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự; - Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng, những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự; - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu bao gồm tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự cấp tỉnh và thi hành án dân sự cấp huyện thuộc tỉnh Lâm Đồng. Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ khi cơ quan thi hành án dân sự tách và thành lập (tháng 7/1993), nhưng tập trung nghiên cứu sâu kể từ thời điểm Luật thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; các quyền con người, quyền công dân; cải cách hành chính và cải cách tư pháp có liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, khảo sát thực tiễn… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn nghiên cứu khá toàn diện và hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta. Kết quả nghiên cứu luận văn có thể góp một phần nhỏ vào việc làm đầy đủ, phong phú và toàn diện hơn nhận thức lý luận về thi hành án dân sự, đồng thời góp phần vào việc tăng cường chất lượng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự hiện nay. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ 5 góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự nói chung và cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng nói riêng; góp một phần vào công cuộc cải cách hành chính, cải cách nền Tư pháp ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận văn gồm có 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng Chương 3: Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành án dân sự 1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự Trong khoa học pháp lý, “thi hành án” được hiểu là việc đưa các phán quyết của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Như vậy đối tượng của THA là các bản án, quyết định của Tòa án, việc đưa ra thi hành các bản án, quyết định của Tòa án được coi là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà nước, bởi lẽ nó một mặt bảo đảm việc thực hiện quyền lực của Nhà nước, mặt khác lại là công cụ hữu hiệu để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Theo Đại từ điển tiếng Việt, khái niệm “Thi hành” được hiệu là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết định" [71, tr.1559]. Như vậy, THA có thể được hiểu là việc thực hiện các phán quyết của Tòa án hay nói cách khác là hoạt động làm cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thực hiện. Nếu trong hoạt động xét xử, kết quả xét xử là việc Tòa án xem xét các tình tiết xảy ra, dựa trên chứng cứ, qua đó áp dụng các điều luật cụ thể để đưa ra phán quyết thì kết quả của THA là căn cứ phán quyết của Tòa án để áp dụng pháp luật thực hiện phán quyết đó trên thực tế, THA chính là khâu cuối để công lý được thực thi. Hiện nay còn có những ý kiến khác nhau về khái niệm THA, thể hiện hai quan điểm cơ bản: Quan điểm thứ nhất cho rằng, THA là một giai đoạn của tố tụng bởi: “Có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự”. Quan điểm này cho rằng THA gắn liền với hoạt động xét xử, xét xử là tiền đề của THA, thi hành án là sự tiếp nối với xét xử, làm cho phán quyết của Tòa án có hiệu lực trên thực tế, vì vậy nó có tác dụng củng cố kết quả xét xử. Đặc biệt trong THADS, các quan hệ pháp lý chủ yếu mang tính tài sản – đặc trưng của quan hệ dân sự, thông 7 qua THADS, bên phải THA phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản và bên được THA nhận được các quyền, lợi ích về tài sản. Mặt khác THADS còn có tính độc lập - một đặc trưng của hoạt động tư pháp. Trong hoạt động tổ chức THA, CHV có các nhiệm vụ, quyền hạn mang tính độc lập, pháp luật qui định cá nhân, cơ quan, tổ chức không được can thiệp trái pháp luật vào quá trình THADS của CHV. Chính vì THA là một giai đoạn của hoạt động tố tụng nhằm bảo đảm cho phán quyết của Tòa án được thi hành một cách chính xác, kịp thời, do đó hoạt động này phải gắn liền với quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử, đồng thời phải giao cho Tòa án thực hiện, “Bởi nếu tách ra thì sẽ không thực hiện được mục tiêu chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Khi chân lý được làm sáng tỏ thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án, chỉ mới dừng lại ở việc làm rõ đúng, sai, phải, trái trên văn bản giấy tờ. Muốn nó được thực hiện trên thực tế, cần phải chờ ở việc tổ chức thi hành án trên thực tế. Vì vậy, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử.” [67, tr.8]. Quan điểm thứ hai cho rằng, THA là một giai đoạn mang tính hành chính - tư pháp, các quan hệ THA bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính hành chính - tư pháp, trong đó các quan hệ mang tính hành chính - tư pháp là chủ yếu, các thủ tục trong quá trình tổ chức THA cũng mang nặng tính hành chính - tư pháp, nhất là thủ tục thi hành các vụ án kinh tế, tuyên bố phá sản, lao động… do đó không thể đồng nhất hoạt động THA với hoạt động tố tụng. Mặt khác do tính chất hành chính – tư pháp nên trong một số lĩnh vực, một số công việc liên quan đến THA, Nhà nước xem xét xây dựng cơ chế pháp lý để từng bước thực hiện xã hội hóa hoạt động này. Đây chính là điểm khác biệt của hoạt động THA so với hoạt động tố tụng, bởi hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không thể xã hội hóa [67, tr.10-11]. Do THADS không mang tính tố tụng thuần túy, nên nó cần được coi là hoạt động đặc thù mà chủ thể thực thi không phải là Tòa án. Việc này là cần thiết để tạo cơ chế kiểm soát chặt chẽ hơn, tránh lạm quyền trong hoạt động tố tụng, bởi một chủ thể là Tòa án không thể làm hai việc vừa ra phán quyết, vừa thực thi phán quyết. Như vậy rõ ràng THA cần một cơ chế độc lập, minh bạch hơn, trách nhiệm giải trình lớn 8 hơn, chính vì thế chủ thể thực thi phải thuộc về cơ quan hành chính nhà nước. Các quan điểm trên về THA đều dựa trên các luận cứ khoa học và thực tiễn, có tính hợp lý nhất định. Trong lịch sử hình thành và phát triển cơ quan THADS cũng cho thấy có lúc chúng ta cho cơ quan THA là cơ quan tư pháp, có lúc gọi là cơ quan hành pháp và hiện nay đa số quan điểm đều cho rằng THA là cơ quan có tính chất hành chính – tư pháp. Tôi đồng tình với quan điểm coi THA là hoạt động mang tính hành chính - tư pháp, một giai đoạn có tính độc lập tượng đối, không phải là một giai đoạn của tố tụng dân sự. Qua quan điểm, khái niệm về THA, trên cơ sở bản chất, đặc trưng, phạm vi của hoạt động THADS, có thể định nghĩa về THADS như sau: Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp có tính độc lập tương đối, do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo thủ tục được pháp luật qui định nhằm thực hiện bản án, quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của pháp luật được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. 1.1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự Một là, THADS là hoạt động mang tính chất hành chính - tư pháp nhằm thực hiện quyền lực nhà nước, do cơ quan THADS và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan được nhà nước trao quyền thực hiện nhằm đưa các bản án, quyết định của Tòa án, các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền ra thi hành trên thực tế. Tính chất chấp hành, quản lý trong hoạt động THADS được thực hiện theo các nguyên tắc, trình tự, thủ tục luật định, với quy trình chặt chẽ tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan THA thực hiện nhiệm vụ từ khi tiếp nhận bản án, quyết định của Tòa án, nhận đơn yêu cầu THA đến thụ lý, ra quyết định, tổ chức thi hành và kết thúc việc THA. Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ tổ chức THA, cơ quan THADS và Chấp hành viên phải xây dựng các phương án, phương pháp THA cụ thể đối với từng vụ việc, do đó yêu cầu của hoạt động THA là phải có tính kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra... đó là những tính chất cơ bản của hoạt động quản lý nhà nước. 9 Hai là, THADS là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, gắn liền với hoạt động xét xử. Trong đó, kết quả xét xử là tiền đề của THADS, không có hoạt động xét xử thì không có hoạt động THA. Tuy nhiên, hoạt động THA cũng có tính độc lập tương đối, thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu bằng việc thụ lý, ra quyết định THA của Thủ trưởng cơ quan THADS, quyết định này mang tính bắt buộc chấp hành đối với các chủ thể có trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc THADS. Việc không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm quyết định THA có thể dẫn đến hậu quả pháp lý và bị áp dụng xử lý bằng các chế tài nhất định. Ba là, căn cứ để THADS là các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật. Trong một số trường hợp mặc dù bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực nhưng vẫn được thi hành ngay. Những bản án, quyết định thuộc thẩm quyền thi hành của cơ quan THADS, gồm: Bản án, quyết định dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình; phần dân sự trong các bản án hình sự; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam… Những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay gồm: Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc và các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án. Bốn là, trong THADS việc thuyết phục để đương sự tự nguyện THA được coi là phương pháp chủ đạo, cần thiết và quan trọng trong quá trình giải quyết THA. Nó tránh được việc cơ quan THA phải áp dụng các biện pháp bảo đảm hoặc cưỡng chế THA, làm cho vụ án có thể trở nên phức tạp, kéo dài, cũng vì thế mà mất đi tính hiệu lực trong các phán quyết của Tòa án. Tuy nhiên nếu người phải THA không tự nguyện thi hành thì cần thiết phải áp dụng biện pháp cưỡng chế THA theo quy định của pháp luật. Đây là biện pháp đặc thù áp dụng đối với các trường hợp có điều kiện thi hành 10 nhưng cố tình trốn tránh, cản trở việc THA; việc cưỡng chế có tính chất răn đe, giáo dục họ và những người có liên quan về ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật. Năm là, thỏa thuận THA là một phương thức được khuyến khích và cho phép thực hiện trong suốt quá trình THADS, kể cả trước khi đương sự yêu cầu THA. Các đương sự của vụ án có quyền thỏa thuận với nhau về thời gian, địa điểm, nội dung, thời hạn, hậu quả pháp lý trong thực hiện việc THA, nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả THA theo thỏa thuận được công nhận và theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến, ghi nhận việc thỏa thuận về THA. Trường hợp đương sự không thực hiện đúng thỏa thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan THADS thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung bản án, quyết định. Đặc điểm này của THADS xuất phát từ nguyên tắc tự thỏa thuận của các bên trong giao lưu dân sự theo quy định của pháp luật dân sự. Sáu là, quá trình THA đòi hỏi có sự tham gia của nhiều chủ thể trong việc phối hợp chỉ đạo, xử lý giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình tổ chức THA. Đặc biệt là sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự phối hợp của các cơ quan tư pháp trong việc thi hành các bản án, quyết định có nội dung phức tạp. Khi tham gia vào hoạt động tổ chức THA, các tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Bảy là, trong THA thường tồn tại ba chủ thể chính với địa vị pháp lý khác nhau, đó là cơ quan THADS, người phải THA và người được THA. Người phải THA và người được THA là các chủ thể có quyền, nghĩa vụ đối lập nhau, chính vì thế đòi hỏi việc tổ chức THA phải thật sự công tâm, vô tư, khách quan nhằm bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự. Mặt khác cơ quan THADS và Chấp hành viên phải thực hiện thủ tục THA một cách độc lập, không cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được can thiệp trái pháp luật vào quá trình THADS. 1.1.2. Vai trò của thi hành án dân sự Thứ nhất, THADS có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng, là công đoạn 11 cuối cùng của hoạt động tố tụng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành nghiêm chỉnh, có hiệu lực thi hành trên thực tế. “Công lý bị trì hoãn cũng có nghĩa là công lý bị từ chối” (Justice delayed is justice denied), do đó việc thi hành các phán quyết của Tòa án một cách kịp thời, đúng phát luật để kết thúc việc THA có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn tất hoạt động xét xử của Tòa án và các hoạt động tư pháp khác. Một nền tư pháp được coi là có hiệu quả hay không, tính thượng tôn pháp luật trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền có được coi trọng hay không chính là việc các hoạt động tư pháp được thực thi như thế nào, có hiệu lực, hiệu quả không. Các hoạt động tư pháp, các cơ quan tư pháp từ điều tra, truy tố, xét xử và THA đều có vai trò quan trọng và có mối quan hệ mật thiết, ràng buộc, bổ trợ lẫn nhau, nếu chỉ một cơ quan, một giai đoạn trong hoạt động tư pháp thực hiện kém hiệu quả cũng sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả của cả hệ thống. Không những có vai trò đảm bảo cho các phán quyết của Tòa án có hiệu lực trên thực tế, THA còn là giai đoạn để kiểm nghiệm thực tiễn các phán quyết của Tòa án có đảm bảo sự đúng đắn, khách quan, trung thực, chất lượng và hiệu quả hay không, hay nói cách khác hoạt động THA là cái gương phản chiếu hoạt động xét xử, nhìn vào hoạt động THA có thể nhận biết được hoạt động xét xử. Thứ hai, công tác THADS có vai trò quan trọng trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Thông qua hoạt động THADS những bản án, quyết định của Tòa án được thực thi trên thực tế; công lý, công bằng xã hội được đảm bảo thực hiện; trật tự xã hội được giữ vững, niềm tin của công dân đối với Nhà nước được củng cố. Có thể khẳng định niềm tin vào công lý của quần chúng Nhân dân không chỉ nhìn vào hoạt động điều tra, truy tố, xét xử mà phần nhiều còn nhìn vào hoạt động THA. Một bản án, quyết định nếu không được thi hành hoặc thi hành không hiệu quả sẽ tác động ngược đến toàn bộ quá trình tố tụng của các cơ quan tư pháp và như thế có nghĩa hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định của Tòa án không được tôn trọng; trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm; quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân bị xâm hại. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra sự mâu thuẫn, xung đột, tạo hiệu ứng tiêu cực, bất ổn trong xã 12 hội, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Thứ ba, THADS góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế. Nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và tiến hành hội nhập một cách sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, trong quá trình đó có rất nhiều hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp trong và ngoài nước vào nền kinh tế. Việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đặt ra yêu cầu phải nâng cao hiệu quả hoạt động tư pháp nói chung và THADS nói riêng để tiết kiệm thời gian, giảm chi phí tiếp cận công lý và tuân thủ thủ tục hành chính, không tạo gánh nặng tâm lý đối với người dân và doanh nghiệp. Điều này có nghĩa cùng với hoạt động xét xử, hoạt động THADS hiệu quả sẽ rút ngắn thời gian thực hiện trình tự, thủ tục, nhanh chóng giải quyết các tranh chấp pháp lý, khơi thông các nguồn tài chính để phục vụ hoạt động kinh doanh, nhất là trong lĩnh vực tín dụng, ngân hàng sẽ góp phần tích cực tạo môi trường thuận lợi để phát triển sản xuất kinh doanh. Thứ tư, THADS có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là các quyền về nhân thân và tài sản. Rõ ràng việc đưa các phán quyết của Tòa án ra thi hành trên thực tế chính là quá trình khôi phục, khắc phục lại tình trạng ban đầu các quyền vốn có, tự nhiên của con người bị xâm hại. Quyền và lợi ích hợp pháp của công dân còn được đảm bảo trên khía cạnh họ là đương sự của vụ án. Bởi trong quá trình tổ chức THA các bên đương sự được đảm bảo thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình từ việc được thông báo các văn bản, giấy tờ, quyết định về THA; được tham gia vào quá trình giải quyết, tổ chức THA; được tôn trọng và đảm bảo thực hiện các quyền về tự nguyện THA và thỏa thuận THA; được cung cấp thông tin; được quyền kiến nghị thay đổi người được giao tổ chức THA; quyền khiếu nại, tố cáo… đây là các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong THADS. Thứ năm, THADS góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của Nhân dân. Để tổ chức THA, cơ quan THADS thường xuyên phải phối hợp với chính quyền địa phương, các đoàn thể, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tiến hành động viên, 13 thuyết phục các bên đương sự hòa giải, thỏa thuận giải quyết việc THA để họ tự nguyện thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án. Thông qua hoạt động THA, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về THADS nói riêng được truyền tải đến người được THA, người phải THA, các tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan, qua đó nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của Nhân dân. 1.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự 1.2.1. Tổ chức thi hành án dân sự 1.2.1.1. Khái niệm tổ chức thi hành án dân sự Theo tiếng Hy lạp “tổ chức - organon” là để chỉ một cơ quan nào đó của cơ thể người, có chức năng nhất định, là kết cấu tự nhiên trong chỉnh thể người. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: Tổ chức là “hình thức tập hợp, liên kết các thành viên trong xã hội (cá nhân, tập thể) nhằm đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích của các thành viên, cùng nhau hành động vì mục tiêu chung”. “Tổ chức” cũng là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong khoa học tổ chức và quản lý. Theo đó khoa học tổ chức và quản lý cho rằng tổ chức là “tập thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung hoặc nhằm đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó”. Đặc trưng mang tính phổ biến của "tổ chức" là việc tập hợp, kết hợp, liên kết lại bao giờ cũng theo hình thức cơ cấu và quy luật vận động đã định hình, qua đó giúp cho “một hệ thống gồm nhiều phân hệ, có những mối quan hệ hữu cơ hợp lý, rõ ràng, hợp tác và phối hợp chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong một tổng thể, phát sinh một lực tổng hợp tác động cùng chiều lên một đối tượng nhằm đạt những mục tiêu chung đã định” Khoa học luật dân sự gọi tổ chức là pháp nhân khi tham gia với tư cách chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự. Theo Bộ luật dân sự năm 2015 (Điều 74) thì một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện: (i) được thành lập hợp pháp; (ii) có cơ cấu tố chức chặt chẽ; (iii) có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; (iv) nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Như vậy khoa học pháp lý coi trọng đến các điều kiện 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan