Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Truyện ngắn nữ việt nam từ 1986 đến nay...

Tài liệu Truyện ngắn nữ việt nam từ 1986 đến nay

.DOC
165
502
148

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NỘI DUNG 1. Lý do lựa chọn đềTRẦNtài THỊ QUỲNH LÊ 1.1. Được coi là một trong những thể loại “nhạy bén” của nền văn học hiện đại, thành tựu và những quy luật vận động của truyện ngắn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu văn học của một dân tộc. Ở nước ta, văn học từ sau 1986 nói chung và truyện ngắn nói riêng có vị thế vô cùng quan trọng TRUYỆNtrongnền vănNGẮNchươngNỮViệtVIỆT.BởiđóNAMlàcột TỪmốc 1986đánhdấuĐẾNsựđổiNAYmới, phát triển toàn diện của nền văn học nước nhà. 1.2. Sau 1986, Nvăngành:học VănViệt họcNamViệtchứngNamkiến “sự bức phá ngoạn mục” của các cây bút nữ. Từ những hiện tượng đơn lẻ chỉ xuất hiện chủ yếu ở thể Mã số: 9 22 01 21 loại thơ trong giai đoạn văn học trước 75, ở giai đoạn này các nữ văn sĩ đã chứng tỏ bút lực dồi dào cũng như khả năng bao quát ở tất cả các thể loại văn xuôi, đặc biệt là truyện ngắn. Chính sự đồng hành ấy đã làm nên bộ phận LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM truyện ngắn nữ, một trong những “điểm sáng” của nền văn học đương đại. 1.3. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn nữ nhưng chủ yếu chỉ dừng lại ở từng tác giả, tác phẩm cụ thể hoặc đi sâu vào một phương NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: diện nào đó trong sáng tác của cây bút nữ. Vì vậy, việc nghiên cứu truyện 1.PGS.TS. Lưu Khánh Thơ ngắn nữ một cách hệ thống, bao quát được nhiều bình diện của vấn đề vẫn 2.PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu còn là một hướng đi giàu gợi mở. Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu đã đạt được trong việc nghiên cứu truyện ngắn nữ, chúng tôi muốn có một cái nhìn hệ thống và khái quát về sự vận động cũng như những thành tựu, đặc điểm của truyện ngắn nữ từ sau 1986 đến nay. Đề tài nghiên cứu góp phần trong việc phác thảo diện mạo của truyện ngắn Việt Nam nói riêng và văn học Việt Nam nói chung trong tiến trình vận động của văn học dân tộc. HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận án TRẦN THỊ QUỲNH LÊ MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án .................................................. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 2 4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 3 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ............................................................. 4 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án ............................................... 4 7. Cấu trúc của luận án ........................................................................................... 5 CHƯƠNG 1:TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU............................. 6 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................................... 6 1.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước .............................................................. 34 1.3. Nhận xét tình hình nghiên cứu và hướng nghiên cứu của đề tài ................... 37 Chương 2: TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY TRONG BỔI CẢNH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP ............................................................... 42 2.1.Những tác động “ngoại sinh” ......................................................................... 42 2.2.Những vận động “nội tại” .............................................................................. 55 2.3.Truyện ngắn nữ - “phần tinh túy làm nên bản lai diện mục” của nền văn học Việt Nam đương đại ............................................................................................. 68 Chương 3: NHỮNG MÔ HÌNH GIAO TIẾP TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY ........................................................................ 74 3.1. Mô hình giao tiếp với thiên nhiên ................................................................. 75 3.2. Mô hình giao tiếp với cuộc sống và con người ............................................. 87 3.3. Mô hình giao tiếp với chính mình ................................................................. 98 Chương 4: NHỮNG DẠNG THÁI BIỂU HIỆN TRONG TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY ...................................................................... 108 4.1. Không gian và thời gian nghệ thuật ............................................................ 108 4.2. Diễn ngôn mang đặc trưng giới trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay ............................................................................................................... 126 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 148 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ ............................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 152 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Truyện ngắn là thể loại có lịch sử lâu đời trong văn học thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Được coi là một trong những thể loại năng động, “nhạy bén” của nền văn học hiện đại, thành tựu và những quy luật vận động của truyện ngắn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nghiên cứu văn học của một dân tộc. Ở Việt Nam, cùng với tiểu thuyết, truyện ngắn đã khẳng định vai trò và vị thế của một trong những thể loại luôn tiên phong trong việc nắm bắt những chuyển động của cuộc sống và thời đại để tự làm mới mình. 1.2. Năm 1986 được xem là một dấu mốc quan trọng của lịch sử văn học dân tộc. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước thổi một luồng gió mới vào đời sống văn học Việt, làm “bứt rễ” cả những điều tưởng đã trở thành bất biến của nền văn học cũ. Chính trong không khí đó, sự xuất hiện đông đảo của các cây bút nữ đã trở thành “hiện tượng” của nền văn chương đương đại. Không phải đến giai đoạn này, các nữ văn sĩ mới xuất hiện trên văn đàn nhưng có lẽ chưa bao giờ lực lượng các nhà văn nữ lại đông đảo và mạnh mẽ đến thế. Sự góp mặt của họ không chỉ ấn tượng về con số mà quan trọng hơn còn là sự bứt phá của những cá tính và bản lĩnh nghệ thuật dường như chưa được khai phóng đúng mức ở các giai đoạn trước. 1.3. Bằng sự nhập cuộc sôi nổi và tinh thần phản tư sâu sắc những giá trị về cuộc sống và thân phận con người, đặc biệt là những người đàn bà, các cây bút nữ đã thực sự đem lại sắc diện mới, rất riêng về tâm hồn người phụ nữ trong văn. Dấu ấn tài năng của họ được thể hiện trong nhiều thể loại nhưng đậm nét nhất có lẽ là trong truyện ngắn. Đó dường như là một sự lựa chọn mang tính tự giác đầy chủ ý của các nữ văn sĩ . Vì thế, việc lý giải cho sự gắn kết như duyên nợ ấy sẽ nhằm “phát lộ” những đặc trưng riêng của người viết nữ trong việc chuyển tải những thông điệp cuộc sống và con người trên những trang văn, để 1 làm nên cái người ta vẫn gọi là “văn học mang gương mặt nữ”. Những thành tựu của truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay là hệ quả từ sự tác động của hoàn cảnh lịch sử, từ đặc trưng thể loại hay chính những đặc trưng về giới vẫn còn là câu hỏi mở, đầy thú vị cho những người nghiên cứu Vì những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích: Trên cơ sở tìm hiểu và nghiên cứu truyện ngắn của một số tác giả nữ tiêu biểu từ 1986 đến nay, luận án muốn chỉ ra được những nét đặc trưng làm nên bản sắc của lối viết nữ. Đồng thời, qua đó khẳng định vị trí và tài năng của các cây bút nữ trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại. Lựa chọn giai đoạn từ 1986 đến nay, luận án cũng hướng đến việc khẳng định truyện ngắn nữ không chỉ là một bộ phận mà còn là bộ phân tiêu biểu làm nên sự phong phú, đặc sắc của văn học Việt Nam đương đại. 2.2. Nhiệm vụ: Xuất phát từ nhận thức trên, để thực hiện đề tài này, trước tiên chúng tôi hệ thống những quan điểm và hướng nghiên cứu về văn xuôi nữ nói chung và truyện ngắn nữ nói riêng để làm định hướng nghiên cứu của đề tài. Ở chương 2, chúng tôi đặt truyện ngắn nữ trong bối cảnh đổi mới và hội nhập của văn chương Việt Nam đương đại để nhìn thấy được sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của truyện ngắn nữ không chỉ là sự vận động tất yếu của đời sống văn học mà còn là quá trình cộng hưởng từ nhiều yếu tố của lịch sử, xã hội, văn hóa và tư tưởng. Sau đó, luận án sẽ tiếp tục làm sáng rõ đặc trưng của truyện ngắn nữ thông qua sự khác biệt trong việc xây dựng mô hình giao tiếp của các cây bút nữ ở chương 3 và cuối cùng đến chương 4 chúng tôi nghiên cứu một số dạng thái biểu hiện của lối viết nữ để đem lại một cái nhìn tương đối toàn diện về truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu 2 Chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu của luận án là truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay trên các phương diện cụ thể như mô hình giao tiếp, không gian, thời gian nghệ thuật và diễn ngôn mang đặc trưng của giới nữ. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung khảo sát các tập truyện ngắn của những cây bút nữ tiêu biểu như: Lê Minh Khuê, Phạm Thị Hoài, Trần Thùy Mai, Dạ Ngân, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Nguyễn Ngọc Tư, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Đỗ Bích Thúy. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng khảo sát truyện ngắn của một số cây bút hải ngoại tiêu biểu như: Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nhung Uyển, Trân Sa trong tuyển tập Khung trời bỏ lại (NXB Phụ Nữ - 1996) Ngoài ra, để làm phong phú và tăng sức thuyết phục của luận án chúng tôi còn khảo sát thêm một số tập truyện ngắn nữ như: Những truyện ngắn nữ đặc sắc từ 1986 đến nay (NXB Phụ Nữ), Truyện ngắn nữ 2000 – 2006 (NXB Phụ nữ); Truyện ngắn nữ đầu thế kỷ 21 (NXB Văn học), Truyện ngắn nữ 2000 – 2009 (NXB Phụ nữ), Truyện ngắn 9 cây bút nữ (NXB Văn học), Vũ điệu thân gầy, truyện ngắn 12 cây bút nữ (NXB Trẻ), Độc thoại trên tháp nhà nhờ (Tuyển tập truyện ngắn hiện đại của 5 nhà văn nữ) (NXB Hội Nhà văn)… Do đối tượng nghiên cứu vẫn đang tiếp tục vận động và phát triển nên chúng tôi giới hạn mốc thời gian sau cùng cho những tác phẩm trong phạm vi khảo sát của luận án là những truyện ngắn được xuất bản đến năm 2017. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp cấu trúc – kí hiệu học: nhằm nghiên cứu cấu trúc nội tại của tác phẩm, từ đó giúp lý giải được những kí hiệu được tác giả mã hóa trong quá trình giao tiếp - Phương pháp loại hình: Nhằm bao quát đặc trưng thể loại truyện ngắn từ các phương diện biểu cụ thể trong truyện ngắn nữ đương đại. 3 - Phương pháp so sánh: Góp phần làm nổi bật đặc trưng của lối viết nữ trong tương quan so sánh với truyện ngắn của các cây bút nam cùng thời hay với truyện ngắn của các tác giả nữ trước năm 1986. - Tiếp cận theo hướng thi pháp học: để phân tích những yếu tố “hình thức mang tính quan niệm” như không gian – thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn nữ đương đại. Ngoài ra trong luận án, chúng tôi còn vận dụng sự hỗ trợ từ các thao tác nghiên cứu văn học như: khảo sát văn bản, thống kê – phân loại, phân tích, tổng hợp, phê bình văn học… để khám phá những đặc sắc của truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình chuyên biệt nghiên cứu một cách hệ thống các phương diện cơ bản làm nên đặc trưng của lối viết nữ cũng như thành tựu và đóng góp của truyện ngắn nữ từ 1986 đến nay trong tiến trình vận động của văn học Việt Nam và văn học thế giới. Trong đó, đặc biệt là cách tiếp cận truyện ngắn nữ dưới góc độ cấu trúc, kí hiệu học, xem sáng tác của các nhà văn nữ như một hình thức giao tiếp của các nữ văn sĩ với con người, cuộc đời và với chính mình, góp thêm một hướng đi trong việc luận giải những giá trị của hiện tượng văn học này. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án - Ý nghĩa lý luận: Luận án làm sáng rõ một số vấn đề thuộc về lý luận thể loại, về những đặc điểm khu biệt và tính kí hiệu của tác phẩm qua việc khảo sát truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay - Ý nghĩa thực tiễn: Luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho cán bộ, sinh viên ngành Ngữ văn ở các trường đại học, cao đẳng, trung học phổ thông cũng như các độc giả quan tâm, nghiên cứu về truyện ngắn đương đại Việt Nam đặc biệt là truyện ngắn của các cây bút nữ. 4 7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương cụ thể như sau: - Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu - Chương 2: Truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay trong bối cảnh đổi mới và hội nhập - Chương 3: Những mô hình giao tiếp trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay - Chương 4: Những dạng thái biểu hiện trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay 5 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Từ năm 1986 đến nay, cùng với sự phát triển của nhiều thể loại, truyện ngắn đã “ghi danh” mình như một trong những thể loại có bước tiến mạnh mẽ trong nền văn học thời kỳ đổi mới. Nghiên cứu về thể loại truyện ngắn vì thế đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo giới nghiên cứu phê bình. Nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về truyện ngắn từ hệ thống lý thuyết thể loại đến thực tiễn sáng tác, từ diện mạo chung đến những hiện tượng cụ thể đã xuất hiện. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trực tiếp về truyện ngắn nữ còn khá hạn chế. Phần lớn là những bài báo đăng trên các tạp chí, website hoặc là những bài viết được lồng ghép trong những nghiên cứu về văn xuôi nữ nói chung. Một số tác giả nữ đã được đề cập ở những công trình nghiên cứu chuyên sâu nhưng thường dừng lại ở từng tác giả đơn lẻ hay nhóm các tác giả theo một hệ vấn đề nhất định. Vì thế, qua việc tổng hợp các công trình và bài viết về văn xuôi nữ nói chung và truyện ngắn nữ nói riêng, chúng tôi khái quát được 4 hướng nghiên cứu chính về truyện ngắn nữ Việt Nam (có thể lồng ghép trong văn xuôi nữ) từ 1986 đến nay cụ thể như sau: 1.1.1. Tổng kết, đánh giá thành tựu của các cây bút nữ Từ 1986 đến nay, truyện ngắn nữ đã phát triển hơn 30 năm. Đó là chặng đường không dài so với lịch sử phát triển của văn học dân tộc. Thế nhưng, với khoảng thời gian ấy cũng đủ để những nhà nghiên cứu nhìn lại vị trí, vai trò cũng như sự đóng góp của các cây bút nữ trong diễn trình văn học Việt Nam đương đại. Bên cạnh niềm tin, sự kỳ vọng về một nền văn học “mang gương mặt nữ”, các bài viết theo xu hướng này đã soi rọi được nhiều khía cạnh đặc trưng trong sáng tác của những người đàn bà viết văn. 6 Năm 1993, với nhiều bài viết về truyện ngắn, nhà phê bình lý luận văn học Bùi Việt Thắng đã nhận thấy sự bứt phá của một “lực lượng “Ganepho” giàu nội lực”. Trong bài viết Khi người ta trẻ (I) (Tản mạn về truyện ngắn của những cây bút nữ trẻ), ông không chỉ khẳng định sự đóng góp của các cây bút nữ trẻ trên văn đàn “Truyện ngắn hôm nay đang khởi sắc nhờ sự đóng góp không nhỏ của các cây bút nữ trẻ. Dung nhan của thể loại nhỏ đang lấp lánh hơn những giọng điệu trẻ trung của Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Y Ban, Nguyễn Minh Dậu và Phan Thị Vàng Anh” [132, tr 189] mà còn lật mở những đặc điểm của các nữ văn sĩ. Theo ông, làm nên nét đặc trưng của các cây viết nữ trẻ chính là “nhu cầu đến như là say mê được tham dự, được hòa nhập vào những nỗi niềm đau khổ và hy vọng của con người” [132,tr 190]. Chính vì thế nữ tính của những cây bút nữ trẻ “phát lộ rất rõ trong sự quyết liệt đấu tranh giành giữ tình yêu và sự bình quyền trong tình cảm” [132, tr 191]. Bên cạnh việc dụng công xây dựng những nhân vật nữ, truyện ngắn của những cây bút nữ trẻ gây được ấn tượng ở người đọc nhờ cách trình bày cuộc sống trong hình thức “ lạ hóa” đối tượng, ở sự phá cách rất tự do, khoáng đạt và uyển chuyển linh hoạt. Do đó, tuy có chút lo lắng về truyện ngắn của các cây bút nữ khi “vẫn thiếu một cái gì đó thật căn cốt, thật dư ba” nhưng ông vẫn khẳng định “chính họ chứ không ai khác sẽ làm nên diện mạo văn học thế kỷ hai mốt…tôi vẫn tin vào thế hệ thứ năm này như tin vào tiền đồ của văn học nước nhà sẽ tới một thời kỳ phục hưng” [132, tr 196 - 197]. Có thể thấy, tuy chỉ là một bài viết nhỏ nhưng nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng đã có những nhìn nhận khá xác đáng về những đặc điểm cũng như triển vọng trong sáng tác của đội ngũ những cây bút nữ trẻ lúc bấy giờ và cũng lực lượng sáng tác chính của văn học nữ đương đại. Năm 1995, trong bài viết mở đầu Những tác giả nữ trong nền văn xuôi cách mạng của cuốn sách Truyện ngắn các tác giả nữ (Tuyển chọn 1945 – 1995), nhà phê bình Hà Minh Đức đã có cái nhìn bao quát về lực lượng sáng tác những người viết nữ từ giai đoạn cách mạng đến sau năm 1975. Theo nhà nghiên cứu, 7 với các tác giả thuộc thế hệ nổi lên từ sau 1975 như Phạm Thị Hoài, Dạ Ngân, Trần Thị Trường, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Thị Ấm, Phạm Thị Minh Thư…, sáng tác của họ đã xuất hiện nhiều yếu tố mới từ nhân vật đến cấu trúc: “Các nhân vật mở rộng nếp cảm nghĩ, bộc lộ rõ cá tính trong các mối quan hệ, trong thị hiếu thẩm mĩ và ngôn ngữ xử sự. Cấu trúc câu chuyện cũng vẫn xoay theo những kiểu dáng mới không theo nếp truyền thống” [10, tr 7]. Còn những cây bút nữ mới xuất hiện gần đây như Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Xuân Hà, Hồ Hải Âu, “cái tôi của mỗi người đều không dấu kín mà bộc lộ chân tình, linh hoạt trên trang viết. Tươi trẻ, nhưng từng trải, biết hòa nhập. Theo ông, chất nữ tính làm nên sự khác biệt trong sáng tác của các cây bút nữ trong giai đoạn này chính là “sự mềm dịu”, “phần thì bộc lộ vẻ đẹp khách quan của những tâm hồn nữ, phần thì làm dịu đi ở người đọc những mệt mỏi trăn trở khó khăn của cuộc đời. Chính cái tâm lý ấy góp phần tạo nên chất thơ riêng của các tác giả nữ” [10, tr 7]. Vì thế ông khẳng định “văn xuôi nữ phải có chất thơ”, tuy nhiên điều làm cho người đọc ngạc nhiên và cũng có khi hứng thú là “sự mạnh dạn của nhiều cây bút nữ trong việc bộc lộ phần rất riêng tư của tình yêu kể cả những khao khát thầm kín có tính chất bản năng ở mỗi người” [10, tr 7 8]. Chính sự “vừa đông vui về lực lượng, vừa đa dạng về tiềm năng, phong cách” [10, tr 8], khiến nhà nghiên cứu tin rằng, văn học nữ khi khởi phát còn dừng lắng như đợi chờ sự tích tụ thì “trong khoảng hơn thập kỷ trở lại đây đã thành dòng chảy xiết mạnh mẽ, hứa hẹn nhiều thành quả tốt đẹp” [10, tr 8]. Bước sang thế kỷ XXI, dường như là một mốc thời gian đủ xa để các nhà nghiên cứu nhìn lại thành tựu của văn học nữ, đặc biệt là truyện ngắn nữ để từ đó nhận diện những nét đặc trưng riêng của những người viết nữ qua nhiều bài viết khác nhau. Bằng sự mẫn cảm của một người đàn bà, năm 2001, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bích Thu đã có nhiều kiến giải mang tính phát lộ bản chất của văn xuôi nữ trong bài viết “Văn xuôi phái đẹp”. Theo bà, “Trong những năm gần đây, cùng với đội ngũ viết văn của cả nước, các nhà văn nữ vẫn tỏ ra sung sức 8 và bền bỉ trong lao động sáng tạo. Bằng những trang viết của mình, các chị đã góp phần nâng cao tính thẩm mỹ của thể loại, đặc biệt vẫn giữ được “bình đẳng” với đồng nghiệp nam giới về hiệu quả và chất lượng nghệ thuật” [143, tr 112]. Bản lĩnh của người viết nữ được thể hiện thông qua việc làm chủ ngòi bút trong tư duy nghệ thuật và cảm hứng sáng tạo: “Văn chương của phái đẹp hôm nay đã không thi vị hóa những chuyện đời, không tỏ ra đài các hoặc đa cảm trong những dòng lệ…mà sắc sảo và sâu sắc khi tiếp cận và khai thác đề tài thế sự, đời tư với nỗi đau nhân tình thế thái bằng lối viết dịu dàng mà bén ngọt, diết dóng mà đồng cảm sẻ chia với những thân phận, những con người sống quanh mình” [143, tr 113,]. Đặc trưng của văn xuôi phái đẹp trên phương diện đề tài là “những va chạm nhỏ, những xung động khẽ của cuộc sống” hay “cái lỉnh kỉnh, dở dang” của cuộc đời. Với ưu thế riêng của giới tính, các nhà văn nữ đã thể hiện sở trường của mình trong đề tài tình yêu muôn thuở, trong khai thác đối tượng sáng tạo chủ yếu chính là cuộc đời và tâm hồn của người phụ nữ. Đồng thời, bà cũng khẳng định đối tượng mà người đàn bà tìm kiếm chính là đàn ông – những Adam của cuộc sống đời thường. Mỗi trang viết của họ là một sự vỡ lẽ về các đấng mày râu mà quan trọng hơn đó là sự “bộc lộ lòng vị tha, nhân ái của phụ nữ với con người và cuộc đời. Suy cho cùng đó cũng là một cách dung hòa cân bằng các mối quan hệ ứng xử ở đời” [143, tr 115]. Trong sáng tác của mình, các cây bút nữ đã thể hiện cả ý thức lẫn vô thức sáng tạo, dựa trên linh cảm đầy biến ảo để khai thác đến nhiều vỉa tầng của hiện thực và chiều sâu nhân vật. Vì thế, việc phát hiện các tình huống tâm lý, thế giới nội tâm nhân vật với bút pháp tự sự trữ tình đã trở thành một nét đặc trưng trong sáng tác của các chị. Bên cạnh đó, việc không ngừng đổi mới nghệ thuật ngôn từ, lối viết tự do, khoáng đạt hiện đại mà gợi cảm và đầy nữ tính đã khiến tác phẩm của các chị ngày càng có nhiều độc giả. Chính với những thành tựu đó, nhà nghiên cứu đã tin rằng “trong nền văn xuôi đương đại phong phú và đa dạng hôm nay, sáng tác của các nhà văn nữ 9 đã có một tiếng nói riêng, hương sắc riêng…phụ nữ với tác phẩm của phụ nữ sẽ là lời mời, tiếng gọi của văn chương và người đọc trong thế kỷ 21” [143, tr 117] Năm 2006, trong bài viết Sức bật mới của những cây bút nữ, tác giả Lê Viết Thọ thông qua việc đánh giá những cái tên rất quen như Võ Thị Hảo, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư đến sự xuất hiện của những cây bút nữ trẻ mới trên văn đàn như Hồng Hạnh, Phan Việt đã khẳng định “Những năm đầu của thế kỷ XXI này, văn đàn thêm một lần khởi sắc bởi những cây bút nữ. Nhờ họ, văn học ngày càng mang thêm diện mạo mới, một đời sống nhiều giằng co, trắc ẩn và đa đoan…Những cây bút nữ đã và đang âm thầm tỏa sáng, bày tỏ cách hiện diện trong cuôc sống bằng văn chương, tạo nên những nhịp mạch mới cho đời sống văn học [125]. Theo ông, điều quan trọng làm nên sức bật ấy chính là “trong sâu thẳm trang văn cho dù tưởng như cay nghiệt, thì vẫn phập phồng một trái tim nhân hậu, một cái nhìn sẻ chia, cảm thông trước cuộc đời, tạo nên một mạch nguồn ấm áp trong đời sống văn chương” [125]. Năm 2007, nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên ở bài viết Vũ điệu văn chương trẻ trong tập truyện ngắn của 12 cây bút nữ đã đã bộc lộ sự vui mừng khi chứng kiến sự trưởng thành của những cây viết thế hệ 7x, 8x như Nie Thanh Mai, Nguyễn Thúy Hằng, Ngọc Cầm Dương, Từ Nữ Triệu Vương…và với những gì họ đem lại trong văn chương “Họ trẻ tuổi, họ sống trẻ theo nhịp sống của thế hệ và thời đại, họ nghĩ và cảm trẻ. Và họ viết trẻ. Trẻ tự nó đã là một phẩm chất. Ở lối nhìn đời. Và ở cách trình bày lối nhìn ấy thành văn…Không có gì mới dưới mặt trời, nói về thất tình lục dục của con người. Chỉ có cách nhìn cách nói về chúng là mới mà thôi. Dù cái mới đây nhiều khi chưa phải là cái mới thực chất. Mới chỉ đang là khác, là lạ. Thì đấy cũng đã là một sự bắt đầu để có mới” [10, tr 7]. Theo tác giả, truyện ngắn là thể gan lì và ương bướng khi chấp nhận mọi người viết muốn thử sức nhưng không dễ cho ai làm chủ được nó khi không có đủ nội lực và tay nghề, nhưng 12 cây bút nữ trẻ đã đáp lại lời mời và sự thách thức đó. Mỗi cây bút, với những cách khám phá khác nhau đã mạnh dạn 10 trong việc “đột phá” vào mảng hiện thực lạ, những lối viết mới mẻ tạo nên sự đa dạng, hấp dẫn của thế hệ của các nhà văn trẻ. Tiếp nối những nhận định về văn xuôi nữ ở giai đoạn trước, năm 2013 tác giả Trần Thục đã có bài viết Một góc nhìn về văn xuôi nữ, khá bao quát về nhiều phương diện của văn xuôi nữ trong đó đặc biệt là truyện ngắn nữ. Theo tác giả, ở thể loại truyện ngắn, các cây bút nữ đã mang đến cho làng văn những giọng điệu mới. Văn chương của họ phần nào đã khẳng định được vị thế trên văn đàn, tên tuổi của họ ngày càng trở nên quen thuộc với nhiều độc giả. Về đề tài, các tác giả nữ viết nhiều về đề tài tình yêu, hạnh phúc với những khát vọng tình yêu luôn luôn bỏng chát nhưng dường như chẳng bao giờ có thể thực hiện được, chẳng bao giờ có thể trọn vẹn. “Vẫn còn bàng bạc những mất mát trong tình yêu và hôn nhân, nhấn chìm người phụ nữ vào sự cô đơn, đau khổ” [145]. Tuy nhiên, các cây bút nữ đã mạnh dạn cất lên tiếng nói cá nhân, nêu lên ước nguyện của mình, dám đòi hỏi và kêu gọi người đời quan tâm đến số phận những người phụ nữ. Không chỉ vậy, “văn xuôi nữ còn đi sâu vào những tầng bậc của cuộc sống gia đình, ở đó có cả những mâu thuẫn, xung đột, bất hòa giữa hai thế hệ mà tưởng như không thể giải tỏa nổi” [145]. Đặc biệt, theo nhận định của tác giả Trần Thục, nhân vật nữ trong tác phẩm của các cây bút nữ xuất hiện với mật độ dày đặc và trở thành hình tượng trung tâm, có thể lên đến 2/3 nhân vật của toàn bộ tác phẩm. “Nhân vật nữ của họ rất tinh tế, nhạy cảm, có cá tính mạnh mẽ, dám sống, dám yêu, dám đòi hỏi quyền được yêu, quyền được sống hạnh phúc chính đáng” [145]. Đồng thời với giọng điệu mới mẻ, có cá tính và ngôn ngữ sắc sảo, mạnh bạo mà vẫn không thiếu chất đằm thắm, dịu dàng, các nhà văn nữ đã góp những tiếng nói riêng, những hương sắc riêng cho diện mạo văn xuôi đương đại. Theo tác giả, văn xuôi nữ ở Việt Nam tuy xuất hiện muộn hơn so với các nước khác nhưng “hứa hẹn những bước đi triển vọng góp phần làm phong phú diện mạo văn học Việt Nam thế kỷ XXI” [145]. 11 Năm 2015, nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng – người tự nhận mình có xu hướng “khuynh nữ” lại tiếp tục có bài viết luận bàn về những cây bút nữ trong hội thảo cuốn sách Phái đẹp và cuộc đời. Dường như, sau một khoảng thời gian dài nhìn lại, từ bài viết Khi người ta trẻ (I) (Tản mạn về truyện ngắn của những cây bút nữ trẻ) vào năm 1993 với cái nhìn còn chút lo lắng cho tương lai của văn học nữ, thì ở bài viết “Văn chương mang gương mặt nữ” trong hội thảo này, tác giả đã thể hiện niềm tin, sự khẳng định về một “đội quân tóc dài trong văn chương” trên nhiều phương diện. Cùng với thơ ca, các cây bút văn xuôi nữ đã có một vị thế và vai trò riêng trong nền văn chương Việt. Theo ông, thế mạnh của người viết nữ là lay động người đọc bằng những xúc cảm chân thành, mộc mạc nhưng bên cạnh đó còn là một chất trí tuệ thấm đượm trên những trang văn, là sự “đốt cháy trái tim đến thành trí tuệ” trong văn nữ. Nhà nghiên cứu có phần hơi chủ quan khi khẳng định “tương lai của văn chương nói chung cũng chính là tương lai của văn chương nữ nói riêng” [134]. Nhưng ông hoàn toàn có lý khi cho rằng ““văn chương mang gương mặt nữ” là nói đến khả năng thuần hóa những nỗi đau của con người mà nghệ thuật ngôn từ có thể thực hiện được sứ mạng của mình thông qua tác phẩm của nhà văn nữ” [134]. Bởi văn nữ và văn chương nói chung đều giống nhau ở cảm hứng nhân văn về con người, vì con người, đều hướng đến Chân – Thiện – Mỹ. Năm 2016, tác giả Châm Khanh trong bài viết “Phụ nữ và văn chương”, sau khi nhìn lại lực lượng sáng tác nữ qua nhiều thế hệ đã đưa ra những vấn đề khá quan trọng cần có sự giải đáp trong việc nghiên cứu văn chương nữ như hiện tượng nở rộ của các cây bút nữ, tại sao các cây bút nữ lại chuyên về văn xuôi hơn thơ ? Hay cách viết của phụ nữ so với nam giới có gì khác? Tác giả bài viết đã đưa ra những câu trả lời từ các nhà nghiên cứu như Hoàng Ngọc Hiến, Đặng Anh Đào và theo ông những quan niệm đó đều có tính thành kiến hơn là phán đoán khoa học. Nhưng đáng tiếc là ngay bản thân tác giả cũng không đưa được 12 kiến giải của riêng mình về sự khác biệt cụ thể giữa hai phái tính trong khía cạnh sáng tác văn học. Vấn đề được đặt ra vẫn là một câu hỏi bỏ ngõ cần lời giải đáp. Đáng chú ý trong hướng nghiên cứu này, có lẽ là bài viết Ba mươi năm truyện ngắn nữ trong xu thế hội nhập của tác giả Lê Thị Hường vào năm 2017. Bài viết được xem như một sự tổng kết khá toàn diện về thành tựu cũng như đặc điểm của truyện ngắn nữ. Từ sự khẳng định về ưu thế vượt trội của truyện ngắn trong một giai đoạn “Tiểu thuyết là những thành trì, nhưng đã đến thời viết ngắn”, tác giả đã nhận thấy một sự thật là dường như “phụ nữ bắt mạch với thời đại nhanh hơn nam giới”. Vì thế từ năm 1986 đến thập niên đầu thế kỷ XXI, sự xuất hiện ồ ạt của giới nữ đem lại sinh khí mới trong văn học. Ba mươi năm, vắt ngang hai thế kỷ, truyện ngắn nữ tập hợp được nhiều thế hệ nhà văn, hội tụ nhiều phong cách sáng tạo. Bằng sự trăn trở, tìm kiếm, chính đội ngũ những người nữ viết truyện ngắn nhiều thế hệ đã góp phần không nhỏ trong việc cách tân thể loại hòa chung xu thế toàn cầu. Tác giả bài viết đã thể hiện sự sắc sảo của mình trong việc nhận diện đặc điểm làm nên sự khác biệt của các cây bút nữ chính là trường nhìn và lối viết nữ. Nhà nghiên cứu đi sâu vào hai đề tài lịch sử và chiến tranh trong sáng tác của các nữ văn sĩ như một minh chứng cho việc “Với cái nhìn hướng nội, truyện ngắn nữ quan tâm nhiều điều ẩn mật của tâm hồn, kể cả khi khai thác những mảng hiện thực vốn được xem là dành cho nam giới” [86, tr 202]. Bên cạnh đó, “Đời sống phố thị và sự hiện tồn đầy âu lo của con người là một hướng phổ biến của truyện ngắn nữ - đặc biệt giai đoạn đầu thế kỷ XXI” [86, tr 204]. Truyện ngắn nữ đi sâu vào những mảng hiện thực nhức nhối, những lỗ hổng văn minh đô thị mà ở đó con người vừa là kẻ dự phần, vừa xa lạ, lạc lõng, cô đơn. Do đó, tuy chưa ghi dấu ấn vân tay đậm nét, “nhưng truyện ngắn nữ đã dự phần vào những vấn đề đương đại, đặc biệt là phi lý phận người” [80, tr 204]. Cùng với đó, tác giả Lê Thị Hường dường như đã nhìn tận đáy sâu tâm hồn người phụ nữ để thấy “hiện sinh tính dục, khỏa lấp nỗi cô đơn hiện tồn bằng những mải mê thân xác là vấn đề phổ biến trong truyện ngắn nữ…Tuy vậy, điểm 13 riêng rất nữ tính là niềm kiêu hãnh giới, là cảm thức dục tính uyên nguyên, góp phần đa dạng hóa cách nhìn con người bản năng” [86, tr 204 – 205]. Vì thế cổ mẫu Đất, Nước mang tính âm xuất hiện đậm đặc với nhiều ý nghĩa trong thế giới nghệ thuật của các nhà văn nữ. Một đặc điểm khác không thể không nhắc đến là sự liên văn bản và dung hợp thể loại ở truyện ngắn nữ. Chính điều này đã khiến những đặc trưng thẩm mỹ của truyện ngắn ít nhiều bị phá vỡ. Cảm quan và lối viết hậu hiện đại với cấu trúc phân mảnh, tính chồng lấn giữa ngôn ngữ người trần thuật và ngôn ngữ nhân vật… in dấu ấn trong truyện ngắn của nhiều nữ nhà văn như một minh chứng cho sự trăn trở, tìm tòi đổi mới bút pháp nghệ thuật của các chị. Có thể thấy, với một bài viết không quá 10 trang nhưng tác giả Lê Thị Hường đã góp phần lý giải được rất nhiều vấn đề trong nghiên cứu truyện ngắn nữ, giúp cho việc nhận diện những đặc trưng của truyện ngắn nữ nói riêng và văn xuôi nữ nói chung được tường minh, sáng rõ. Nhìn chung, các công trình và bài viết trong phạm vi chúng tôi bao quát được đều có xu hướng khẳng định thành tựu cũng như đóng góp của các nhà văn nữ trên văn đàn. Tuy nhiên, dù không nhiều nhưng cũng phải kể đến một số ý kiến thể hiện quan điểm không tin tưởng hay có thái độ hoài nghi với sự phát triển đối của văn học nữ. Nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn trong bài viết Các nhà văn nữ và sự khủng hoảng trong văn học Việt Nam hiện đại đã thể hiện thái độ không mấy thiện cảm với văn chương nữ giới. Ông nhận định “Những nhà văn nữ Việt Nam theo tôi, có lẽ chẳng mang đến cái gì mới bởi còn lâu họ mới tự đổi mới được…Phụ nữ Việt Nam cũng giống như phụ nữ trên toàn trái đất, không thể sống thiếu các thần tượng của mình, họ luôn phải dựa dẫm vào hình ảnh một người đàn ông lý tưởng nào đó” [112]. Và cuối cùng ông rút ra kết luận “sự thiển cận của tư tưởng, nông cạn về tri thức, hời hợt trong tình cảm đã trở thành căn bệnh kinh niên không chỉ của riêng các nhà văn nữ, nó chỉ là một phần trong cuộc khủng hoảng sâu sắc của văn học Việt Nam hiện nay. Có điều bằng thái độ tự tin một cách khó hiểu, những nhà văn ấy cứ tiếp tục cho ra đời 14 những tác phẩm không sức sống, những mẫu chuyện vụn vặt vô hồn. Họ đẩy sự tầm thường lên đến độ bất thường” [112]. Cũng đồng quan điểm này, tuy không nặng nề như tác giả Nguyễn Thanh Sơn nhưng nhà nghiên cứu Hoàng Đăng Khoa cũng bộc lộ sự nghi ngại trước sự đổi mới của nhiều cây bút nữ trong thời gian gần đây. Theo ông, đó không phải là sự đổi mới mà phải chăng là sự đánh mất mình của nhiều cây bút trên trang viết. Những nhận định này có phần cực đoan, phiến diện. Người viết đã áp đặc cái nhìn đậm màu sắc chủ quan của cá nhân để khái quát một hiện tượng văn học. Những thành tựu của văn học nữ qua hơn 30 năm và sự quan tâm đặc biệt của công chúng dành cho hiện tượng này đã chứng tỏ giá trị của nó mang lại cho nền văn học nước nhà cũng như cho đời sống tinh thần của người đọc Việt. Tuy nhiên, có thể thấy rằng những ý kiến trái chiều như vậy là điều không thể tránh khỏi của một giai đoạn văn học thuộc về cái “đương đại chưa hoàn thành” (M.Bakhtin). Nó chứng tỏ sự phức tạp của một hiện tượng văn học cần có những nghiên cứu chuyên sâu hơn để chứng minh và khẳng định. 1.1.2. Tiếp cận từ tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại Hướng nghiên cứu này tập trung chủ yếu ở một số công trình luận án đã bảo vệ trong thời gian vừa qua tiêu biểu như: Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1995 của tác giả Lê Thị Hường (Luận án phó tiến sỹ khoa học Ngữ Văn – Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Năm 1995), Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (Nhìn từ góc độ thể loại) của tác giả Lê Thị Hương Thủy (Luận án Tiến sĩ văn học – Học viện khoa học xã hội – Năm 2013), Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại của tác giả Nguyễn Thị Năm Hoàng (Luận án tiến sĩ văn học – Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Năm 2015). Điểm chung của ba luận án này là đều không lấy truyện ngắn nữ làm đối tượng nghiên cứu trực tiếp nhưng thông qua bức tranh toàn cảnh của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975,các công trình đã giúp những người 15 nghiên cứu truyện ngắn nữ nhận diện đặc trưng bút pháp, tư duy nghệ thuật hay đặc điểm phong cách của một hay một số tác giả nữ. Chỉ lấy đối tượng nghiên cứu là những truyện ngắn giai đoạn khoảng 20 năm từ sau 1975 nên luận án Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1995 của tác giả Lê Thị Hường chưa nhìn thấy sự phát triển trở thành “hiện tượng” của các cây bút nữ trên văn đàn Việt. Nhưng trong cái nhìn chung về truyện ngắn giai đoạn này, nhà nghiên cứu đã nhận diện đặc điểm chung trong sáng tác của một số nhà văn nữ như Phạm Thị Hoài, Y Ban, Nguyễn Thi Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh trên các phương diện như như cốt truyện, kết cấu, nhân vật, thời gian, không gian nghệ thuật hay ngôn ngữ. Góp phần trong việc dần làm lộ diện “hiện tượng” văn học nữ những năm cuối thập kỷ 90, còn phải kể đến hai công trình luận án Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (Nhìn từ góc độ thể loại) của tác giả Lê Thị Hương Thủy và Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại của tác giả Nguyễn Thị Năm Hoàng. Cùng một đề tài tương đối giống nhau nhưng với cách tiếp cận khác nhau, hai tác giả đã có những kiến giải khá bao quát về truyện ngắn nói chung và truyện ngắn một số tác giả nữ nói riêng. Trong luận án của mình, khi khám phá diễn trình truyện ngắn thời kỳ đổi mới, tác giả Lê Thị Hương Thủy đã nhận diện sự thăng hoa của truyện ngắn nữ : “Cũng cần nói đến hiện tượng truyện ngắn của các cây bút nữ vào những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90. Đây được coi là thời kỳ thăng hoa của truyện ngắn nữ với sự gia tăng của các cây bút nữ, nhất là truyện ngắn có lối viết và giọng điệu khác nhau. Sự xuất hiện đông đảo của người viết nữ cùng với nỗ lực và ý thức cách tân về lối viết đã đem đến cho người đọc những cảm quan mới mẻ” [147, tr 27 – 28]. Tác giả luận án cũng nhận ra đặc điểm nổi bật về điểm nhìn trần thuật trong sáng tác của các cây bút nữ là trần thuật từ ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong “hầu hết truyện ngắn của các cây bút nữ như Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y ban đều viết dưới hình thức người 16 kể chuyện xưng tôi” [147, tr 139]. Đồng thời, qua việc phân tích sự thay đổi ở nhiều phương diện như quan niệm và tư duy thể loại, các dạng thức xây dựng nhân vật và tổ chức kết cấu văn bản, hay ngôn ngữ và điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới, luận án đã cho rằng có thể thấy ở phương diện nào, truyện ngắn nữ cũng có những đại diện góp mặt tiêu biểu như truyện ngắn của Phạm Thị Hoài, Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh… Tuy nhiên, ở công trình này, các truyện ngắn nữ chỉ được đề cập với một số nội dung nhất định và với dung lượng khá ít như những minh chứng bổ sung cho các luận điểm triển khai trong luận án bên cạnh các cây bút nam như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh… Tương tự như vậy, trong luận án Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại, tác giả Nguyễn Thị Năm Hoàng đã khám phá truyện ngắn trên nhiều phương diện như các xu hướng vận động, tình huống, kết cấu, nhân vật và ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Diện khảo sát về các truyện ngắn nữ ở luận án này tuy có rộng hơn khi đi sâu phân tích nhiều tác phẩm cụ thể của các tác giả nữ như Lê Minh Khuê, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư nhưng cơ bản đó vẫn là cái nhìn lồng ghép trong cái nhìn chung về truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 như các luận án trước đó, vì thế chưa thể nhận diện truyện ngắn nữ như một hiện tượng với những đặc trưng mang tính chất khu biệt trong nề văn học Việt Nam đương đại. Đáng chú ý nhất trong hướng nghiên cứu này có lẽ là luận án Truyện ngắn các nhà văn nữ đương đại – Tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại của tác giả Phạm Thị Thanh Phượng (Đại học khoa học xã hội và nhân văn – Năm 2015). Lấy phạm vi nghiên cứu là truyện ngắn của các tác giả tiêu biểu như Lê Minh Khuê, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Thuệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy…, đây được xem là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu về truyện ngắn nữ một cách khái quát, góp phần khẳng định và lý giải nhiều vấn đề quan trọng trong tư duy nghệ thuật và đặc trưng thể loại của 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan