Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản theo pháp ...

Tài liệu Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn các tỉnh tây nguyên

.PDF
74
512
114

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN CAO ĐẠI KỲ QUÂN TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC, BẢO VỆ RỪNG VÀ QUẢN LÝ LÂM SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN CAO ĐẠI KỲ QUÂN TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC, BẢO VỆ RỪNG VÀ QUẢN LÝ LÂM SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS PHẠM VĂN TỈNH HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. TÊN TÁC GIẢ TRẦN CAO ĐẠI KỲ QUÂN MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC, BẢO VỆ RỪNG VÀ QUẢN LÝ LÂM SẢN 6 1.1. Những vấn đề lý luận về Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản 6 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản 19 Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC, BẢO VỆ RỪNG VÀ QUẢN LÝ LÂM SẢN TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN 30 2.1. Định tội danh đối với Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản 30 2.2. Quyết định hình phạt đối với Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản 40 Chương 3. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC, BẢO VỆ RỪNG VÀ QUẢN LÝ LÂM SẢN 51 3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự 51 3.2. Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự 57 3.3. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự 58 3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự 59 3.5. Quy định thống nhất giữa xử lý vi phạm hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi vi phạm quy định khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản 60 3.6. Hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan đến tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản 3.7. Các giải pháp khác 62 63 KẾT LUẬN 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 66 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CTKGG: Cải tạo không giam giữ CTTP: Cấu thành tội phạm QĐHP: Quyết định hình phạt QHXH: Quan hệ xã hội TAND: Tòa án nhân dân TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TNHS: Trách nhiệm hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1.1. So sánh Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản với tội vi phạm các quy định về quản lý rừng, tội hủy hoại tài sản, tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Bảng 2.1. 17 Tình hình xét xử Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn 2012 – 2016 Bảng 2.2. 34 Tỷ lệ xét xử sơ thẩm các vụ án và bị cáo phạm Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản so với các tội phạm liên quan đến rừng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên giai đoạn 2012 – 2016 Bảng 2.3. 35 Tổng số vụ, số bị cáo bị Tòa án nhân dân trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên đã xét xử về Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản từ năm 2012 – 2016 Bảng 2.4. 36 Những hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản giai đoạn 2012 – 2016 Bảng 2.5. 45 Nhân thân của các bị cáo bị Tòa án nhân dân trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên xét xử về Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản 46 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Rừng thường được ví là lá phổi của Trái đất, Rừng có vai trò đặc biệt trong việc duy trì cân bằng hệ sinh thái. Rừng là quần xã sinh vật trong đó cây rừng là thành phần chủ yếu, là một thể tổng hợp phức tạp các mối quan hệ qua lại giữa các cá thể trong quần thể, giữa các quần thể trong quần xã và có sự thống nhất trong hoàn cảnh rừng. Rừng có tính ổn định, khả năng tự phục hồi, tự điều hòa để chống lại những biến đổi của hoàn cảnh và những biến đổi về số lượng sinh vật. Ý nghĩa và tầm quan trọng của rừng đối với sự tồn tại của trái đất nói ở tầm vĩ mô và đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói ở tầm vi mô là một sự vật, hiện tượng được xem là hiển nhiên và đã có rất nhiều công trình khoa học chứng minh cho ý nghĩa và tầm quan trọng này. Đất nước Việt Nam trải dài trên nhiều vĩ tuyến và đai cao, có địa hình rất đa dạng, hơn 2/3 lãnh thổ là đồi núi, lại có khí hậu gió mùa nhiệt đới, đã tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên và sự phong phú về các loài sinh vật, bao gồm có rất nhiều loại rừng như: rừng lá kim, rừng tràm, rừng ngập mặn, rừng cây lá rộng thường xanh… Trước đây, phần lớn đất nước Việt Nam có rừng che phủ, nhưng chỉ khoảng một thế kỷ qua, rừng bị suy thoái nặng nề. Trong thời kỳ Pháp thuộc, nhiều vùng đất rộng lớn ở phía Nam đã bị khai phá để trồng các loại cây có giá trị kinh tế ngắn ngày. Những năm tháng chiến tranh tiếp theo, diện tích rừng Việt Nam bị thu hẹp khá nhanh do hậu quả nặng nề của chiến tranh. Địa bàn Tây Nguyên có diện tích rừng rộng lớn, đa dạng. Nhưng với sự tàn phá rừng nghiêm trọng của con người đã làm diện tích rừng ở đây giám nhanh chóng. Hoạt động khai thác rừng trái phép, vấn nạn “phá rừng” không chỉ là vấn đề của Việt Nam mà đó còn là một vấn nạn lớn mang tính toàn cầu. Các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam ưu tiên khai thác rừng một cách bền vững đi đôi với việc bảo vệ và phát triển rừng và trong điều kiện môi trường - kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay, vấn đề này trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Giá trị kinh tế của rừng trở thành miếng mồi ngon cho các đối tượng “lâm 1 tặc” trong các hoạt động khai thác rừng trái phép. Ngoài ra, nhóm đối tượng thứ hai là người dân tàn phá rừng để làm nương rẫy cũng nghiêm trọng không kém. Đây thực sự là vấn nạn nhức nhối của xã hội và là thách thức lớn đối với Đảng và Nhà nước ta. Trong điều kiện đó, sự điều chỉnh bằng một hệ thống pháp luật hình sự đủ răn đe, trừng phạt tương xứng đối với hành vi gây thiệt hại về rừng đã được Nhà nước ta luật hóa thành quy định trong Bộ luật hình sự - “Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản”. Bên cạnh Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc Hội thông qua 21 tháng 12 năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 còn có một số văn bản pháp luật khác như: Luật bảo vệ và phát triển rừng; Luật đất đai; Luật xử lý vi phạm hành chính… Điều chỉnh những vấn đề liên quan đến bảo vệ, phát triển, công tác quản lý rừng. Tuy nhiên, các quy định này còn nhiều bất cập, thiếu sự thống nhất, nhất là trong điều kiện phát triển nền kinh tế xã hội hiện nay, cần nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh loại tội phạm liên quan đến vấn đề khai thác và bảo vệ rừng. Một điều đặc biệt, là quản lý lỏng lẻo, sự tha hoá biến chất của những người cán bộ mang trọng trách giữ rừng đã làm cho việc thi hành những quy định trên của pháp luật không hiệu quả. Tác giả thực hiện đề tài về tội “Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn các tỉnh Tây nguyên” như một chuyên đề nhằm tìm hiểu, phân tích, đánh giá trên cơ sở nhận thức về quy định của pháp luật cũng như góp phần nhỏ trong việc kiện toàn các quy định pháp luật hình sự về loại tội phạm này. So với BLHS 1999 thì BLHS 2015 có quy định nhiều điểm mới, trong đó tên tội danh được thay đổi từ Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản thành tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng va quản lý lâm sản. Tuy nhiên, vì một số lý do khách quan, Quốc hội ban hành nghị quyết số 144/2016/QH13 về việc lùi hiệu lực thi hành của BLHS số 100/2015/QH13, BLTTHS số 101/2015/QH13, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 và bổ sung dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016. Do vậy 2 xuyên suốt luận văn, tác giả xin đề cập các nội dung có liên quan với tên tội là tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ lâm sản. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Khai thác và bảo vệ rừng là một vấn đề đi đôi với sự phát triển kinh tế - xã hội; ở từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, sự nhìn nhận về tầm quan trọng của việc khai thác và bảo vệ rừng phù hợp và được pháp luật cho phép là khác nhau, mà biểu hiện và gắn liền là các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến loại tội phạm này của các chuyên gia, luật gia, luật sư... Tuy nhiên, số lượng nghiên cứu khoa học liên quan đến loại tội phạm này không nhiều, đơn cử là Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội năm 2008; bình luận khoa học hình sự năm 2006 - phần các tội phạm, các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của tác giả Đinh Văn Quế;... Các công trình nghiên cứu khoa học kể trên đã khái quát về loại tội phạm này, đồng thời phân tích từng khía cạnh, từng vấn đề và đi sâu vào hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung. Với đề tài “Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn các tỉnh Tây nguyên”, tác giả thực hiện trên cơ sở kế thừa, bổ sung những điểm mới nhằm làm phong phú về mặt lý luận cũng như thực tiễn đối với loại tội phạm này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Do tính chất quan trọng của rừng và thực trạng công tác phòng chống loại tội phạm này trong thực tiễn không hiệu quả, rừng ngày càng bị thu hẹp, ảnh hưởng đến khí hậu, kinh tế xã hội... nên việc nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả công tác trên. - Đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi trên cơ sở tìm hiểu, phân tích các khía cạnh pháp lý, dấu hiệu của tội “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng”. - Đánh giá về sự phù hợp giữa quy định pháp luật trong mối tương quan với sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, thực tiễn thi hành quy định này trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên để đưa ra những ý kiến nhằm góp phần hoàn thiện quy định 3 của Bộ luật hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với phạm vi đề tài, tác giả tập trung nghiên cứu những nội dung sau đây: - Nghiên cứu các quy định về Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. - Phân tích các dấu hiệu pháp lý của Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. - Nghiên cứu thực trạng áp dụng quy định này trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên từ 2012 đến nay. - Đưa ra những kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế của luật cũng nhưng thực tiễn áp dụng pháp luật nhằm mang lại hiệu quả cao cho công tác phòng chống tội phạm. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật liên quan đến tội “ Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản”. - Thực tiễn áp dụng những quy định trên thuộc địa bàn các tỉnh Tây nguyên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Căn cứ trên quy định của Bộ luật hình sự về tội “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng” kết hợp với việc áp dụng, thi hành các quy định pháp luật về loại tội phạm này trên thực tế; tác giả trình bày, nghiên cứu những quy định của pháp luật về tội “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng” trong pháp luật hình sự Việt Nam. - Nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. - Nghiên cứu thực trạng việc áp dụng quy định này trong thực tiễn các tỉnh tây nguyên từ 2011 đến nay. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội Vi phạm các quy định về khai thác , bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. 4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Ứng dụng các phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp và phương pháp so sánh…tác giả sử dụng như những công cụ hỗ trợ, phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài; đây là những phương pháp phổ biến, tích cực trong hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và của ngành luật học nói riêng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Nghiên cứu lý luận, chỉ rõ các dấu hiệu pháp lý, đặc trưng của tội Vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. - Đánh giá, nghiên cứu một cách hệ thống quá trình xây dựng các quy định của Pháp luật về Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. - Chỉ rõ những bất cập trong việc áp dụng quy định của Pháp luật vào thực tiễn, góp phần vào công cuộc phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên Chương 3: Các biện pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC, BẢO VỆ RỪNG VÀ QUẢN LÝ LÂM SẢN 1.1. Những vấn đề lý luận về Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản 1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản 1.1.1.1. Khái niệm Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Việt Nam được coi là một trong số các quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú, là nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước, vì vậy Nhà nước đã có nhiều chính sách, quy định nhằm bảo vệ và phát triển rừng. Trong đó, chính sách hình sự là một trong những công cụ hữu hiệu, giúp ngăn chặn các tội phạm xâm phạm nghiêm trọng đến tài nguyên rừng. Các tội phạm này đã được cụ thể hóa trong các BLHS 1985, BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 – chương XVI, chương XVII và mới nhất là BLHS năm 2015 sắp có hiệu lực thi hành tại chương XVIII, chương XIX – Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, các tội phạm về môi trường. Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản nằm trong nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại nền kinh tế quốc dân, gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và của công dân qua việc vi phạm quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế” [32 - tr. 255]. Hiện nay, tên tội phạm này trong BLHS 1999 là Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, tuy nhiên trong BLHS năm 2015 thì được sửa đổi thành tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ và quản lý lâm sản. Như vậy, nhà làm luật đã mở rộng nội hàm của tội phạm đối với những hành vi vi phạm quản lý lâm sản. Tạo điều kiện thuận lợi trong công tác quản lý và đáp ứng yêu cầu của công tác 6 đấu tranh phòng, ngừa và chống tội phạm. Hiện nay, chưa có một định nghĩa chính thống nào về Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu đã đưa ra các định nghĩa về tội phạm này theo tên gọi tội phạm trong BLHS cũ như sau: “Tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là hành vi khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi khác vi phạm quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng hoặc vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép” [20 - tr. 321]; “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là hành vi khai thác trái phép cây rừng, vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng (nếu không thuộc các trường hợp quy định tại các Điều 153, Điều 154 và Điều 189 BLHS) gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này, hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”; Theo TSKH. Lê Cảm: “Khi đưa ra khái niệm về một tội phạm phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm của nó, đó là: a/ bình diện khách quan – tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b/ bình diện pháp lý – tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c/ bình diện chủ quan – tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS và đủ độ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi” [9 - tr. 112]. Đối chiếu với hai định nghĩa nêu trên, có thể nhận thấy các tác giả đã nêu ra được nội hàm cơ bản của tội phạm, mỗi định nghĩa nhấn mạnh ở các phương diện khác nhau. Nhưng điểm chung nhất là vẫn nhấn mạnh ở các mặt khách quan của tội phạm mà chưa chú trọng đến các mặt khác như nhận định của TSKH. Lê Cảm. Căn cứ vào định nghĩa tội phạm tại Điều 8 BLHS và Điều 175 BLHS quy định về Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Tác giả xin đưa ra định nghĩa về tội phạm này như sau: “Tội vi phạm các qui định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản là tội phạm vi phạm pháp luật hình sự có các hành vi như khai thác trái phép rừng, thực vật rừng, tàng trữ, vận chuyển, chế biến, mua bán gỗ, các loài thực vật hoang dã trái phép được liệt kê tại Điều 175 gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này, hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, do người có năng lực TNHS và đủ độ 7 tuổi chịu TNHS thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, vi phạm những quy định của Nhà nước về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản nói riêng cũng như xâm phạm các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý kinh tế nói chung” 1.1.1.2. Các yếu tố cấu thành Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Các yếu tố CTTP được hiểu là các bộ phận cấu thành tội phạm. Một người thực hiện một hành vi phạm tội được quy định trong một tội phạm cụ thể của BLHS, tuy nhiên nó phải đảm bảo được các yếu tố còn lại thì mới có thể trở thành tội phạm. Về mặt lý luận, các yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm: Khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Bốn yếu tố này có ý nghĩa quan trọng và liên quan mật thiết với nhau, thể hiện được bản chất tội phạm, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Do đó, để xác định một người có phạm Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản phải đảm bảo các yếu tố trên, cụ thể như sau: a. Khách thể của Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Về mặt lý luận, khi xã hội phát triển và hình thành giai cấp, Nhà nước và pháp luật ra đời là công cụ hữu hiểu để giai cấp thống trị quản lý xã hội. Tùy theo cách đánh giá, định hướng tầm quan trọng của mỗi chế độ đối với các quan hệ xã hội mà có các biện pháp bảo vệ, phát triển khác nhau. Pháp luật hình sự xác định những hành vi nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến những quan hệ xã hội nhất định được quy định cụ thể tại Điều 8 BLHS và thỏa mãn các dấu hiệu tội phạm còn lại trong các tội cụ thể thì được coi là tội phạm. Khách thể của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội được Nhà nước xác lập và bảo vệ bằng các quy phạm pháp luật hình sự. Khách thể được chia ra làm ba loại:  Khách thể chung: là hệ thống các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại.  Khách thể loại: Là một nhóm các quan hệ xã hội có cùng tính chất được một nhóm quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một nhóm tội xâm hại. 8  Khách thể trực tiếp: Là quan hệ xã hội cụ thể hoặc một nhóm quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một tội phạm trực tiếp xâm hại. Đối với Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản thì khách thể loại là các QHXH bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân, tội phạm gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân khi thực hiện các hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước trong quản lý kinh tế. Khách thể trực tiếp của tội phạm này đó là sự xâm phạm các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực khai thác, bảo vệ rừng. Khi thực hiện một hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nói chung và xâm phạm đến các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực khai thác, bảo vệ rừng nói riêng. Tội phạm này đã trực tiếp tác động làm biến đổi trạng thái bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội: chủ thể, hoạt động, trạng thái của các chủ thể trong quan hệ xã hội; các vật, hiện tượng của thế giới khách quan có liên quan đến hoạt động của chủ thể quan hệ xã hội. Các bộ phận đó gọi là đối tượng tác động của khách thể. Theo đó, đối với Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản thì đối tượng tác động là rừng và các sản phẩm của rừng như gỗ và các lâm thổ sản khác: “Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng.” - Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004. Khi nghiên cứu đối tượng tác động của loại tội này cũng cần phải chú ý đến một số vấn đề như:  Thứ nhất, cây rừng bị khai thác trái phép chỉ trở thành đối tượng tác động của tội phạm theo Điều 175 nếu không thuộc Điều 189 BLHS năm 1999.  Thứ hai, gỗ bị buôn bán, vận chuyển trái phép chỉ trở thành đối tượng tác động của tội phạm theo Điều 175 BLHS nếu không thuộc Điều 153 hoặc Điều 154 BLHS. 9 b. Mặt khách quan của tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra trong thế giới khách quan như: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả [33 - tr. 158]. Về mặt lý luận, dựa theo đặc điểm về cấu trúc của CTTP thì CTTP của một tội phạm được chia ra làm hai loại là: CTTP hình thức – là cấu thành tội phạm mà nội dung mặt khách quan của nó luật chỉ quy định dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội; CTTP vật chất – là cấu thành tội phạm mà nội dung mặt khách quan của nó luật quy định các dấu hiệu hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Đối chiếu quy định của Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản thì tội phạm này có CTTP vật chất. Dưới đây, tác giả sẽ phân tích lần lượt các yếu tố như sau:  Thứ nhất, hành vi khách quan là “xử sự cụ thể của con người được thể hiện ra ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức nhất định gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ” [33 - tr. 160]. Hành vi khách quan quy định tại Điều 175 BLHS bao gồm các hành vi: Khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng; vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép. Cơ sở pháp lý để xác định hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng là Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 và các văn bản quy phạm pháp luật khác do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy định về việc bảo vệ, quản lý lâm sản và phát triển rừng. Cụ thể, đó là Nghị định 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 hướng dẫn về xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Do trong các hành vi khách quan được liệt kê trong điều 175 BLHS không quy định cụ thể các hành vi nên rất khó xác định, cần phải dựa vào các văn bản chuyên ngành mới có thể xác định chính xác bản chất của các hành vi đó. Để xác định chính xác một chủ thể, có 10 thực hiện một trong các hành vi liệt kê của Điều 175 BLHS hay không, tác giả xin viện dẫn các hành vi nêu trên được hướng dẫn cụ thể trong điểm 1.1 Mục 1 Phần IV Thông tư liên tịch số 19/2007/BNNPTNN-BTP-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 08/03/2007 hướng dẫn áp dụng một số điều của BLHS về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản (TTLT số 19/2007) như sau: 1. “Khai thác trái phép cây rừng” là một trong các hành vi sau đây: - Khai thác cây rừng ở rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép trong trường hợp pháp luật quy định việc khai thác đó chỉ được thực hiện khi đã được cấp giấy phép và giấy phép còn trong thời hạn; - Khai thác cây rừng không có dấu búa bài cây (bài chặt) trong các trường hợp theo quy định của pháp luật phải có dấu búa bài cây (bài chặt); - Khai thác cây rừng vượt quá khối lượng cho phép (phần vượt quá khối lượng). 2. “Hành vi khác vi phạm quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng” là ngoài hành vi khai thác trái phép cây rừng còn có hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng. Căn cứ theo NĐ 157/2013 hướng dẫn về xử phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, bao gồm các hành vi sau đây: Lấn, chiếm rừng; khai thác trái phép cảnh quan, môi trường và các dịch vụ lâm nghiệp; vi phạm quy định về thiết kế khai thác gỗ; vi phạm các quy định khai thác gỗ; khai thác rừng trái phép; vi phạm quy định về trồng rừng mới thay thế diện tích rừng chuyển sang mục đích khác; vi phạm quy định của Nhà nước về trồng rừng; vi phạm các quy định chung của Nhà nước về bảo vệ rừng; vi phạm các quy định của Nhà nước về phòng cháy, chữa cháy rừng gây cháy rừng; chăn thả gia súc trong những khu rừng đã có quy định cấm; vi phạm quy định về phòng trừ sinh vật hại rừng; phá hủy các công trình phục vụ việc bảo vệ và phát triển rừng; phá rừng trái pháp luật. 3. “Vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép” là hành vi vận chuyển, mua bán gỗ không đúng quy định của Nhà nước (như vận chuyển gỗ không có thủ tục, buôn bán gỗ không có giấy phép kinh doanh hoặc có giấy phép nhưng đã hết hiệu lực...). 11 Các hành vi nói trên chỉ cấu thành Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản nếu: Hành vi khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 189 BLHS – tội hủy hoại rừng; hành vi vận chuyển, mua bán gỗ trái phép nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 153 BLHS – Tội buôn lậu và Điều 154 – Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới. Thứ hai, hậu quả của tội phạm là thiệt hại (sự thay đổi nguy hiểm) do hành vi phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Hậu quả của việc thực hiện hành vi nêu trên là thiệt hại về vật chất với những thiệt hại khác như làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cân bằng sinh thái, gây ảnh hưởng không nhỏ đối với hệ cân bằng sinh thái, là nguyên nhân của các thiên tai như lũ lụt, hạn hán, sạt lở… Ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước nói chung và đời sống con người nói riêng. Chủ thể thực hiện hành vi của tội phạm tại Điều 175 BLHS bắt buộc phải gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc bị kết án về tội danh này chưa được xóa án tích. Theo hướng dẫn tại TTLT số 19/2007 thì hậu quả nghiêm trọng thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Gây thiệt hại về lâm sản (trừ động vật rừng) từ trên mức tối đa bị xử phạt vi phạm hành chính đến hai lần mức tối đa bị xử phạt vi phạm hành chính quy định cho mỗi hành vi vi phạm; Ví dụ: Mức tối đa quy định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định hiện hành đối với hành vi khai thác trái phép gỗ thông thường từ nhóm IV đến nhóm VIII ở rừng sản xuất là 20m3. Nếu khai thác trái phép từ trên 20m3 đến 40m3 là gây hậu quả nghiêm trọng. b) Khai thác, vận chuyển, buôn bán trái phép từ hai loại gỗ trở lên (gỗ thông thường nhóm I - III với gỗ thông thường nhóm IV - VIII; gỗ thông thường với gỗ quý, hiếm nhóm IIA) mà khối lượng của mỗi loại gỗ chưa vượt quá mức tối đa bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng tổng khối lượng gỗ trong vụ vi phạm đó vượt quá 12 mức tối đa bị xử phạt vi phạm hành chính đến hai lần mức tối đa bị xử phạt vi phạm hành chính quy định đối với gỗ thông thường thuộc nhóm IV đến nhóm VIII quy định cho hành vi tương ứng đó; Ví dụ 1: Phạm Minh H khai thác trái phép ở rừng sản xuất 13m3 gỗ tròn thông thường thuộc nhóm IV đến nhóm VIII và 9m3 gỗ tròn thông thường thuộc nhóm I đến nhóm III. Tổng cộng H đã khai thác trái phép 22m3. Theo quy định hiện hành mức tối đa bị xử phạt vi phạm hành chính quy định đối với hành vi khai thác gỗ tròn thông thường thuộc nhóm IV đến nhóm VIII ở rừng sản xuất là 20m3; do đó, hành vi của Phạm Minh H thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ 2: Trần Văn C khai thác trái phép ở rừng sản xuất 11m3 gỗ tròn thông thường thuộc nhóm IV đến nhóm VIII, 7m3 gỗ tròn thông thường thuộc nhóm I đến nhóm III và 5m3 gỗ tròn quý, hiếm thuộc nhóm IIA. Tổng cộng C đã khai thác trái phép 23m3. Theo quy định hiện hành mức tối đa bị xử phạt vi phạm hành chính quy định đối với hành vi khai thác gỗ thông thường thuộc nhóm IV đến nhóm VIII ở rừng sản xuất là 20m3; do đó, hành vi của Trần Văn C thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ 3: Trần Đức P vận chuyển trái phép 13m3 gỗ tròn thông thường thuộc nhóm IV đến nhóm VIII, 5m3 gỗ tròn thông thường thuộc nhóm I đến nhóm III và 3m3 gỗ tròn quý, hiếm nhóm IIA. Tổng cộng P đã vận chuyển trái phép 21m3. Theo quy định hiện hành mức tối đa bị xử phạt vi phạm hành chính quy định đối với hành vi vận chuyển lâm sản trái phép gỗ thông thường từ nhóm IV đến nhóm VIII là 20m3; do đó, hành vi của Trần Đức P thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng. c) Khai thác gỗ quý, hiếm nhóm IA ở rừng sản xuất đến 2m3; ở rừng phòng hộ đến 1,5m3; ở rừng đặc dụng đến 1m3; d) Khai thác thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm nhóm IA ở rừng sản xuất có giá trị đến ba triệu đồng; ở rừng phòng hộ đến hai triệu đồng; ở rừng đặc dụng đến một triệu đồng; đ) Vận chuyển, buôn bán gỗ quý, hiếm nhóm IA đến 2m3. Trường hợp một người thực hiện hành vi phạm tội ở điều 175 BLHS nếu 13 chưa gây hậu quả nghiêm trọng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này nếu trước đó đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê tại khoản 1 Điều 175, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà lại thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 của điều luật tương ứng đó. Hoặc người phạm tội đã bị kết án về tội này mà chưa được xóa án tích – Nếu trước đó đã bị kết án về tội phạm quy định tại Điều 175 BLHS, nhưng chưa được xoá án tích mà lại thực hiện một trong các hành vi quy định tại Điều này.  Thứ ba, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. “Mối quan hệ nhân quả trong luật hình sự là mối quan hệ khách quan giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả đã xảy ra, trong đó hành vi nguy hiểm cho xã hội, xét về mặt thời gian xảy ra trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội, chuẩn bị và xác định khả năng thực tế bên trong làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội và là nguyên nhân chính và trực tiếp tất yếu gây ra hậu quả đó.” [33 - tr. 175] Đối với Tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản bắt buộc phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã phân tích ở trên. Nếu không có mối quan hệ nhân quả này thì một người không được coi là tội phạm của tội này. Điểm hạn chế đối với quy định tại Điều 175 BLHS là hành vi khách quan không được liệt kê cụ thể tại điều luật, bắt buộc phải viện dẫn các quy định của pháp luật có liên quan, gây khó khăn trong công tác áp dụng pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền. Do vậy, trong BLHS 2015 đã khắc phục theo hướng liệt kê cụ thể các hành vi cũng như định lượng tài sản phạm tội. Tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. c. Chủ thể của tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản Chủ thể của tội phạm được định nghĩa là “con người cụ thể đã cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định do luật quy định 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan