VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------
HOÀNG ANH TUẤN
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
BÁO CHÍ VỚI VIỆC NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC
NGHỀ BÁO Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2017
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------
HOÀNG ANH TUẤN
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
BÁO CHÍ VỚI VIỆC NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC
NGHỀ BÁO Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành: Đạo đức học
Mã số: 62 22 03 06
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
Hướng dẫn 1: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà
Hướng dẫn 2: PGS.TS. Hoàng Anh
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án Tiến sĩ với đề tài “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
đạo đức báo chí với việc nâng cao đạo đức nghề báo ở nƣớc ta hiện nay” là
công trình nghiên cứu khoa hoc của cá nhân tôi, do sự hướng dẫn của
PGS.TS.Nguyễn Ngọc Hà – Tổng biên tập Tạp chí Khoa học Xã hội - Viện Hàn
lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và PGS.TS. Hoàng Anh - Vụ Quản lý khoa học
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Những nội dung thông tin và số
liệu được trình bày trong Luận án này là hoàn toàn chính xác và trung thực.
Xin trân trọng cảm ơn..!
Hà Nội, ngày 05 tháng 12 năm 2017
Tác giả
HOÀNG ANH TUẤN
LỜI CẢM ƠN
Luận án Tiến sĩ triết học với đề tài “Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức
báo chí với việc nâng cao đạo đức nghề báo ở nƣớc ta hiện nay” là kết quả
của quá trình cố gắng không ngừng của tác giả, cùng sự giúp đỡ, động viên
khích lệ của quý thầy cô, bạn bè đồng nghiệp và người thân. Qua công trình
nghiên cứu này tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những người đã tạo điều kiện giúp
đỡ cho tác giả trong thời gian học tập và nghiên cứu khoa học.
Tác giả xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn
Ngọc Hà – Tổng biên tập Tạp chí Khoa học Xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội Việt Nam và PGS.TS. Hoàng Anh - Vụ Quản lý khoa học - Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã trực tiếp tận tình hướng dẫn, cũng như cung
cấp tài liệu thông tin khoa học hỗ trợ cho Luận án này.
Xin chân thành cảm ơn tới Lãnh đạo Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam;
Khoa Triết học; Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tạo điều kiện thuận lợi để
tác giả hoàn thành việc nghiên cứu khoa học này. Cuối cùng tác giả chân thành
cảm ơn đến đồng nghiệp, đơn vị công tác Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội
đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện Luận án.
Mặc dù tác giả đã cố gắng nỗ lực hết sức, nhưng Luận án sẽ vẫn còn nhiều
điểm hạn chế và thiết sót, vì thế kính mong nhận được ý kiến đóng góp của quý
Thầy Cô và bạn bè, đồng nghiệp để Luận án này được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn..!
Hà Nội, ngày 05 tháng 12 năm 2017
Tác giả
HOÀNG ANH TUẤN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ............. 6
1.1. Những công trình khoa học nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức và đạo đức báo chí..................................................................................... 6
1.2. Những công trình nghiên cứu thực trạng đạo đức báo chí Việt Nam theo
tư tưởng Hồ Chí Minh và giải pháp nâng cao đạo đức nghề báo .................. 18
1.3. Đánh giá chung những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức và đạo đức báo chí nước ta ............................................................... 32
CHƢƠNG 2: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ ...... 36
2.1. Khái niệm đạo đức báo chí ..................................................................... 36
2.2. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí ........... 41
2.3. Quy chuẩn đạo đức nhà báo Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh ...... 49
CHƢƠNG 3: ĐẠO ĐỨC BÁO CHÍ VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƢ
TƢỞNG HỒ CHÍ MINH: THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN .............. 70
3.1. Thực trạng đạo đức báo chí Việt Nam hiện nay ..................................... 70
3.2. Nguyên nhân của thực trạng đạo đức báo chí Việt Nam ......................... 104
CHƢƠNG 4: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC NGHỀ BÁO Ở
NƢỚC TA HIỆN NAY THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH .................. 125
4.1. Nhóm giải pháp liên quan đến các cơ quan báo chí và cơ quan quản lý
báo chí Việt Nam ......................................................................................... 125
4.2. Nhóm giải pháp liên quan đến chủ thể đội ngũ nhà báo Việt Nam ...... 144
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 156
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐƢỢC CÔNG BỐ ............ 159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 160
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vô giá trong kho tàng lịch sử tư tưởng
của Việt Nam. Đó là tư tưởng của người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà
văn hoá kiệt xuất, vị lãnh tụ kính yêu, người chiến sỹ lỗi lạc, người thầy vĩ đại
của công cuộc giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản, cách mạng và công
nhân quốc tế. Trong hệ thống di sản tư tưởng phong phú và vô giá mà Chủ
tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta ngày nay, có tư tưởng về đạo đức và
đạo đức báo chí cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của tờ báo Thanh Niên ngày
21/6/1925 do Hồ Chí Minh sáng lập đã đánh dấu một dấu son trong lịch sử
báo chí cách mạng, chính thức khai sinh nền báo chí cách mạng Việt Nam. Từ
đó đến nay, báo chí cách mạng nước ta trở thành phương tiện thông tin đại
chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức
Đảng, Nhà nước, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân. Trong công cuộc
đổi mới, Báo chí nước ta đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần
của nhân dân; đã phát triển cả về số lượng, chất lượng và loại hình; có những
bước tiến vượt bậc; đáp ứng tốt yêu cầu ngày càng cao sự nghiệp cách mạng.
Việc nghiên cứu, làm sáng tỏ tính cách mạng, tính khoa học cũng như
giá trị nhân văn to nói chung và tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí
nói riêng là hết sức cần thiết. Điều đó giúp chúng ta hiểu, tiếp thu tư tưởng
quan trọng và cần thiết này của Người; học tập và noi gương Người; phấn đấu
vươn lên, hoàn thiện bản thân mình; góp phần xây dựng con đường cách
mạng Việt Nam nói chung và nền báo chí cách mạng Việt Nam nói riêng đáp
ứng yêu cầu phát triển của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Hiện
nay, việc thực hiện Chỉ thị 05 - CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (ngày
15/5/2016) còn có nhiều điểm hạn chế; chưa thực sự trở thành việc làm
1
thường xuyên; ý thức tự giác của không ít tổ chức Đảng, cơ quan, đơn vị và
một số bộ phận cán bộ, đảng viên chưa cao. Để phát huy những kết quả đạt
được, khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của
Bộ Chính trị khóa XI (về việc “tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đảng
viên vừa có tài thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa), cần thiết phải vận dụng tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh vào từng lĩnh vực công tác cụ thể, trong đó có báo chí. Mỗi nhà
báo cần nắm vững, thấm nhuần tư tưởng đạo đức của Người, vận dụng sáng
tạo tư tưởng đó vào hoạt động nghiệp vụ của mình, để xứng đáng là chiến sỹ
xung kích trên mặt trận tư tưởng, văn hóa của Đảng, Nhà nước, thực hiện
tốt trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, những người làm báo cần phải có lập
trường tư tưởng chính trị vững vàng; không ngừng học tập, nâng cao trình
độ lý luận chính trị, kỹ năng nghiệp vụ báo chí; rèn luyện phẩm chất đạo
đức, lối sống theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Quán triệt tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh nói chung và đạo đức báo chí nói riêng, cũng chính
là quán triệt ý thức trách nhiệm chính trị xã hội của mỗi nhà báo. Người
làm báo cần có ý thức chính trị đúng đắn; có lập trường chính trị cách
mạng; bảo vệ chế độ, bảo vệ dân tộc, bảo vệ giai cấp, bảo vệ đất nước;
chống lại sự phá hoại của thù trong, giặc ngoài. Mỗi nhà báo cần tự hoàn
thiện mình; vượt lên trên những tính toán vụ lợi cá nhân; cống hiến toàn
tâm, toàn lực cho sự nghiệp báo chí cách mạng Việt Nam nói riêng, cho sự
nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung; đóng góp vào công cuộc xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chỉ thị số 22 CT-TW của Bộ Chính trị khóa VIII ngày 17/10/1997 nêu
rõ: trong những năm gần đây, một số bộ phận không nhỏ trong đội ngũ những
2
người làm báo đang vi phạm các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp; xa rời tôn
chỉ mục đích của báo chí cách mạng; có khuynh hướng thương mại hóa; lợi
dụng danh nghĩa nhà báo để trục lợi; chạy theo thị hiếu tầm thường; đăng tải
những chuyện giật gân, tình dục, bạo lực, mê tín dị đoan hoặc những chuyện
vụn vặt… Sự tha hóa của một số bộ phận không nhỏ nhà báo ở nước ta hiện
nay có ảnh hưởng xấu đến cộng đồng và xã hội. Không ít nhà báo đức không
trong, tâm không sáng; họ lợi dụng nghề nghiệp của mình để vụ lợi; đi ngược
lại tôn chỉ, mục đích của đạo đức nghề báo; phá vỡ những nguyên tắc cơ bản
của lao động báo chí, nguyên tắc tôn trọng sự thật, nói rõ sự thật, bảo vệ sự thật
và định hướng dư luận. Trước tình hình đó, chúng ta cần thiết nghiên cứu đạo
đức báo chí cả về phương diện lý luận và thực tiễn, đặc biệt cần đi sâu nghiên
cứu làm rõ những vấn đề như: các quan điểm C.Mác, Ph.Ăngghen, VI.Lenin,
Hồ Chí Minh, Đảng công sản Việt Nam về đạo đức báo chí nước ta; sự cần
thiết việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức; thực trạng đạo đức báo
chí nước ta; những vấn đề bất cập, cấp bách trong công tác chỉ đạo, quản lý và
nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó; những giải pháp nhằm nâng cao đạo đức
nghề báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí. Vì những lý do cơ
bản nêu trên, tác giả luận án chọn đề tài là: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức báo chí với việc nâng cao đạo đức nghề báo ở nước ta hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức báo chí, khảo sát thực trạng đạo đức báo chí nước ta hiện nay theo tư
tưởng Hồ Chí Minh và nêu nguyên nhân của thực trạng đó; đề xuất những
giải pháp căn bản nhằm nâng cao đạo đức nghề báo theo nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí vào quá trình xây dựng và hoàn thiện những
quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam, nhằm nâng cao
đạo đức nghề báo ở nước ta hiện nay.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, luận án thực hiện
những nhiệm vụ như sau:
Thứ nhất, phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí.
Thứ hai, phân tích thực trạng đạo đức báo chí nước ta hiện nay theo nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh và phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.
Thứ ba, đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao đạo đức nghề cho đội
ngũ nhà báo nước ta theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức báo chí, thực trạng đạo đức báo chí ở đội ngũ nhà báo nước ta hiện
nay và nguyên nhân của của thực trạng đó, những giải pháp nâng cao đạo đức
nghề báo nước ta hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực thực trạng đạo đức báo chí
Việt Nam theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, trong phạm vi từ năm 2005
đến năm 2016. Đó là thời điểm Ðại hội lần thứ VIII của Hội Nhà Báo Việt
Nam (13/8/2005) quyết nghị thay “Quy ước về đạo đức nghề nghiệp báo chí
Việt Nam” bằng “Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt
Nam”, sửa đổi điều lệ và chương trình hành động thực hiện quy định đạo đức
nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vấn đề đạo đức và đạo đức nghề báo.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp
4
nghiên cứu cụ thể: phân tích, tổng hợp, so sánh, lôgíc - lịch sử, thống kê và
các phương pháp chung khác của khoa học xã hội.
5. Đóng góp mới về khoa học
Thứ nhất: Luận án khái quát và làm rõ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức báo chí, khái quát nội dung thành quy chuẩn, chuẩn mực đạo đức
nghề báo Việt Nam theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí.
Thứ hai: Luận án góp phần làm rõ thêm thực trạng đạo đức báo chí nước
ta hiện theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí.
Thứ ba: Luận án đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức nghề
báo ở nước ta hiện nay theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Thứ nhất: Luận án cung cấp thêm tài liệu tham khảo giúp cho những học
viên, sinh viên, phóng viên, biên tập viên, những người đang trực tiếp hoạt
động trong lĩnh vực báo chí và những ngành nghề liên quan khác.
Thứ hai: Luận án góp phần nhằm nâng cao nhận thức cho các nhà báo
(trong đó có các phóng viên, biên tập viên…) về đạo đức nghề nghiệp của
người làm báo Việt Nam hiện nay.
Thứ ba: Luận án góp phần cung cấp căn cứ lý luận và thực tiễn cho việc
hoạch định các cơ chế, chính sách, luật, quy ước, quy chế, quy định, nguyên tắc
và chuẩn mực liên quan đến hoạt động báo chí nước ta hiện nay.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu, danh mục
tài liệu tham khảo, danh mục viết tắt và phụ lục, nội dung chính của Luận án
được cấu trúc gồm 4 chương, 10 tiết.
5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Những công trình khoa học nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo
đức và đạo đức báo chí
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nói chung và đạo đức báo chí nói
riêng có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Vì thế đã có nhiều công trình nghiên
cứu tư tưởng của Người về đạo đức nói chung và đạo đức báo chí nói riêng.
Trong đó có những công trình tiêu biểu như sau:
1.1.1. Những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Phạm Văn Đồng (1990): “Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một
thời đại, một sự nghiệp” (Nxb Sự thật). Trong tác phẩm này tác giả viết: "Chủ
tịch Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra
vĩ đại, sáng chói mà không gây choáng ngợp, gặp lần đầu mà như thân thuộc
từ lâu". Tác giả đã lý giải sâu sắc về mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh và tư
tưởng của Người với thời đại, với công cuộc giải phóng dân tộc mình: “Một
con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, bốn nhân tố ấy kết hợp
và hoà nhập vào nhau, tạo thành sự vận động của lịch sử, bắt đầu từ một con
người, thông qua một dân tộc và một thời đại, cuối cùng đưa đến một sự
nghiệp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đó là
điều Hồ Chí Minh tìm kiếm lúc rời nước ra đi, ấp ủ lúc trở về, tâm niệm suốt
cuộc đời, cho đến những lời trong Di chúc”. Thông qua tác phẩm này, Phạm
Văn Đồng đã chỉ ra đóng góp to lớn của Hồ Chí Minh và vai trò quan trọng
của tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người trong suốt tiến trình cách
mạng giải phóng dân tộc trước kia và trong công cuộc đổi mới hiện nay.
6
Võ Nguyên Giáp (1997):“Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam”(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội). Trong công trình nghiên
cứu này, tác giả đã nêu bật tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trên
phương diện đạo đức. Theo tác giả phân tích: Hồ Chí Minh không chỉ là một
nhà tư tưởng về đạo đức, mà bản thân Người là một tấm gương về đạo đức
cách mạng, chính vì vậy chúng ta phải học tập tư tưởng và làm theo tấm
gương đạo đức của Người. Trong tác phẩm này, những luận điểm lớn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh đã được phân tích sâu sắc và trình bày có hệ thống. Tác
giả đã nêu lên một định nghĩa bao quát về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là hệ
thống lý luận về đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam:
cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ
nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa nhằm
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, xây dựng đất
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Qua nội dung cuốn sách,
chúng ta thấy được một cách hệ thống những luận điểm sáng tạo lớn của Hồ
Chí Minh về đường lối và phương pháp, về chiến lược và sách lược cách
mạng, về tổ chức các lực lượng cách mạng, về tư tưởng quân sự, tư tưởng
nhân văn, đặc biệt là tư tưởng đạo đức. Có thể khẳng định rằng, qua tác phẩm
này, những cống hiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong lĩnh vực nghiên
cứu, phổ biến, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là rất lớn, rất quan trọng. Đại
tướng Võ Nguyên Giáp là một trong số người đi tiên phong và đặt nền móng
cho việc nghiên cứu, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trần Văn Giàu (1997): “Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh”
(Nxb Chính trị Quốc gia). Trong phần 1 "Sự hình thành về cơ bản tư
tưởng Hồ Chí Minh", tác giả phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh trước khi
Người gặp chủ nghĩa Lênin (1911-1920). Trong phần 2 "Sự hình thành về cơ
7
bản tư tưởng Hồ Chí Minh", tác giả trình bày các nội dung: tư tưởng Hồ Chí
Minh trong thời kỳ lịch sử 1920 - 1930; cách mạng giải phóng dân tộc - vấn
đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh; Hồ Chí Minh nhà hiền triết. Tác giả
khẳng định: Hồ Chí Minh không phải là người sáng tạo lý luận tư tưởng, mà
gần như không có tác phẩm nào chuyên bàn về lý luận, tư tưởng, không như
Lê-nin, Mao Trạch Đông, nhưng toàn tập của Hồ Chí Minh dài nhiều vạn chữ.
Hồ Chí Minh đọc nhiều, nhớ nhiều, giỏi chọn những mẩu tư tưởng của người
khác xưa nay và Đông - Tây rồi đem ra dùng đúng lúc, gây ấn tượng và đạt
hiệu quả tuyên truyền giáo dục. Qua tác phẩm này, ta thấy nội dung cốt lõi tư
tưởng của Người là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tư tưởng đó
đã trở thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Hoàng Chí Bảo (2013): “Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh” (Nxb Hà Nội).
Đây là tài liệu phổ thông, giới thiệu tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh nhằm
giúp bạn đọc nhận thức sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư
tưởng và đạo đức của Hồ Chí Minh, học tập và làm theo tấm gương đạo
đức của Người. Theo tác giả phân tích: Hồ Chí Minh là người tiên phong,
là tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng,
toàn dân noi theo. Tư tưởng và đạo đức của Người được biểu hiện ra thành
văn hóa, thành nghệ thuật trong xử lý công việc, giao tiếp và sinh hoạt
hàng ngày. Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh có sức lan tỏa và sự cảm hóa
mạnh mẽ, vượt qua thời gian và không gian để đi vào đời sống mọi kiếp
người. Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh được biểu hiện sinh động trong tư
duy và hành động cụ thể của con người. Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một
thời đại mới, một nền văn hóa mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, có
những đóng góp giá trị vào sự phát triển văn hóa của nhân loại.
Trần Viết Hoàn (2013): “Đạo đức Bác Hồ - tấm gương soi cho muôn
đời” (Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật). Theo tác giả, trong suốt quá trình hoạt
8
động cách mạng, Người luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và vai trò của đạo
đức trong đấu tranh cách mạng. Thấu hiểu đạo đức là nền tảng, là cái gốc của
người cách mạng nên suốt đời, Người kiên trì giáo dục phẩm chất đạo đức
cho cán bộ, đảng viên và toàn dân ta. Đối với bản thân, Người luôn thường
xuyên tự rèn luyện và là một tấm gương sáng, mẫu mực về đạo đức. Cuốn
sách này gồm nhiều bài viết có giá trị, ngắn gọn, mộc mạc, chân thực nhưng
hết sức sinh động về cuộc đời hoạt động cách mạng cũng như sinh hoạt đời
thường của Người. Sự chỉ bảo ân cần cùng những lời dạy thiết thực về đạo
đức cách mạng của Hồ Chí Minh là vũ khí để đấu tranh chống lại các hiện
tượng tha hóa về đạo đức trong đời sống xã hội. Bao năm tháng trôi qua,
những lời dạy của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng đến nay vẫn còn
nguyên giá trị và mang hơi thở của thời đại.
Mạnh Quang Thắng (2013): “Một số vấn đề về đạo đức Hồ Chí Minh”,
(Nxb Chính trị Quốc gia). Trong cuốn sách này, tác giả trình bày các vấn đề
như: đạo đức - gốc của cây, nguồn của sông, cái căn bản của con người; thông
điệp đạo đức Hồ Chí Minh (lòng nhân ái, trung với nước, hiếu với dân, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đạo đức cách mạng còn phải thấm nhuần
tinh thần quốc tế). Tác giả cho rằng, đạo đức của Người là đạo đức mới,
khác đạo đức cũ, Hồ Chí Minh so sánh đạo đức cũ như là con người đầu
chạm xuống đất hai chân chổng lên trời. Đạo đức cách mạng, theo Hồ Chí
Minh, là cái gốc của sự phát triển. Triết lý này toát lên trong các bài nói, bài
viết của Người, nhất là trong cuộc sống thường nhật của Người. Hình như
đó là cái triết lý sống, triết lý phát triển mà Hồ Chí Minh đưa ra cho mọi
người, mọi dân tộc, mọi cộng đồng dân cư và cho mọi thời đại. Đạo đức ở
đây là thành tố ý thức đạo đức, hành vi đạo đức, quan hệ đạo đức, hệ thống
thiết chế truyền bá và giáo dục đạo đức. Hồ Chí Minh nói hoặc viết nhiều về
đạo đức. Khi cho đạo đức là cái gốc của cây, cái ngọn nguồn của con sông,
9
cái căn bản của người cách mạng, Hồ Chí Minh đã trở thành một trong
những người đi tiên phong của cuộc cách mạng về đạo đức.
Ban Tuyên giáo Trung ương (2014) : “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm; gắn bó với nhân dân; đoàn
kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” (Nxb Chính trị quốc gia). Thực
hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị (khóa XI) về
tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong cả nước đã đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Theo các tác giả phân tích
trong tác phẩm này, xuất phát từ tình hình, nhiệm vụ sắp tới, toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh về phẩm chất trung thực, trách nhiệm ; yêu cầu mọi cán bộ, đảng
viên, tổ chức Đảng, cơ quan công quyền gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, chuẩn bị và tổ chức tốt đại hội đảng các
cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, tiếp tục thực
hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân
dân”. Tác phẩm này cho ta thấy: Hồ Chí Minh là người thành lập, rèn luyện
và là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, Hồ Chí Minh luôn luôn gương mẫu,
trung thực, trách nhiệm, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt đảng, thực hiện kỷ luật của Đảng nghiêm minh và tự giác. Người rất
quan tâm việc mở rộng và thực hành dân chủ trong Đảng. Người đã gương
mẫu thực hiện dân chủ đầy đủ và tích cực nhất trong sinh hoạt đảng. Người
xác định rõ trách nhiệm cá nhân, nêu cao tinh thần "phụ trách" trước Đảng,
trước dân tộc và nhân dân.
Vũ Khiêu (2015): “Học tập đạo đức Bác Hồ” (Nxb Chính trị Quốc gia).
Tác gải phân tích trong tác phẩm này gồm ba chương: tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh; nội dung cơ bản của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh; những vấn đề
10
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong sự nghiệp của
nhân dân ta ngày nay. Tác giả đã luận giải một cách độc đáo về tư tưởng, tình
cảm, đạo đức, phong cách của Người một cách ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu,
vừa giản dị và sâu sắc. Tác giả đã kết hợp được phong cách nghị luận với lối
kể chuyện hóm hỉnh cùng những lập luận sắc bén đan xen các mẩu chuyện hết
sức chân thực, sinh động, để người đọc tự suy ngẫm, từ đó rút ra những bài
học bổ ích cho mình. Tác giả đã dẫn dắt người đọc tìm hiểu về tư tưởng, tình
cảm, đạo đức và phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đời hoạt động
cách mạng, về những tình cảm gia đình, tình bạn, tình đồng chí và tinh thần
quốc tế vô sản của Người. Phần cuối, tác giả đã tập trung làm rõ những yêu
cầu mới về đạo đức và lối sống trong giai đoạn mới của cách mạng; mối liên
hệ giữa đạo đức và kinh tế; sự cần thiết phải học tập và làm theo tấm gương
đạo đức của Người. Tác phẩm này đã góp phần nâng cao nhận thức của cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân về giá trị to lớn của tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, tạo ra những chuyển biến trong ý thức tu
dưỡng, rèn luyện và hành động theo tấm gương đạo đức của Người.
Bùi Đình Phong (2016): “Hồ Chí Minh đạo đức là gốc của người cách
mạng” (Nxb Dân trí). Tác phẩm này là sự tập hợp các bài viết về tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và về cuộc vận động học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo chỉ thị 06 của Bộ Chính trị (khóa X).
Các bài viết đề cập đến quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự đạo đức
của người cách mạng. Theo ý phân tích của các tác giả, khi bước chân vào
con đường hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh quan tâm hàng đầu tới việc
giáo dục đạo đức cho mọi người Việt Nam yêu nước. Bởi vì cách mạng và
người cách mạng cần đạo đức, rất cần đạo đức. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng:
"cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Đặc biệt hơn người làm cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo
11
được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là
một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình
đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?". Hơn thế nữa, theo Hồ Chí Minh, tư
cách của người cách mạng là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp các thế hệ người
Việt vững tin đi vào con đường cách mạng và đưa sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản đến thắng lợi cuối cùng; đạo
đức cách mạng là gốc, là nền tảng cơ bản của người làm cách mạng.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức báo chí
Tạ Ngọc Tấn (1995):“Hồ Chí Minh về vấn đề báo chí” (Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội). Theo tác giả phân tích, người làm báo phải có bản lĩnh
chính trị. Tác giả dẫn lời Hồ Chí Minh: “Báo chí của ta thì cần phải phục vụ
nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thực sự
thống nhất nước nhà, cho hòa bình thế giới. Chính vì thế, cho nên tất cả những
người làm báo (người viết, người in, người sửa bài, người phát hành)phải có
lập trường chính trị vững chắc, chính trị phải làm chủ, đường lối chính trị đúng
thì cái khác mới đúng được”. Thông qua tác phẩm này, tác giả đã nêu bật quan
điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề báo chí. Trong đó: nhà báo phải biết
biểu dương cái tốt, cái mới tiến bộ và tích cực đấu tranh chống cái xấu, cái sai,
cái lạc hậu, nhưng phê bình phải đúng đắn, phê bình thì phải phê bình một cách
thật thà, chân thành, đúng đắn chứ không phải để địch lợi dụng để nó phản
tuyên truyền. Đối với địch cần nêu lên những cái xấu của nó để bộ đội ta, đồng
bào ta biết. Để người làm báo ngày càng được nâng cao về trình độ chuyên
môn, để các tác phẩm báo chí khi đến tay bạn đọc ngày càng có hiệu ứng tích
cực đối với xã hội, thì những người làm báo phải làm tốt công tác định hướng
dư luận và trở thành diễn đàn tin cậy của quần chúng nhân dân.
Hội Nhà báo Việt Nam (2008): “Người làm báo Việt Nam học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” (Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia).
Với nhiều góc độ tiếp cận, nhiều cách thể hiện, các tác giả đều chung một tấm
12
lòng trân trọng tôn vinh, học tập và làm theo tấm gương đạo đức cách mạng,
đạo đức nghề báo, phong cách làm báo của Bác. Hội thảo đã nêu ba vấn đề đó
là: Một là, tại sao người làm báo cần phải học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Hai là, người làm báo Việt Nam học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh như thế nào. Ba là, người làm báo
Việt Nam học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh như thế nào
để thiết thực và có hiệu quả. Tổng kết Hội thảo, đồng chí Đinh Thế Huynh
khẳng định, có sự thống nhất cao của báo giới cả nước trong việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, điều đó thể hiện qua việc tổ chức
học tập từ cơ sở và những việc làm thiết thực hằng ngày. Tuy nhiên, “học tập”
và “làm theo” như thế nào để thiết thực và có hiệu quả, đó là vấn đề không
phải dễ dàng. Đồng chí Đinh Thế Huynh cũng khẳng định: “Để việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mang lại hiệu quả thiết thực,
những người làm báo chúng ta cần trước hết phải học tập thái độ, phương
pháp học tập một cách thiết thực của Người, tránh những biểu hiện hình thức,
rập khuôn, máy móc, bệnh thành tích”, “cần phải có sự kết hợp giữa tinh thần,
thái độ tự giác của từng người làm báo với sự kiểm tra, đánh giá nghiêm túc
của các tổ chức hội, các cơ quan báo chí”.
Hoàng Đình Cúc, Chu Đức Tính, Dương Xuân Ngọc (2010): “Di sản
của Hồ Chí Minh với sự nghiệp đào tạo cán bộ lý luận chính trị và truyền
thông trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế” (Hội thảo khoa học quốc
gia). Các tác giả phân tích khái niệm về di sản Hồ Chí Minh, những yêu tố
cấu thành, các loại di sản đang được lưu giữ, những di sản mới được phát
hiện, vai trò của các di sản đó, các nội dung cơ bản của di sản Người về đào
tạo cán bộ lý luận chính trị và truyền thông, thực trạng việc vận dụng những
di sản này, những định hướng và những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả
việc vận dụng di sản đó trong đào tạo cán bộ lý luận chính trị và truyền thông
hiện nay. Theo các tác giả, nhờ học tập, tiếp thu, khai thác và vận dụng di sản
13
đó, Đảng ta đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ lý luận chính trị và truyền
thông ngày càng lớn mạnh. Trong những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân ta
giành được (trong sự nghiệp cách mạng của đất nước, từ Cách mạng tháng
Tám đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công cuộc đổi mới đất
nước trong những năm qua), có đóng góp to lớn của những chiến sĩ ưu tú trên
mặt trận tư tưởng – văn hóa của Đảng.
Lê Văn Yên, Vũ Thị Thu Hương (2010): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo
chí, xuất bản” (Nxb Chính trị Quốc gia). Cuốn sách trình bày một cách sâu
sắc quan niệm và những đánh giá của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ, đặc trưng... của báo chí, xuất bản và về những phẩm chất của
người làm báo. Ngày nay, trong xã hội hiện đại, báo chí, xuất bản đang ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình truyền tải thông tin, là một
“kênh” quan trọng thực hiện nhiệm vụ đưa chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Nhận thức sâu sắc về
vị trí, vai trò, tầm quan trọng và những đóng góp to lớn của báo chí, xuất bản
trong sự nghiệp kháng chiến, giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc
xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh vĩ đại đã có nhiều bài nói, bài viết quan
trọng khẳng định vai trò tiên phong chiến đấu của báo chí, xuất bản. Trong
công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng của Người về vấn đề này vẫn
còn nguyên giá trị, là bài học quý báu đóng góp vào quá trình phát triển của
ngành báo chí, xuất bản nói riêng và của đất nước nói chung.
Nhiều tác giả (2012): “Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh” (Nxb Thời đại). Theo các tác giả, Hồ Chí Minh là người
sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam; Người quan niệm đạo đức là
nền tảng và sức mạnh của người cách mạng, coi đó là gốc của cây, ngọn
nguồn của suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
14
không lãnh đạo được nhân dân”. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
và Nhà nước ta luôn đặt ra yêu cầu về xây dựng đạo đức cách mạng cho cán
bộ, đảng viên ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp đổi mới. Nội dung cuốn
sách gồm có 6 phần: Phần thứ nhất: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng. Phần thứ hai: Bồi dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, Đảng
viên trong tình hình mới. Phần thứ ba: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay. Phần thứ
tư: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng viên và phát triển Đảng viên. Phần thứ
năm: Những tấm gương tiêu biểu trong “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”. Phần thứ sáu: Hướng dẫn thực hiện một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng, chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020. Tác phẩm
này giúp cho cán bộ làm công tác Đảng tìm hiểu về tư tưởng, chủ trương,
đường lối của Đảng về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng; tu
dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng cho Đảng viên hiện nay và đời sau.
Hà Minh Huệ (2013): “Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng
Việt Nam” (Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số tháng 8). Theo tác giả: cuộc đời
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh đã để lại một hệ tư tưởng, tổng hòa
các quan điểm về cách mạng, về thời đại, về các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó có tư tưởng về báo chí cách mạng Việt Nam. Người không chỉ để lại
một sự nghiệp báo chí đồ sộ, mà còn để lại một nền báo chí cách mạng Việt
Nam. Tư tưởng của Hồ Chí Minh là: cái gì lợi cho dân thì hết sức làm, cái gì
hại cho dân thì hết sức tránh. Với báo chí cách mạng, Người đặt rõ mục đích
hoạt động là vì nước, vì dân. Người nhắc nhở những người làm báo: không
biết rõ, hiểu rõ, chớ nói, chớ viết, khi không có gì cần nói, không có gì cần
viết, chớ nói, chớ viết càn.
Đỗ Chí Nghĩa (2014): “Nhà báo và sáng tạo báo chí trong tư tưởng Hồ Chí
Minh” (Nxb Thông tin và Truyền thông). Theo phân tích của tác giả: tư tưởng
Hồ Chí Minh về báo chí là một nội dung quan trọng, một thành tố không thể
15
- Xem thêm -