Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thự...

Tài liệu Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố hà nội

.PDF
88
315
137

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ THU HƯỜNG TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành : Luậ Mã s : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS CAO THỊ OANH HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Viện khoa học xã hội, Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................ 7 1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .......... 7 1.2. Lịch sử phát triển, các quy định của luật hình sự của Việt Nam đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .................................................................................................. 16 1.3. Quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và kinh nghiệm rút ra với pháp luật hình sự Việt Nam .......................... 26 1.4. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội khác có dấu hiệu liên quan ............................................................................................................................... 29 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN .................................................................................... 34 2.1. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự 1999...................................................................................................... 34 2.2. Trách nhiệm hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong các trường hợp đặc biệt ................................................................................................................ 50 Chương 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ........................................................................................................ 53 3.1. Kết quả thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội những năm gần đây ........................................................................................ 53 3.2. Những ưu điểm và hạn chế trong thực tiễn áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản những năm gần đây ............................................................................. 61 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực tiễn đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản .............................................................................................................. 65 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 80 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật Dân sự BLHS: Bộ luật Hình sự BLTTHS: Bộ luật Tố tụng Hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm TNHS: Trách nhiệm Hình sự TAND: Tòa án nhân dân VKSND: Viện kiểm sát nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG S hiệu Tên bảng Trang Thống kê số liệu số vụ án, bị cáo phạm tội lạm dụng tín Bảng 3.1. nhiệm chiếm đoạt tài sản được giải quyết trên địa bàn thành 54 phố Hà Nội từ 2012- 2016 Thống kê việc truy cứu TNHS về tội lạm dụng tín nhiệm Bảng 3.2. chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội từ 2012- 54 2016 Thống kê việc quyết định hình phạt về tội lạm dụng tín nhiệm Bảng 3.3. chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội từ 20122016 55 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đứng trước công cuộc đổi mới và hội nhập thế giới hiện nay, đất nước ta không ngừng phát triển cả về trí và lực. Điều kiện kinh tế, xã hội của con người ngày càng cao, trình độ của người dân cũng ngày một phát triển. Bên cạnh những thành tựu trên các lĩnh vực về kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội nước ta đã đạt được, mặt trái của sự phát triển không thể không nói đến tình hình tội phạm ngày càng phức tạp hơn, các loại tội phạm hoạt động ngày càng tinh vi với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng nghiêm trọng. Dưới sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đời sống của người dân ngày một nâng cao lại làm các tội phạm xâm phạm sở hữu càng nảy sinh thêm lòng tham, ý muốn chiếm đoạt tài sản có giá trị của người khác để phục vụ cho bản thân. Một trong các loại tội xâm phạm sở hữu cần nói đến là tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bằng các thủ đoạn ngày càng tinh vi và phức tạp, tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể gây ra rất nhiều thiệt hại cho người dân, những người vì sự tin tưởng mà trao tài sản cho người phạm tội. Cũng chính vì sự tin tưởng này mà nhiều người dân bị hại có thể mất đi những tài sản rất lớn, nhiều khi dẫn tới kiệt quệ về kinh tế, lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Điều này không những xâm phạm quyền sở hữu của người dân mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của những người bị hại, gây ra tác hại xấu cho cộng đồng, xã hội, làm mất lòng tin của nhân dân. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng là loại tội phạm có nhiều dấu hiệu liên quan đến các tranh chấp dân sự, do đó, việc phát hiện tội phạm nhiều khi bị bỏ lọt hoặc bị chậm trễ dẫn đến thiệt hại cho người dân chậm được khắc phục, quyền của công dân bị xâm phạm do tội phạm có liên quan đến vấn đề hình sự hoá các quan hệ dân sự, kinh tế. Việc tồn tại tình trạng như vậy là do các quy phạm pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tội phạm này còn chưa thống nhất, các cơ quan áp dụng pháp luật nhiều khi còn lúng túng trong quá trình áp dụng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, chất lượng quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Việc nghiên cứu sâu về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của luật hình sự Việt Nam đặt ra vấn đề cần quan tâm. Nghiên cứu về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong những năm gần đây thực tiễn cũng đặt ra nhiều vấn đề cần tìm hiểu kỹ càng. Đặc biệt, việc nghiên cứu vấn đề tội phạm này trên địa bàn thủ đô Hà Nội- trung tâm văn hoá, chính trị của đất nước lại càng cần thiết hơn, bởi lẽ Hà Nội là một trong những thành phố đi đầu về sự 1 phát triển, đây cũng sẽ là nơi thu hút nhiều tội phạm xâm phạm về sở hữu trong đó có tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tình hình tội phạm nói chung, tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng không được quan tâm, làm rõ để kịp thời khắc phục sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến bộ mặt của thủ đô. Tuy nhiên, trong các đề tài nghiên cứu những năm gần đây, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản lại ít được nghiên cứu đầy đủ và toàn diện. Các vấn đề về thực tiễn liên quan đến tội phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng cũng chưa được đi sâu nghiên cứu, bám sát. Thực tiễn đặt ra rằng, vẫn còn nhiều vướng mắc trong vấn đề định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Điều này sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến công tác đấu tranh phòng ngừa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng, các loại tội phạm nói chung. Xuất phát từ tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, nhằm đóng góp và đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tác giả đã lựa chọn đề tài: "Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Quá trình nghiên cứu đề tài, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội phạm có tính tinh vi và phức tạp. Tội phạm này đã được đề cập trong một số giáo trình, sách, báo, bài viết gồm có: - Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập II của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2015); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của GS. TS. Võ Khánh Vinh (Chủ biên), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2003); Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm), tập 2- Các tội xâm phạm sở hữu của ThS. Đinh Văn Quế, Nxb Tp Hồ Chí Minh (2002); Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của tập thể tác giả TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sỹ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (2001),... Các công trình trong sách, giáo trình nói trên, các tác giả đã đề cập đến nội dung về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, các công trình chỉ dừng lại ở những khái niệm, dấu hiệu cơ bản, những bình luận một cách tổng quan làm khuôn mẫu cho các đề tài nghiên cứu mà chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới góc độ pháp lý hình sự. 2 - Đề tài "Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự Việt Nam"- Luận văn Thạc sỹ năm 2012 của tác giả Hồ Ngọc Hải; Đề tài "Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản"- nghiên cứu của ThS. Võ Văn Tài, Giảng viên khoa Kiểm sát hình sự; Đề tài “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140 BLHS 1999” của Nguyễn Thu Vân, Luận văn thạc sỹ. Các đề tài nêu trên đã đề cập đến tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới góc độ luật hình sự và tội phạm học. Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu đều chỉ nghiên cứu một phần hoặc một góc độ liên quan đến tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà chưa nghiên cứu một cách toàn diện về tội phạm này. Hơn nữa, các đề tài cũng chưa nghiên cứu sâu về thực tiễn đối với tội phạm trên địa bàn thành phố Hà Nội- là một điểm nóng về tội phạm nói chung, tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng. - Bài viết "Tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” – Một số vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện" của ThS. Trần Duy Bình, Toà án nhân dân tỉnh An Giang cũng đã đề cập đến tội phạm này dưới góc độ luật hình sự. Nhưng bài viết chỉ đưa ra những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn và một số kiến nghị hoàn thiện mà chưa đi vào phân tích chuyên sâu các vấn đề về tội phạm, các dấu hiệu hay trách nhiệm hình sự của tội phạm. Từ những công trình, bài viết, tài liệu được trình bày ở trên, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội còn là vấn đề bỏ ngỏ. Đến thời điểm này, đề tài "Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là đề tài có tính mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. M c đíc nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử tại TAND hai cấp trên địa bàn thành phố Hà Nội của tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận chuyên sâu đối với quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm. Qua bài viết, hình thành các vấn đề về thực tiễn xét xử trong các vụ án về tội phạm này làm cơ sở cho việc nhận thức và áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về xử lý tội phạm. Từ các cơ sở phân tích đó, luận văn kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 3 3.2. Nhiệm v nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu được đặt ra ở trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn bao gồm: Thứ nhất, nghiên cứu, đưa ra khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; làm rõ lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Thứ hai, làm rõ các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; so sánh tội phạm với một số tội phạm khác gần gũi. Thứ ba, phân tích, làm rõ về thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội; tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án, áp dụng pháp luật. Từ đó, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đ i ượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và các bản án về tội phạm này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn xét xử tại TAND hai cấp địa bàn thành phố Hà Nội dưới góc độ pháp lý hình sự trong thời gian 05 năm từ năm 2012 đến năm 2016. Góc độ nghiên cứu tập trung chủ yếu vào các số liệu xét xử thực tiễn tại TAND hai cấp thành phố Hà Nội trong phạm vi 05 năm qua 100 bản án về tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của TAND hai cấp thành phố Hà Nội. Đến thời điểm nghiên cứu đề tài, Bộ luật hình sự 2015 đang được sửa đổi, hoàn thiện, chưa có hiệu lực. Các quy định hiện hành về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được tiến hành theo Bộ luật hình sự 1999. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. P ươ pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận từ phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, tác giả còn dựa trên các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực trong đó có đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng. 4 5.2. P ươ pháp nghiên cứu Qu tr nh nghie n cứu đề t i, tác giả sử dụng c c phu o ng ph p nghie n cứu của khoa học luạ t h nh sự nhu : pha n tích, tổng hợp, thống ke ; phu o ng ph p so s nh, đối chiếu; pha n tích quy phạm ph p luạ t, khảo s t thực tiễn; điều tra n điển h nh... để pha n tích v luạ n chứng c c vấn đề khoa học cần nghie n cứu. Ngo i ra, trong qu tr nh thực hi n đề t i, t c giả đã tiếp thu có chọn lọc kết quả của c c co ng tr nh nghie n cứu đã co ng ố, c c đ nh gi , tổng kết của c c co quan chuye n mo n v c c chuye n gia về những vấn đề có lie n quan đến c c vấn đề nghie n cứu trong luạ n va n. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ý nghĩa của luận văn có thể kể đến: Về mặt lý luận, kết quả nghie n cứu của luạ n va n góp phần ho n thi nl luạ n về tọ i phạm nói chung, tọ i lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong khoa học luạ t h nh sự Vi t Nam nói rie ng. Luận văn có ý nghĩa cung cấp thêm cơ sở lý luận, làm phong phú thêm về mặt tài liệu nghiên cứu khoa học để tham khảo cho những bài viết, công trình, bài giảng có liên quan. Về mặt thực tiễn, luạ n va n có nghĩa đưa ra một số đề uất, kiến nghị, cung cấp những luạ n cứ khoa học phục vụ cho co ng t c lạ p ph p v hoạt đọ ng thực tiễn p dụng Bọ luạ t h nh sự Vi t Nam lie n quan đến tọ i lạm dụng tín nhi chiếm đoạt t i sản, qua đó góp phần na ng cao hi m u quả co ng t c đấu tranh ph ng ngừa tọ i n y trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, ở nước ta nói chung hi n nay v sắp tới. Với ý nghĩa như trên, luận văn có những đóng góp mới gồm: - Phân tích, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, phân tích sự phát triển các quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong lịch sử lập pháp Việt Nam, so sánh, đối chiếu các quy định của Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật hình sự 2015 và so sánh các quy định của tội phạm này với một số nước trên thế giới. - Phân tích, đ nh giá những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, các hình thức trách nhiệm hình sự, so sánh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm gần gũi. - Phân tích thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội, nêu được những hạn chế, khó khăn trong thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội phạm. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu 5 quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng cũng như cả nước nói chung. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương, cụ thể: Chương 1. Lý luận về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của luật hình sự Việt Nam Chương 2. Quy định của pháp luật hiện hành về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Chương 3. Thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội và kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng 6 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.1.1. Khái niệm tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Pháp luật hình sự nước ta ghi nhận và ảo vệ quan hệ sở hữu là một trong những quan hệ quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân, tổ chức và của Nhà nước. Nền kinh tế thị trường đang iến các quan hệ kinh tế ngày càng có giá trị, các giao dịch dân sự cũng ngày càng gia tăng và phát triển theo nhiều chiều hướng. Chính các giao dịch về dân sự, kinh tế, xã hội này lại có quan hệ trực tiếp đến các tài sản thuộc sở hữu của công dân, tổ chức hay của nhà nước XHCN. Ranh giới phân định giữa giao dịch dân sự và một hành vi ị coi là tội phạm xâm phạm đến quan hệ sở hữu của công dân qua các giao dịch là vấn đề cần được làm rõ. Điều này sẽ giúp tránh tình trạng “h nh sự hóa” các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại hoặc “dân sự hóa” các hành vi ị coi là tội phạm xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Liên quan đến các giao dịch dân sự và hành vi phạm tội trong hình sự chính là quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, làm rõ khái niệm tội phạm ước đầu sẽ giúp hiểu rõ hơn về tội phạm. Theo Từ điển Luật học, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là “hành vi lạm dụng việc được giao tài sản trên cơ sở hợp đồng để chiếm đoạt toàn bộ hay một phần tài sản đó” [44, tr.454]. Khoản 1 Điều 140 BLHS 1999 quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: “1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”. 7 Như vậy, có thể hiểu hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao gồm hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác ằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc ỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đã sử dụng tài sản đó vào mục đích ất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Tội phạm này cần được xác định với hai đặc điểm chính: Thứ nhất, người phạm tội thông qua một giao dịch hợp pháp, ngay thẳng, như vay, mượn, thuê tài sản hoặc các hình thức giao dịch bằng hợp đồng khác nhận được tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý, sử dụng tài sản hợp pháp . Thứ hai, sau khi nhận được tài sản qua các giao dịch nêu trên, người phạm tội mới nảy sinh ý thức phạm tội, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng cách dùng thủ đoạn gian dối hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện trả, có khả năng trả nhưng cố tình không trả để chiếm đoạt tài sản đó; hoặc tuy không có ý thức chiếm đoạt nhưng đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại cho chủ sở hữu. Khái niệm tài sản được Từ điển Luật học định nghĩa là: các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác. Tài sản bao gồm: vật có thực, vật đang tồn tại và sẽ có như hoa, lợi, lợi tức, vật sẽ được chế tạo theo mẫu đã được thoả thuận giữa các bên, tiền và các giấy tờ trị giá được bằng tiền và quyền tài sản [44, tr.685]. Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản". Đối với vật l đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt t i sản phải l vật có thực, vật đang tồn tại, có gi trị v nằm trong sự chiếm hữu của con người. Tuy nhiên, những vật l t i sản m Nh Nước cấm tư nhân mua n, trao đổi như thuốc phiện, ngoại tệ, rừng cây, hầm mỏ, vũ khí, thuốc nổ, chầt phóng ạ, chất ch y, chất nổ…sẽ không phải l đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt t i sản. Những vật l t i sản không c n gi trị kinh tế như thuốc đã ị tiêu hủy, h ng hóa không c n gi trị sử dụng cũng không phải l đối tượng t c động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt t i sản [37]. Do có những đặc điểm, tính chất quan trọng nhất định nên những t i sản đó đã trở th nh đối tượng của một số tội phạm riêng. Tiền thường l đối tượng trực tiếp của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt t i sản. Giấy tờ có gi cũng l một trong c c loại t i sản thuộc đối tượng chiếm đoạt của tội phạm n y. Với loại t i sản n y cần lưu ởi nó tồn tại dưới nhiều hình thức kh c nhau. Giấy tờ có gi được chia l m hai loại gồm: Giấy tờ có gi ghi danh v Giấy tờ có 8 giá vô danh. Nếu những giấy tờ có gi trị m thông qua đó không trực tiếp lấy được t i sản m chỉ l những phương tiện hực hiện h nh vi chiếm đoạt t i sản hoặc c c giấy tờ chỉ dùng v o việc phân phối th mặc dù có h nh vi chiếm đoạt th cũng không phải l đối tượng t c động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt t i sản. "Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ" (Điều 181 BLDS). Quyền tài sản là loại tài sản quyền gắn liền với chủ sở hữu, do đó, khi chủ tài sản bằng giao dịch dân sự chuyển giao quyền tài sản, sau đó, người phạm tội lợi dụng dùng thủ đoạn gian dối cũng có thể thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, quyền tài sản cũng là đối tượng của tội phạm này. Từ các khái niệm chung, quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được ghi nhận trong BLHS 1999, tác giả xin đưa ra khái niệm về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội của người phạm tội lợi dụng lòng tin của người khác, sử dụng hành vi vay, mượn, thuê tài sản hoặc nhận tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn với mục đích chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, trái pháp luật hình sự, xâm phạm quyền sở hữu được pháp luật hình sự bảo vệ. 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm d ng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Căn cứ quy định cụ thể về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, những yếu tố đặc trưng của cấu thành tội phạm (CTTP) tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thể hiện như sau: 1.1.2.1. Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội đó [39, tr. 86]. Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam 2013- đạo luật cơ bản của nước ta ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu của công dân: "1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ". Khách thể chung là "tổng hợp các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật 9 Hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định" [3, tr. 351]. Khách thể chung của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Xác định khách thể chung của tội phạm sẽ đưa ra cơ sở pháp lý chung khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi phạm tội bị pháp luật hình sự cấm. Khách thể trực tiếp là "một quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm pháp luật hình sự cụ thể bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại của một tội phạm nhất định nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe doạ gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định" [3, tr.351]. Khách thể trực tiếp của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu tài sản. Đây là quan hệ được pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo hộ, BLHS cụ thể hóa các quy định của pháp luật, coi quan hệ sở hữu tài sản là một trong các khách thể quan trọng cần bảo vệ và bảo đảm. Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể tội phạm bị người thực hiện hành vi phạm tội tác động đến gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [39, tr.94]. Đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tài sản của công dân, tổ chức, nhà nước. Khi nghiên cứu đối tượng tác động của tội phạm này cần lưu tâm đến các loại tài sản cụ thể gồm những loại tài sản nào như đã phân tích ở phần khái niệm trên. Các tài sản bị chiếm đoạt là đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được các nhà làm luật quy định về yếu tố định lượng tài sản. Theo đó, tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên, cụ thể: Khoản 1: từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm; Khoản 2: từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Khoản 3: từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Khoản 4: từ năm trăm triệu đồng trở lên. (BLHS 2015 chưa có hiệu lực trong thời điểm hiện tại, tuy nhiên, về tài sản, giá trị tài sản có bị truy cứu TNHS có những nét mới khi xác định tài sản có giá trị dưới bốn triệu đồng nhưng tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại cũng được xác định là đối tượng tác động của tội phạm). Nhà làm luật đưa yếu tố định lượng tài sản là một căn cứ để xác định có cấu thành tội phạm hay không góp phần hạn chế các quy định tùy nghi của pháp luật, tránh xét xử oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm giúp xác định rõ ranh giới giữa vi phạm hành chính 10 và tội phạm. 1.1.2.2. Chủ thể của tội phạm Luật hình sự Việt Nam coi chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt một độ tuổi nhất định và đã thực hiện hành vi phạm tội [39, tr.122]. Điều 140 BLHS về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gồm 04 khung hình phạt sau: đến ba năm tù (khoản 1), đến bảy năm tù (khoản 2), đến mười lăm năm tù (khoản 3), đến hai mươi năm tù hoặc tù chung thân (khoản 4). Căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 8 BLHS 1999 sửa đổi 2009, quy định về tuổi chịu TNHS tại Điều 12, chủ thể của tội phạm này có thể là bất kỳ ai có đủ điều kiện chủ thể tội phạm. Cần lưu ý với các trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ có thể bị truy cứu TNHS khi thực hiện hành vi thuộc một trong các tình tiết định khung tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều 140 BLHS là trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý. Người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể bị truy cứu TNHS về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của các khung từ Khoản 1 đến Khoản 4 Điều 140 BLHS 1999. 1.1.2.3. Mặt khách quan của tội phạm Theo khoa học luật hình sự, mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu có ý nghĩa pháp lý là: hành vi nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội; các dấu hiệu không bắt buộc (thủ đoạn, phương tiện, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội) [3, tr.365-366]. Hành vi khách quan là cầu nối giữa khách thể và chủ thể tội phạm, không có chủ thể của tội phạm khi không có hành vi khách quan của tội phạm [39, tr. 101]. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện là hành vi chiếm đoạt toàn bộ hay một phần tài sản được giao trên cơ sở: “Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng”. Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mang ba đặc điểm cơ bản của hành vi khách quan là: hành vi gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu; nguy hiểm cho xã hội; và hành vi đã được tính toán cân nhắc là hoạt động có ý thức và ý chí của chủ thể, được thực hiện dưới hình thức hành động phạm tội đã vi phạm quy định tại Điều 140 BLHS 1999. Hành vi chiếm đoạt của tội phạm này là những hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết, đó là: không trả lại tài sản bằng thủ đoạn gian dối; hoặc bằng thủ đoạn bỏ trốn; hoặc do không có khả năng trả lại tài sản vì đã sử dụng tài sản vào mục 11 đích bất hợp pháp. Đối tượng của hành vi chiếm đoạt của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là những tài sản đã được giao ngay thẳng cho người phạm tội trên cơ sở hợp đồng [40, tr.42]. Căn cứ pháp lý của việc nhận tài sản một cách ngay thẳng là hợp đồng dân sự, kinh tế được các bên chủ thể tự nguyện xác lập như: hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản, hoặc các hình thức hợp đồng khác theo quy định của BLDS. Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản để hình thành tội phạm bao gồm một chuỗi các hành vi. Sau khi nhận được tài sản một cách hợp pháp, người phạm tội mới tiếp tục có hành vi chiếm đoạt tài sản được giao. Đây là hành vi mang tính quan trọng nhất dẫn đến cấu thành tội phạm. Không có hành vi chiếm đoạt này thì không có tội phạm xảy ra. Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được biểu hiện qua các thủ đoạn như: gian dối, bỏ trốn, hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các hình thức đã được phân tích ở trên là hành vi khách quan của tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ khi hành vi đó là trái pháp luật, hay nói cách khác, chỉ hành vi được quy định trong BLHS mới có thể là tội phạm. Điều này cũng có nghĩa là cấm áp dụng nguyên tắc tương tự. Do đó, tội phạm phải thực hiện với đủ dấu hiệu của hành vi khách quan nêu trên, thỏa mãn cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 140 BLHS mới phát sinh TNHS. Cần lưu ý, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS 1999 sửa đổi 2009 có quy định về các thủ đoạn người phạm tội thực hiện để hình thành hành vi chiếm đoạt tài sản: Thủ đoạn đầu tiên là thủ đoạn gian dối, đây là thủ đoạn thường được được sử dụng và thường gặp trong thực tế. Người phạm tội sau khi có được tài sản hợp pháp sẽ giả như bị mất, hoặc đ nh tráo tài sản, rút bớt tài sản khiến sản phẩm được làm ra không có đầy đủ đặc tính về số lượng, chất lượng như yêu cầu của hợp đồng, xoá dấu tích việc nợ, huỷ bỏ các tài liệu chứng cứ chứng minh nghĩa vụ thanh toán như giấy vay nợ, các cam kết. Phần lớn trong các trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để che giấu hành vi chiếm đoạt. Ví dụ: Do tạo lập được quan hệ mua bán hàng hóa thân thiết với bà Y, trong quá trình mua hàng, bà Y đã để T tự ghi vào sổ số lượng các mặt hàng T mua. Lợi dụng sự sơ hở trong quản lý kinh tế của bà Y cũng như lòng tin của bà Y cho T tự ghi chép các mặt hàng, số lượng hàng mua bán nên T đã sửa chữa số liệu ghi chép trong sổ. T đã sử dụng thủ đoạn gian dối trên 64 lần, chiếm đoạt tài sản có tổng giá trị 149.977.000 đồng của bà Y. Mặc dù từng lần chiếm đoạt đều có giá trị dưới 12 4.000.000 đồng nhưng T đã liên tục thực hiện hành vi chiếm đoạt với tổng giá trị là 149.977.000 đồng. TAND huyện P, thành phố HN đã xét xử T về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điểm d Khoản 2 Điều 140 BLHS tại Bản án số 10/2016/HSST ngày 15/3/2016 [52]. Thủ đoạn thứ hai là thủ đoạn bỏ trốn, người phạm tội sau khi nhận được tài sản của từ chủ sở hữu, để thực hiện hành vi chiếm đoạt đã bỏ trốn nhằm cố tình không thanh toán, không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Khi đ nh giá hành vi bỏ trốn của người phạm tội phải xem xét một cách khách quan, toàn diện, nếu người phạm tội bỏ trốn hoặc lánh mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản vì nguyên nhân khác thì không coi là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Khi người phạm tội sử dụng thủ đoạn bỏ trốn để thực hiện hành vi khách quan chiếm đoạt tài sản, điều này cho thấy rõ tính có lỗi và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xử lý tội phạm. Ví dụ: Bùi Việt H đã lợi dụng sự tín nhiệm của Công ty cổ phần vận tải và thương mại Âu Lạc giao xe ô tô cho H bằng hợp đồng đặt cọc. Sau đó, H đã không kinh doanh dịch vụ taxi theo thỏa thuận đã ký kết mà chiếm đoạt bằng hình thức mang đi cầm đồ rồi bỏ trốn khỏi địa phương. Giá trị tài sản mà H chiếm đoạt là 230.000.000 đồng. Hành vi của H đã bị truy tố và xét xử với tội danh lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Khoản 3 Điều 140 BLHS tại Bản án số 135/2016/HSST ngày 31/5/2016 của TAND quận N, thành phố HN [52]. Thủ đoạn thứ ba là người phạm tội sau khi có được tài sản đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến việc không trả lại tài sản được. Việc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là những trường hợp dùng tài sản vào việc thực hiện tội phạm, vi phạm pháp luật có tính chất hình sự có ý nghĩa là dấu hiệu cấu thành tội phạm như: dùng tài sản, mượn vay để đ nh số đề, đ nh bạc, buôn lậu, buôn ma tuý, mua bán, trao đổi hàng hóa bất hợp ph p,…dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó. Cần phân biệt thủ đoạn này với trường hợp sử dụng tài sản không đúng mục đích đã thoả thuận khi giao kết hợp đồng để xem xét, đ nh giá đó là tội phạm hay là tranh chấp dân sự, tránh việc hình sự hóa các quan hệ dân sự và ngược lại. Ví dụ: Ngày 24/11/2015, do có quan hệ quen biết với chị H nên Nguyễn Mạnh Đ đã mượn của chị H 01 máy tính xách tay Lenovo trị giá 10.000.000đ. Chị H tin tưởng đã cho Đ mượn. Do cần tiền nên ngày 25/11/2015, Đ mang máy tính trên cầm cố cho anh T với giá 4.000.000đ. Ngày 23/12/2015, Đ lại tiếp tục mượn của chị H 01 xe máy Honda Vision trị giá 17.000.000đ. Đến ngày 15/01/2015, do cần tiền nên Đạt đã bán chui (bất hợp pháp) xe máy trên cho anh D với giá 18.000.000đ. Hành 13 vi của Đ đã chiếm đoạt tài sản của chị H với giá trị tài sản là 21.000.000đ bằng thủ đoạn sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp, cụ thể trường hợp này là để có tiền tiêu sài cá nhân nên đã đem cầm cố, bán trái phép máy tính và xe máy của chị H. Hành vi của Đ đã cấu thành tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 140 BLHS. Hành vi của Đ đã bị TAND quận N, thành phố HN xét xử theo bản án số 126/2016/HSST ngày 25/5/2016 [52]. Hậu quả của tội lạm dụng tín nhiện chiếm đoạt tài sản: Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội là khách thể được bảo vệ bởi luật hình sự [39, tr.110]. Về nguyên tắc, chỉ những hậu quả mang tính xác định được mới được quy định trong cấu thành tội phạm. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất. Hậu quả là dấu hiệu được ghi nhận trong cấu thành tội phạm tại Điều 140 BLHS 1999. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là cơ sở để đ nh giá tính nguy hiểm cho xã hội về mặt chính trị- xã hội. Tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây ra những hậu quả xấu đối với quan hệ sở hữu được pháp luật bảo vệ. Nhà làm luật quy định yếu tố định lượng về tài sản chiếm đoạt trong chính cấu thành tội phạm. Hậu quả của hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là việc chiếm đoạt được tài sản của chủ sở hữu đã giao cho mình có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên hoặc giá trị tài sản dưới bốn triệu đồng nhưng gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt (như hành vi lừa đảo, trộm cắp, cướp, cướp giật, v.v.. hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt (trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản, v.v..) chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội này. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm được biểu hiện ở việc hậu quả của tội phạm là do hành vi chiếm đoạt gây ra. Hành vi chiếm đoạt xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian và hậu quả là kết quả trực tiếp của hành vi chiếm đoạt. Điều 140 BLHS 1999 đã đưa vấn đề định lượng để xác định thời điểm hoàn thành của tội phạm khi người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng số lượng tài sản bị chiếm đoạt phải thỏa mãn về mặt định lượng tài sản đã nêu trong luật hoặc các trường hợp khác được pháp luật hình sự ghi nhận mới đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Các yếu tố về địa điểm, thời gian, v.v.. không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm này. 1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích [39, tr.134]. Trong mọi cấu thành tội phạm, dấu hiệu lỗi luôn được phản ánh 14 thể hiện mặt chủ quan của tội phạm; dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội tuỳ từng cấu thành tội phạm cụ thể được thể hiện với ý nghĩa pháp lý hình sự nhất định. "Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý" [39, tr.136]. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hình thức lỗi thuộc mặt chủ quan của người phạm tội là lỗi cố ý và cụ thể hơn nữa là lỗi cố ý trực tiếp “Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra” (Điều 9 BLHS 1999). Ở tội phạm này, người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của mình là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy được hậu quả của hành vi mình thực hiện xâm phạm đến quan hệ sở hữu được pháp luật hình sự bảo vệ. Trong ý thức chủ quan của người phạm tội, họ mong muốn hậu quả xảy ra nhằm mục đích chiếm đoạt được tài sản của người khác. Khi xác định lỗi đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cần lưu ý: ban đầu, khi giao kết hợp đồng hợp pháp và nhận được tài sản, người phạm tội vẫn có ý chí, ý định thực hiện hợp đồng đó. Chỉ đến giai đoạn sau khi đã giao kết hợp đồng và nhận được tài sản đó, người phạm tội mới nảy sinh ý định phạm tội và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các thủ đoạn đã được cấu thành tội phạm ghi nhận. Do đó, dấu hiệu lỗi của tội phạm này được xem xét tại thời điểm thực hiện hành vi chiếm đoạt chứ không phải tại thời điểm nhận tài sản. Vấn đề cần lưu ý thứ hai là: Thời điểm nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản là căn cứ rất quan trọng để phân biệt tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản người phạm tội có ý thức chiếm đoạt từ trước khi có tài sản trong tay nên người phạm tội đã bằng thủ đoạn gian dối tạo ra các thông tin sai sự thật làm người bị hại lầm tưởng là thật và đã giao hoặc nhận nhầm tài sản cho người phạm tội, từ đó thực hiện hành vi chiếm đoạt. Như vậy cả hai tội phạm đều có hình thức lỗi cố ý trực tiếp nhưng thời điểm xuất hiện lỗi của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản muộn hơn tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy quyết tâm người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm [3, tr.381]. Động cơ phạm tội đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, khi phân tích các dấu hiệu của tội phạm này có thể thấy động cơ phạm tội xuất phát từ việc tư lợi, vụ lợi, do ham muốn những lợi ích nhất định. Việc xác định động cơ phạm tội có ý nghĩa trong việc đ nh giá mức độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi nhằm phân hoá TNHS được rõ hơn. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan