Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Tư tưởng hồ chí minh về đoàn kết quốc tế và việc vận dụng trong quan hệ đối ngoạ...

Tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về đoàn kết quốc tế và việc vận dụng trong quan hệ đối ngoại của việt nam hiện nay

.PDF
51
67
109

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Chuẩn bị kết thúc 4 năm được học tập và làm sinh viên với bao niềm vui, nỗi buồn.Để hoàn thành được báo cáo thực tập này, em xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo Khoa Quan Hệ Quốc Tế - trường Đại học dân lập Đông Đô cùng các thầy, cô giáo Viện Quan Hệ Quốc Tế,Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện tốt nhất, tận tình truyền thụ kiến thức về chuyên nghành Quan Hệ Quốc Tế và hướng dẫn em hoàn thành được báo cáo thực tập tốt nghiệp này. Mặc dù nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo và bạn bè xong do kiến thức có hạn,đây là lần đầu tiên em được hướng dẫn nghiên cứu một đề tài khoa học xã hội nên khó tránh khỏi những hạn chế vướng mắc. Em kính mong các thầy, cô xem xét và tạo điều kiện cho em được hoàn thành nhiệm vụ học tập Em xin trân trọng cảm ơn ! Hà nội, ngày 10 tháng 04 năm 2010 Sinh viên . LỜI MỞ ĐẦU 1- Lý do chọn đề tài Thực tiễn ngày càng chứng minh, cùng với chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị to lớn, dẫn đường cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 77 năm qua. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) khẳng định: " Đảng lấy chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng". Các đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X của Đảng chỉ rõ: " tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê Nin và tạo điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của dân tộc". trong đó tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết toàn quốc có vị trí đặc biệt quan trọng. Hiện nay, trong bối cảnh quốc tế biến đổi nhanh chóng và xu thế toàn cầu hóa đang gia tăng, nhất là lĩnh vực kinh tế, không một quốc gia nào có thể phát triển mà lại không mở rộng quan hệ, đoàn kết, hợp tác với các nước khác. Nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để phát triển và nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, một trong những vấn đề quan trọng là phải mở rộng đoàn kết hợp tác theo tinh thần " Việt Nam sẵn sàng làm bạn là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế". Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc trế có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc đổi mới của Đảng và nhà nước ta. Chính vì vậy em lựa chọn đề tài : " Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế và việc vận dụng trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam hiện nay" làm chủ đề của báo cáo thực tập tốt nghiệp năm học 2009 - 2010. 2- Mục đích nghiên cứu Đề tài bước đầu khái quát lại những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, làm nổi bật những quan điểm chiến lược về đoàn kết quốc tế của chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như quá trình vận dụng tư tưởng đó trong quan hệ đối ngoại của Đảng và nhà nước ta từ khi đổi mới đến nay. Từ đò phục vụ cho việc triển khai và thực hiện thắng lợi chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn mới. 3- Phương pháp nghiên cứu Ở mức độ bước đầu của sinh viên nghiên cứu khoa học xã hội, em sử dụng phương pháp tổng hợp tài liệu, nghiên cứu theo phương pháp lịch sử là chính dựa trên nền tảng quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam. 4- Ý nghĩa và lý luận thực tiễn của báo cáo Đề bài bước đầu khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh Kết quả nghiên cứu của báo cáo thực tập sẽ là tài liệu tham khảo cho sinh viên Khoa Quan Hệ Quốc Tế và một số khoa khác có nội dung học tập liên quan ở trường ĐH dân lập Đông Đô - Hà Nội. 5- Kết cấu của đề tài - Chương I: cơ sở hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế và những hoạt động đoàn kết quốc tế trong thực tiễn của Hồ Chí Minh. - Chương II: Một số vận dụng cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. - Chương III : Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam hiện nay. CHƯƠNG I CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ TRONG THỰC TIỄN CỦA HỒ CHÍ MINH 1.1. Những nhân tố hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. 1.1.1. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Ý thức quốc gia, dân tộc, làm chủ đất nước của cộng đồng người Việt có từ ngàn xưa. Cuộc chiến đấu với thiên nhiên, với giặc ngoại xâm trong lịch sử ngàn năm đã hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam: Yêu nước nồng nàn, độc lập tự chủ, kiên cường bất khuất, đoàn kết thống nhất, nhân ái khoan dung. Trước hết, là chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt qúa trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Những nội dung chủ yếu của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã từng bước được đúc kết, hình thành một hệ thống các nguyên lý với tư tưởng của các anh hùng hào kiệt như: Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung… chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Đó cũng là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành động của Người trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi theo Lênin, tin theo quốc tế thứ III. Truyền thống yêu nước của dân tộc được Nguyễn Tất Thành tiếp thu từ những ngày ở quê hương và trên con đường bôn ba khắp năm châu bốn bể. Người đã đến với những người lao động trên thế giới, đến với tình hữu ái vô sản và đến với chủ nghĩa MácLênin, đó là con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Thứ hai, đó là tinh thần đoàn kết, tương ái của dân tộc. Truyền thống này hình thành cùng một lúc với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và yêu cầu đấu tranh chống thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm. Người Việt Nam quen gắn bó với nhau trong tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau. Bước sang thế kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự phân hóa về giai cấp, truyền thống này vẫn bền vững. Vì vậy Hồ Chí Minh đã chú ý kế thừa và phát huy sức mạnh truyền thống đoàn kết của dân tộc để hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế, phấn đấu vì một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển. Thứ ba, ngoại giao truyền thống Việt Nam cuãng là một nhân tố quan trọng hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Ngoại giao truyền thống Việt Nam xem trọng việc giữ hòa khí, đoàn kết hữu nghị với các nước, phấn đấu cho sự thái hòa, yêu chuộng hòa bình là bản chất của ngoại giao Việt Nam. Trong khi lập trường nguyên tắc giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự xâm lược của các ngoại bang, Đại Việt luôn kiên trì đường lối hòa bình trong quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng. Hòa hiếu là tư tưởng cốt lõi của ngoại giao Đại Việt đúng như nhà sử học Phan Huy Chú đã đúc kết lịch sử ngoại bang của đất nước chúng ta: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với láng giếng là việc lớn”. 1.1.2. Chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản Sau nhiều năm bôn ba ở các nước, cuối năm 1917 Nguyễn Ái Quốc trở lại nước Pháp, tham gia phong trào công nhân Pháp và gia nhập Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc muốn nhanh chóng tìm ra con đường cứu nước đúng đắn và tìm lực lượng đoàn kết tin cậy. Điều quan trọng hơn hết của Nguyễn Ái Quốc là “sự đoàn kết”, “đoàn kết với các dân tộc thuộc địa”. Hầu hết trong các buổi mít tinh, thảo luận, Nguyễn Ái Quốc đều phát hiện và khéo lái những vấn đề đang thảo luận sang vấn đề đoàn kết với các vấn đề thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đã từng nói: Trong các cuộc bàn cãi, người ta rất ít nói đến sự đoàn kết với các dân tộc thuộc địa, nhưng đó lại là vấn đề mà tôi quan tâm hơn hết. Sau khi được biết Quốc tế thứ III do Lênin sáng lập có chủ trương đoàn kết các dân tộc thuộc địa và nhất là được đọc “Bản sơ thảo lấn thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, lần dầu tiên Nguyễn Ái Quốc biết có một tổ chức quốc tế ủng hộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc bị áp bức. Luận cương của Lênin đã giải quyết trọn vẹn một vấn đề rất cơ bản mà Nguyễn Ái Quốc đặc biệt quan tâm là vấn đề dân tộc và thuộc địa đặt ra trong mối quan hệ quốc tế, chỉ ra con đường giải phóng các dân tộc thuộc địa. Luận cương tạo ra một bước chuyển biến căn bản trong nhận thức tư tưởng về vấn đề đồng minh về xác định kẻ thù. Luận cương là lời giải đáp hợp lý nhất, đúng đắn nhất mà Nguyễn Ái Quốc tìm thấy được về con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc, đó là “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con đường cách mạng vô sản, gắn chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua (tháng 12/1920) Nguyễn Ái Quốc bỏ qua phiếu tán thành Đảng ra nhập Quốc tế III, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Bằng việc làm đó, Nguyễn Ái Quốc đã nêu cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế. Từ đoàn kết các dân tộc thuộc địa, mở thành đoàn kết với giai cấp vô sản chính quốc và giai cấp vô sản thế giới. Nguyễn Ái Quốc viết những bài tham luận, phát biểu trong các kỳ sinh hoạt đảng và các cuộc họp của các tổ chức xã hội khác, tham gia lãnh đạo Ban Nghiên cứu về thuộc địa, ra báo Người cùng khổ…. Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, tranh thủ sự ủng hộ của dư luận tiến bộ Pháp và thế giới, hình thành mặt trận đoàn kết quốc tế đối với sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức. Những việc làm đó đã “Đánh dấu một bước chuyển biến quyết định trong nhận thức tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu sâu sắc và sáng tạo những hẩu hiệu chiến lược của chủ nghĩa Mác - Lênin, “Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại”, “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại”. Nguyễn Ái Quốc đã gọi Lênin là hiện thân của tình anh em bốn bể”. Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: “Lao động tất cả các nước đoàn kết lại” (1) và người khẳng định, chính Lênin và Quốc tế Cộng sản đã chỉ ra cho dân tộc và giai cấp vô sản thế gới sự cần thiết và con đường tập hợp đoàn kết các lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và thế giới vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Hồ Chí Minh tiếp thu và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin trên tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, trên cơ sở đó Người xây dựng và phát triển tư tưởng đoàn kết quốc tế của mình. Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản là nhân tố quan trọng có ý nghĩa định hình rõ rệt tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Trải qua gần 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản, từ một nhà yêu nước trở thành một chiến sĩ quốc tế chân chính. 1.2. Đoàn kết quốc tế trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh 1.2.1. Hoạt động đoàn kết của Hồ Chí Minh trên đất Pháp Những năm tháng sống ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc không chỉ dừng lại ở việc quan sát mà còn thực sự đi vào hoạt động. Tham gia các hoạt động chính trị, văn hóa, khoa học, nghệ thuật. Qua đó tiếp xúc và quen biết rất nhiều nhà hoạt động nổi tiếng trong phong trào công nhân và công đoàn Pháp. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, được hỏi về quyết định này, Nguyễn Ái Quốc trả lời duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức tôi luôn theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái” (2). Đối với Nguyễn Ái Quốc, việc vào Đảng Xã hội Pháp đã mở đầu cho hoạt động đoàn kết quốc tế. Tháng 1/1919, Hội nghị “Hòa bình” ở Vécxây, Nguyễn Ái Quốc theo dõi diễn biến của hội nghị, đồng thời liên lạc, trao đổi ý kiến và thống nhất hành động với các đoàn đại biểu Trung Quốc, Triều Tiên, Aixơlen… Tháng 6/1919 Nguyễn Ái Quốc thay mặt “Hội những người Việt Nam yêu nước” gửi “Bản yêu sách” của người dân An Nam gồm 3 điểm đến Hội nghị đòi hỏi tự do, dân chủ cho người dân Việt Nam. Đầu năm 1921 đến tháng 6/1923 Nguyễn Ái Quốc tiếp tục sống ở Pháp hoạt động rất sôi nổi, đa dạng và sáng tạo trên cả 2 bình diện lý luận và thực tiễn. Người đã lên án mạnh mẽ chủ nghĩa thực dân (CNTD) kết tội CNTD là kẻ “ăn cướp”, “giết người” cướp bóc tài sản, ruộng đất sức lao động ở các nước thuộc địa một cách tinh vi và xảo quyệt. Qua đó, nhân dân các nước thuộc địa và chính quốc nhận rõ hơn bộ mặt thật của CNTD đặc biệt làm cho giai cấp vô sản chính quốc hiểu rõ hơn về thuộc địa thấy sự cần thiết phải đoàn kết lại với nhau và đoàn kết với giai cấp vô sản chính quốc trong cuộc đấu tranh chống CNTD, giải phóng dân tộc. Sinh hoạt trong Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy trách nhiệm là góp phần vào việc Bônxêvich hóa Đảng, nhất là vấn đề dân tộc và thuộc địa. Tháng 6/1921 theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp thành lập “Ban nghiên cứu thuộc địa”. Trong “Ban nghiên cứu thuộc địa” về Đông Dương, Người đã có rất nhiều đóng góp cho tình đoàn kết giữa giai cấp vô sản các nước với dân tộc thuộc địa bị áp bức. Được sự đồng tình và ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc tiến hành vận động, trao đổi với những người Angiêri, Tuynidi, Marốc… Ngày 26/6/1921, Nguyễn Ái Quốc cùng họ họp bàn thành lập “Hội liên hiệp thuộc địa”, Nguyễn Ái Quốc đã soạn thảo Điều lệ, Tuyên ngôn của Hội, trong Điều lệ ghi rõ mục đích của Hội là tuyên truyền, giáo dục, tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa, Hội kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa sống trên đất Pháp phải đoàn kết giúp đỡ nhau. Trong Tuyên ngôn của Hội đã đề cấp đến mối quan hệ, giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa “Hỡi các bạn bị áp bức ở chính quốc, giai cấp tư sản trong nước các bạn đã lừa dối các bạn, dùng các bạn làm công cụ đi xâm lược chúng tôi. Ngày nay, vẫn cái chính sách quỷ quyệt ấy, giai cấp tư sản các bạn lại định dùng chúng tôi để đàn áp mọi cố gắng tự giải phóng của các bạn. Đứng trước chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của chúng ta là thống nhất” (3). Theo Tuyên ngôn và Điều lệ của Hội thì: "Hội liên hiệp thuộc địa” là một tổ chức đoàn kết mặt trận đầu tiên của dân tộc thuộc địa liên minh với giai cấp vô sản chính quốc cùng đấu tranh và tổ chức. Hoạt động tiêu biểu của Hội là cho ra đời tờ báo Le Paria do Nguyễn Ái Quốc là Người sáng lập, chủ biên kiêm chủ bút, tờ báo vừa ngang nhiên tấn công kẻ thù ngay tại hang ổ của nó, vừa tỏa rộng sức mạnh cổ vũ, đoàn kết các dân tộc thuộc địa, đoàn kết với giai cấp vô sản chính quốc tiến theo con đường cách mạng vô sản. Tháng 12/1921 tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Mácxây, trong bản tham luận lên án CNTD Người kết luận “Chỉ có trong chủ nghĩa cộng sản người ta mới thấy tình hữu ái mới thực sự là quyền bình đẳng, và chỉ có nó chúng ta mới có thể thực hiện sự hòa hợp và hạnh phúc ở chính quốc và các nước thuộc địa” (4). Trong bài “Mấy suy nghĩ về vấn đề thuộc địa” đăng trên báo L' Humanité ngày 25/5/1922, Nguyễn Ái Quốc yêu cầu Đảng cần thực hiện lời chỉ dẫn quan trọng của Lênin: Nhiệm vụ của giai cấp công nhân các nước đi chiếm thuộc địa là phải giúp đỡ một cách tích cực nhất phong trào giải phóng ở các nước thuộc địa, phải tăng cường đoàn kết để phá tan thủ đoạn chia rẽ của tư bản, đế quốc. Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu soạn thảo nhiều văn bản quan trọng như: Lời kêu gọi, Truyền đơn của Đảng gửi đến thuộc địa. Trong “Truyền đơn” Nguyễn Ái Quốc kêu gọi: Vì nền hòa bình thế giới, vì tự do, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống áp bức . Có thể nói, hoạt động tích cực và đa dạng của Nguyễn Ái Quốc trên đất Pháp có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn. Đó là thời kỳ đầu quan trọng tạo nên sự đoàn kết nhất trí trong nhận thức cũng như trong hành động đối với giai cấp vo sản ở chính quốc và nhân dân bị áp bức ở các nước thuộc địa. Đó cũng chính là bước khởi đầu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. 1.2.2. Hoạt động đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh trong quốc tế cộng sản Sau gần 10 năm đi khắp các nước trên thế giới, quan sát và đắm mình trong hoạt động thực tiễn đời sống và cuộc sống đấu tranh của nhân dân lao động các nước thuộc địa, các nước tư bản đế quốc. Tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Cộng sản Pháp họp tại Tua (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Bằng việc làm đó Người đã nêu cao ngọn cờ đoàn kết quốc tế, từ đoàn kết các dân tộc thuộc địa mở rộng thành đoàn kết với giai cấp vô sản ở chính quốc và giai cấp vô sản thế giới. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một chiến sĩ quốc tế, Người đặt nền móng cho tình đoàn kết giữa cách mạng Việt Nam, cách mạng Pháp và cách mạng thế giới, tích cực tham gia hoạt động và có nhiều đóng góp quan trọng đối với tổ chức này. Từ năm 1921 đến 1923, hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp - một bộ phận trong Quốc tế Cộng sản - Nguyễn Ái Quốc say mê nghiên cứu lý luận của Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản, đặc biệt là vấn đề dân tộc và thuộc địa. Những hoạt động của Người trên đất Pháp là những đóng góp cho Quốc tế Cộng sản. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc đã viết nhiều bài đề cập trên bình diện quốc tế rộng lớn hơn gửi cho các báo cánh tả ở Pháp, báo Pravda của Đảng Cộng sản Liên Xô, các tập san của Quốc tế Cộng sản nhằm tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin trong các nước thuộc địa, cung cấp cho Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản chính quốc hiểu rõ hơn về “Phương Đông thức tỉnh” từ đó có sự hiểu biết nhau, xây dựng mối quan hệ giữa các dân tộc thuộc địa và giai cấp vô sản phương Tây. Trong một bức thư gửi cho Pêtơrốp - Tổng thư ký ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản ngày 24/5/1924, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ “Nguyên nhân gây ra sự suy yếu của các dân tộc Phương Đông đó là sự biệt lập”… Họ hoàn toàn không biết đến những việc xảy ra ở nước láng giềng gần gũi nhất của họ. Do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau”. Từ đó Người kiến nghị với Quốc tế Cộng sản trong khi chỉ đạo chiến lược, cần chú ý đến tính đặc thù của các dân tộc Phương Đông, phải cử cán bộ hiểu tình hình thuộc địa đến các nước gây dựng phong trào, cử nhiều cán bộ cách mạng người thuộc địa đến học tại trường Đại học Phương Đông. Tại Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản ngày 17/6/1924 Nguyễn Ái Quốc đã trình bày bản tham luận làm sôi nổi Đại hội, Người nhấn mạnh: “Thuộc địa vẫn đang tồn tại, và nêu lên để quốc tế thấy rằng: Cách mạng ngoài vấn đề tương lai của các thuộc địa còn cả nguy cơ của các thuộc địa. Song, tôi thấy hình như các đồng chí vẫn chưa hoàn toàn thấm nhuần tư tưởng rằng, vận mệnh của giai cấp vô sản các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh giai cấp vô sản cấp bị áp bức ở các nước thuộc địa”. Cũng tại Đại hội, Nguyễn Ái Quốc cũng đã phê bình một số đảng cộng sản châu Âu chưa quan tâm đến vấn đề thuộc địa,đồng thời đề nghị Quốc tế Cộng sản chỉ đạo các đảng cộng sản nhận được vấn đề mang tính thời đại: Vấn đề dân tộc, vấn đề thuộc địa không tách rời nhau. Sau đại hội lần V của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc còn tham dự Đại hội III Quốc tế Công đoàn, đại hội I Quốc tế Cứu tế đỏ, Đại hội IX Quốc tế Thanh niên, Hội nghị Quốc tế phụ nữ… Trên các diễn đàn, Người đều nêu cao và bảo vệ quan điểm của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, kêu gọi sự quan tâm đoàn kết của các tổ chức quốc tế đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc của các dân tộc thuộc địa. Đặc biệt tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản năm 1925 đã lên án mạnh mẽ CNTD, thức tỉnh giai cấp vô sản ở chính quốc, thức tỉnh các dân tộc thuộc địa, tạo nên sự quan tâm đoàn kết giữa phong trào cách mạng phương Đông và phương Tây. Trong tác phẩm Nguyễn Ái Quốc viết “làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản” . Công tác tại Quốc tế Cộng sản, trên đất nước Liên Xô một thời gian ngắn, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục đấu tranh và bảo vệ, phát triển những nguyên tắc cách mạng, góp phần xây dựng lập trường giai cấp vô sản cấp đúng đắn cho các đảng cộng sản và các chiến sĩ cách mạng về vấn đề dân tộc thuộc địa, nhằm xây dựng mối quan hệ Đoàn kết quốc tế giữa cách mạng phương Đông với Quốc tế Cộng sản và phong trào cách mạng thế giới. Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu - Trung Quốc, ở đây Nguyễn Ái Quốc tranh thủ tìm hiểu qua tài liệu và tìm hiểu tình hình các nước phương Đông, tìm hiểu nguyên nhân các nước này gặp khó khăn trong việc tổ chức xây dựng lực lượng của bản thân, trong việc đoàn kết quốc tế là do sự ít hiểu biết về vấn đề chính trị, sự đóng kín trong quan hệ quốc tế (QHQT)… Trong thời gian này, từ những kinh nghiệm tổ chức Hội liên hiệp thuộc địa ở Pháp trước đây, Nguyễn Ái Quốc tiến hành vận động Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức để tăng cường các dân tộc bị áp bức ở châu Á. Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 9/7/1925 tại Quảng Châu, Đại hội thành lập Hội được tổ chức. Đây là tổ chức quốc tế của những người yêu nước Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Miến Điện, Triều Tiên, Indonesia… Đại hội thông qua tôn chỉ của Hội và nêu rõ: “Liên lạc với các dân tộc bị áp bức cùng làm cách mạng đánh đổ đế quốc”. Tuyên ngôn của Hội nhấn mạnh: “Con đường thoát duy nhất để xóa bỏ sự áp bức chỉ có thể là liên hiệp các dân tộc nhỏ yếu bị áp bức và giai cấp vô sản toàn thế giới” . Việc thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức là sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc góp phần đoàn kết các dân tộc bị áp bức ở châu Á nhằm đấu tranh chống CNĐQ. Đến đây cho thấy, tư tưởng đoàn kết các dân tộc thuộc địa thành mặt trận là nhất quán trong đường lối chiến lược của Nguyễn Ái Quốc. Hoạt động rất quan trọng của Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu là những hoạt động thực tiễn góp phần nhất định vào phong trào cách mạng Trung Quốc và các nước thuộc địa phương Đông. Với tư cách là hội viên Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức, Người sát cánh cùng giai cấp công nhân Trung Quốc tích cực tuyên truyền cổ động cho phong trào. Nhiều lần Người đến khu công nghiệp diễn thuyết về mối quan hệ giữa công nhân Trung Quốc với các dân tộc bị áp bức và sự cần thiết phải liên hiệp lại để đánh đổ CNĐQ. Tháng 1/1926, tại Đại hội toàn quốc lần thứ II của Quốc dân Đảng Cộng sản Trung Hoa, Nguyễn Ái Quốc với bút danh Vương Đạt Nhân đã phát biểu, trong đó Người kêu gọi “Chúng ta nên biết rằng, nhiều nước trên thế giới như: Ai Cập, Marốc, Xiri, An Nam, Trung Quốc… Dân tộc của họ còn bị áp bức. Vì vậy, chúng ta liên hiệp lại, thống nhất chống lại bọn Đế quốc” . Có thể nói, dấu chân của Nguyễn Ái Quốc đặt chân đến hầu hết các nước châu Á, Người coi sự nghiệp giải phóng của các dân tộc châu Á như chính sự nghiệp của dân tộc Việt Nam. Hoạt động ở châu Á, Nguyễn Ái Quốc góp phần tích cực vào việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ, xây dựng phong trào cách mạng và sự liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở châu Á. Người được nhân dân châu Á tôn vinh là “Lãnh tụ vĩ đại” . 1.2.3. Hoạt động đoàn kết quốc tế cho việc thành lập Đảng và thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Những năm tháng hoạt động ở châu Á, ngoài nhiệm vụ quốc tế Nguyễn Ái Quốc còn có nhiệm vụ là chuẩn bị về tổ chức và tiếp tục chuẩn bị về tư tưởng, chính trị cho việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Việt Nam để đưa phong trào cách mạng Việt Nam thành phong trào cách mạng thế giới. Việc thành lập “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên” , mở đường huấn luyện chính trị, ra báo Thanh Niên, xuất bản tác phẩm Đường cách mệnh là bước chuẩn bị chu đáo về tư tưởng, chính trị và tổ chức, là việc sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, làm cho cách mạng Việt Nam hòa nhập cùng cách mạng thế giới. Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc qua tin của Ban Phương Đông, Quốc tế Cộng sản được biết tình hình không thống nhất giữa các tổ chức cách mạng của Việt Nam, nên Quốc tế Cộng sản gửi thư cho các tổ chức cộng sản và yêu cầu: “Nhiệm vụ quan trọng hơn hết và tuyệt đối cần thiết của tất cả những người cộng sản Đông Dương là sáng lập một Đảng cách mạng của giai cấp vô sản” . Vào thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm và biết được tình hình trên, Người lập tức đến Hồng Kông. Với tư cách đại diện Quốc tế Cộng sản, Người triệu tập Hội nghị Đại biểu các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930 ở Cửu Long - Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Các văn kiện do Người soạn thảo đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng thấm đượm sâu sắc quan điểm dân tộc và giai cấp, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH. Chứng tỏ rằng Nguyễn Ái Quốc nắm vững khoa học cách mạng của thời đại trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn Việt Nam, ở mức độ nhất định, còn phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng các nước thuộc địa. Nó có ý nghĩa quốc tế lớn lao và đóng góp quan trọng đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Từ giữa năm 1940, Nguyễn Ái Quốc triển khai những hoạt động quốc tế dồn dập nhằm tranh thủ mọi lực lượng có thể có thể đoàn kết, tạo hậu thuẫn cho cách mạng Việt Nam. Người cử Trần Văn Hinh đi Diên An để thiết lập quan hệ quốc tế, đón nhận thông tin mới về Quốc tế Cộng sản gửi về, thực hiện một bản hiệp ước có tính chất hợp tác đầu tiên giữa hai Đảng Cộng sản trong chiến tranh, trong đó xác nhận: “Lập mặt trận thống nhất nhân dân Trung - Việt chống Nhật” . Cuối 6/1940 Người đáp máy bay gặp Chu Ân Lai - đại diện Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Trùng Khánh để trao đổi thời cuộc và bàn phối hợp hoạt động giữa cách mạng hai nước. Để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới và nhân dân Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam, trong thời gian này, với bí danh “Bình Sơn” , Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài cho báo Cứu vong nhật báo - tờ báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc nói về sự đoàn kết ủng hộ Việt Nam - Trung Quốc trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Mùa xuân 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định về nước, cùng Đảng trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Từ ngày 10 đến 19/5/1941, thay mặt Quốc tế Cộng sản, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII xác định tình hình thế giới và trong nước, thành lập “Việt Nam độc lập đồng minh” gọi tắt là Việt Minh và chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Hội nghị có những nhận định đúng đắn về vấn đề quốc tế, đã hoàn chỉnh đường lối, chiến lược của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Trong khi chưa liên lạc được với Liên Xô, thì việc liên hệ đoàn kết với đồng minh chống phát xít là cần thiết. Người khẳng định cách mạng Việt Nam muốn tiếp nhận được sự giúp đỡ của Quốc tế, phải có thực lực. Trong "Thông cáo gửi các cấp bộ Đảng" tháng 12/1941, Người viết “Ta có mạnh thì họ (Anh, Mỹ, Trung Quốc) mới chịu đếm xỉa tới”. Người lưu ý đến sự cần thiết giúp đỡ từ bên ngoài để tăng cường sự đoàn kết sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam. Trong Thông cáo, Người vừa khéo léo đề cao “Quốc sách” đối ngoại của Tưởng, vừa tranh thủ Quốc dân Đảng Trung Hoa, tạo điều kiện chuẩn bị thực lực bên trong cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam khi thời cơ đến. Sang năm 1945, Hồ Chí Minh phát hiện sự căng thẳng trong quan hệ Mỹ - Anh, Pháp về vấn đề thuộc địa nói chung, vấn đề Đông Dương nói riêng. Với nhãn quan chính trị sâu sắc và thực tiễn hoạt động quốc tế phong phú, Người quyết định phải gặp Mỹ, tranh thủ Đồng Minh, thêm bạn cho cách mạng Việt Nam, tiến tới giành độc lập dân tộc khi thời cơ cho phép. Bằng việc cứu thoát viên phi công Mỹ Uyliam Sao và trao trả cho Mỹ để thể hiện thiện chí của Việt Minh, đồng thời đặt mối quan hệ với Mỹ, tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ đối với cách mạng Việt Nam. Sau khi quan hệ Việt Minh - Mỹ được xác lập, phía Mỹ nhận cung cấp các thông tin liên lạc, nhân viên sử dụng các công cụ ấy và huấn luyện cho người Việt Nam cách sử dụng, hứa cung cấp thuốc men, vũ khí và những sĩ quan huấn luyện kỹ thuật quân sự, kỹ thuật vô tuyến điện cho Việt Minh. Mở đầu cho mối quan hệ, tướng Sênôn chỉ huy quân đoàn không quân 14 của Mỹ ở Côn Minh (Trung Quốc) - đã tặng Việt Minh 6 khẩu súng ngắn, 2 vạn viên đạn, một số thuốc men, cử 2 người Mỹ là Ph.Tan và Mactin mang theo điện đài theo Hồ Chí Minh về Việt Nam. Từ đó những người Mỹ huấn luyện cho lực lượng vũ trang Việt Minh cách sử dụng các loại vũ khí, điện đài thông tin liên lạc và kỹ thuật trận địa… đồng thời cung cấp cho Việt Minh một số vũ khí, thuốc men và những trang thiết bị khác. Phía Việt Minh cũng cung cấp cho Mỹ những thông tin quan trọng về hoạt động của quân Nhật, cứu giúp 17 phi công Mỹ rơi trên đất Việt Nam… qua những cuộc tiếp xúc với Mỹ, Hồ Chí Minh đã làm tăng thêm vị trí và ảnh hưởng của Việt Minh đối với lực lượng Đồng Minh làm cho phía Mỹ hiểu được mục đích, tổ chức và phương thức hoạt động của Việt Minh và đã có những quan hệ tốt, giúp đỡ có hiệu quả. Hoạt động quốc tế của Hồ Chí Minh trong việc giao thiệp, tiếp xúc với chính quyền Quốc dân Đảng Trung Hoa và Mỹ trong những năm 1945 nhằm khai thác mặt tích cực, mặt tiến bộ của lực lượng Đồng Minh, thêm bạn cho cách mạng Việt Nam, từ đó tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của họ để có được một bạn Đồng Minh mạnh về số lượng, dù đó là Đồng Minh tạm thời, bấp bênh, ít chắc chắn, ít tin cậy. Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng làm cho họ thấy được vị trí và khả năng của cách mạng Việt Nam. Đó là minh chứng trong tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh là đoàn kết mọi lực lượng có thể tranh thủ, nhằm thực hiện mục tiêu độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam. Tháng 8/1945, chiến tranh thế giới thứ II đi vào giai đoạn kết thúc, ở Đông Dương quân đội Nhật đang lao nhanh đến thất bại, phong trào cách mạng các nước đang dâng cao, những điều kiện chín muồi của cuộc Tổng khởi nghĩa đã đến. Trước tình hình đó Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho Ban Chấp hành Trung ương chuẩn bị gấp Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội đại biểu quốc dân. Từ ngày 13 đến ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng được triệu tập. Hội nghị nhận định thời cơ rất tốt cho ta giành độc lập đã tới, quyết định phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa đã đến trước khi quân Đồng Minh vào nước ta, thực hiện chính sách “thêm bạn bớt thù”, lợi dụng mâu thuẫn giữa hai tập đoàn Anh - Pháp và Mỹ - Tưởng, tránh trường hợp đối phó với nhiều kẻ thù, tranh thủ sự ủng hộ đồng tình của Liên Xô và nhân dân các nước. Người nhấn mạnh “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết dành cho được độc lập”. Đáp lại lời kêu gọi của Hồ Chí Minh và Đảng, dưới ngọn cờ của Việt Minh nhân dân cả nước nhất tề nổi dậy với tinh thần “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là sự kết hợp chặt chẽ những điều kiện khách quan với điều kiện chủ quan, kết hợp những cố gắng phi thường của nhân dân ta với chiến thắng oanh liệt của Liên Xô với các lực lượng tiến bộ trên thế giới chống phát xít. Đó là thắng lợi của tư tưởng cách mạng kết hợp với đoàn kết quốc tế, tự lực, tự cường và ủng hộ quốc tế của Hồ Chí Minh. CHƯƠNG 2 MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ 2.1 Độc lập, tự do là mục tiêu, động lực và cơ sở của tư tưởng đoàn kết quốc tế Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Người theo đuổi mục tiêu làm cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Không chỉ phấn đấu cho độc lập tự do của dân ta mà Hồ Chí Minh còn đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập, tự do và tình đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới. Từ mục tiêu độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân đến tình hữu ái vô sản, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa quốc tế vô sản, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam trên cơ sở sức mạnh mới, sức mạnh của thời đại được mở ra từ sau Cách mạng Tháng Mười vĩ đại. Hồ Chí Minh đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, người chiến sĩ quốc tế chân chính, người đặt nền móng đoàn kết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Độc lập, tự do là quan điểm nhất quán, xuyên suốt cốt lõi, là cơ sở tạo dựng chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin coi đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản là vấn đề chiến lược cách mạng. Mac và Ănghen đã chỉ rõ: "Trong cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản" , đồng thời hai ông cũng nêu: "Không khôi phục lại độc lập và thống nhất cho từng dân tộc thì về phương diện quốc tế, không thể thực hiện được sự đoàn kết của giai cấp vô sản và sự hợp tác hòa bình và tự giác giữa các dân tộc đó để đạt tới mục đích chung" . Lênin cũng chỉ rõ là chỉ có một chủ nghĩa quốc tế thực sự và làm việc quên mình là nhằm phát triển phong trào cách mạng ở trong nước mình, ủng hộ bằng sự tuyên truyền, sự đồng tình, bằng sự giúp đỡ về vật chất, chính cuộc đấu tranh ấy, chính đường lối ấy và chỉ đường lối ấy thôi, trong tất cả các nước không trừ một nước nào . Như vậy cả Mác, Ănghen, Lênin trong khi coi trọng đoàn kết quốc tế đều tôn trọng nền độc lập của mỗi dân tộc để tạo điều kiện cho sự liên minh và đoàn kết quốc tế tự nguyện. Quán triệt quan điểm trên, Hồ Chí Minh đã làm việc quên mình cho sự đoàn kết quốc tế rộng lớn nhằm mục tiêu giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp bức. Người sớm hiểu rõ, trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cách mạng ở các nước thuộc địa tuy mang nội dung dân tộc, dân chủ nhưng không còn thuộc phạm trù cách mạng tư sản nữa, mà đã trở thành một bộ phận quan trọng không thể tách rời của cách mạng vô sản. Vì thế ngay những năm 20 của thế kỷ XX, Người ra sức xây dựng mối liên minh đoàn kết giữa các dân tộc thuộc địa với nhau, giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản ở chính quốc. Hồ Chí Minh chỉ rõ, vấn đề cơ bản, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng là sự kết hợp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, gắn lợi ích cách mạng một nước với lợi ích cách mạng thế giới. Và chính Người là hiện thân của sự kết hợp đó. Hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế, thực hiện chiến lược đoàn kết quốc tế vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa, trước hết Hồ Chí Minh thu hút sự quan tâm của bạn bè quốc tế đối với Việt Nam và các dân tộc thuộc địa. Các tham luận trên các diễn đàn quốc tế, các bài viết trên các báo, tạp chí, Người lên án mạnh mẽ tội ác của CNTD. Người muốn chỉ cho giai cấp vô sản ở chính quốc thấy rõ trách nhiệm phải đoàn kết các dân tộc thuộc địa, ủng hộ cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của họ như là điều kiện cho sự nghiệp giải phóng của mình. Đồng thời nhắc nhở những người bị áp bức thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống áp bức, giành độc lập, tự do. Độc lập, tự do được Hồ Chí Minh đặt thành nhiệm vụ hàng đầu nhưng lại là nhiệm vụ khó khăn nhất. Người phải kiên trì tư tưởng này, đấu tranh với những quan điểm tả khuynh - chỉ nhấn mạnh mọt chiều đấu tranh giai cấp khong muốn tập hợp những lực lượng yêu nước và dân chủ khác, ngoài công nông coi thường, đánh giá thấp cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa, coi cuộc đấu tranh này hoàn toàn lệ thuộc vào cách mạng ở chính quốc. Quan điểm giải quyết các vấn đề dân tộc, đặt mục tiêu độc lập, tự do là nhiệm vụ hàng đầu không những thể hiện trí tuệ sáng suốt, tầm cao, nhìn xa trông rộng của nhà chiến lược thiên tài, mà còn là một quyết định dũng cảm của Hồ Chí Minh trước vận mệnh dân tộc và trước phong trào cách mạng thế giới. Điều đó còn thể hiện trình độ hiểu biết sâu sắc, sự vận dụng linh hoạt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và khả năng nắm bắt thực tiễn phong phú cuộc đấu tranh của các dân tộc giành độc lập, tự do của Hồ Chí Minh. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột thực hiện các quyền tự do, dân chủ cơ bản của con người, gắn được quyền lợi của giai cấp trong mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng giải phóng dân tộc vì độc lập tự do và cuộc đấu tranh giai cấp. Với sự nhạy cảm của một nhà chiến lược, Hồ Chí Minh luôn nắm vững thời cơ và tạo thời cơ cách mạng. Khi chiến tranh thế giới thứ II nổ ra, Người khẳng định thời cơ lớn chưa tới. Khi Đức tấn công Liên Xô, Người chỉ rõ: “Liên Xô và các lực lượng dân chủ nhất định thắng lợi, đó là thời cơ cho dân tộc Việt Nam. Nhưng điều quan trọng là phải chuẩn bị thực lực bên trong để đón thời cơ”. Khi lực lượng Đồng Minh chiến thắng chủ nghĩa phát xít, Hồ Chí Minh đã kịp thời phát động Tổng khởi nghĩa với tinh thần “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải dành cho được độc lập dân tộc”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng tám là thắng lợi của tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Hồ Chí Minh và cũng là thắng lợi của chủ nghĩa quốc tế chân chính. Độc lập, tự do là động lực, mục tiêu, lý tưởng, là cơ sở của chiến lược đoàn kết quốc tế Hồ Chí Minh, một chiến lược tổng hòa, biện chứng mối quan hệ dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc tế, độc lập dân tộc và CNXH đầy sang tạo và năng động cách mạng, kết thành hạt nhân sáng chói có giá trị trường tồn đối với dân tộc ta và các dân tộc trên thế giới. Giương cao ngọn cờ độc lập tự do là tư tưởng cách mạng, là mục tiêu lẽ sống của Hồ Chí Minh, của dân tộc Việt Nam và của nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Đây cũng chính là nội dung cốt lõi trong tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh. 2.2 Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, từ thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã thấy sự cần thiết phải liên minh, đoàn kết chặt chẽ không những giữa các dân tộc thuộc địa mà còn giữa nhân dân các nước thuộc địa với giai cấp vô sản và nhân dân lao động ở chính quốc hay cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc. Người ví CNĐQ như con đỉa 2 vòi, nếu chỉ cắt 1 vòi, cái vòi kia tiếp tục hút máu và cái vòi bị cắt sẽ tiếp tục mọc ra. Cho nên, muốn tiêu diệt CNĐQ thì nhân dân bị áp bức ở thuộc địa và giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở chính quốc phải đoàn kết, phối hợp hành động, cắt đứt cả 2 cái vòi của “con đỉa”. Người còn ví cách mạng thuộc địa và cách mạng ở chính quốc như hai cái cánh của một con chim phải phối hợp nhịp nhàng. Do đó theo Người phải: “Làm cho các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay, vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”. Sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã làm tất cả để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Người đã viết: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận của cách mạng thế giới, ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của An Nam cả”. Người còn vạch rõ: “Chúng ta làm cách mạng thì cũng phải liên lạc với tất cả các Đảng cách mạng trên thế giới để chống lại Tư bản và Đế quốc chủ nghĩa”. Trong khi đặt cách mạng thuộc địa trong mối quan hệ mật thiết với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tính chủ động và khả năng thắng lợi trước của cách mạng thuộc địa, trở thành sự cổ vũ, ủng hộ to lớn đối với cách mạng chính quốc. Với tầm nhìn chiến lược, Người cho rằng thuộc địa là khâu yếu nhất của chủ nghĩa đế quốc, nơi tập trung những mâu thuẫn của thời đại. Vì thế, cách mạng vô sản không phải bắt đầu ở chính quốc mà phải bắt đầu từ các nước thuộc địa. Người phân tích “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới tùy thuộc phần lớn vào các nước thuộc địa”, “Tất cả các sinh lực của chủ nghĩa đế quốc đếu lấy ở các xứ thuộc địa”. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người chỉ rõ “Việt Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ”. Từ nhận thức tính chất thời đại của mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh khẳng định tính tất yếu của cách mạng thuộc địa và vai trò của nó đối với cách mạng ở chính quốc. Đây là luận điểm đầy sáng tạo của Hồ Chí Minh, bởi lúc này Quốc tế Cộng sản và các đảng cộng sản ở châu Âu cho rằng, thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Thực tiễn lịch sử Việt Nam và các nước thuộc địa giành độc lập trong thế kỷ XX đã chứng minh luận điểm của Người được nêu ra từ năm 1921 là rất đúng đắn và sáng tạo. Xác định cách mạng thuộc địa là một bộ phận của cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh nêu rõ “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN thì mới thắng lợi hoàn toàn”, vì chỉ có CNXH mới đảm bảo cho các dân tộc được độc lập, tự do thực sự. Vận dụng những dự báo khoa học của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học vào những điều kiện riêng, đặc thù của các dân tộc phương Đông, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: CNXH không phải chỉ phù hợp với những nước châu Âu đã trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) mà là học thuyết đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển xã hội loài người nói chung. Bằng lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã làm cho các dân tộc thuộc địa nhận thức rõ CNXH là phương hướng, là mục tiêu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, là con đường tiến lên của các dân tộc thuộc địa sau khi giành độc lập. Hồ Chí Minh rút ra kết luận: “Chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới thoát khỏi ách nô lệ”. Tiên đoán về thắng lợi sớm của cách mạng thuộc địa so với cách mạng chính quốc được tiến trình lịch sử của thời đại khẳng định. Nhiều dân tộc thuộc địa đánh đổ chủ nghĩa thực dân giành độc lập và tiến lên con đường XHCN, trong khi ở các nước tư bản giai cấp vô sản đang phải tìm con đường phù hợp để tiến đến con đường mục tiêu đặt ra. Cách mạng Việt Nam, trong toàn bộ lịch sử của mình, luôn được đặt trong trào lưu tiến bộ của thời đại và gắn kết cuộc đấu tranh của nhân loại. Đó là một trong những bài học thành công quan trọng nhất, mang tính thời đại sâu sắc. Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên phá thế đơn độc của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, đặt nền móng vững chắc cho đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Đó là dựa trên thực lực của dân tộc
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan