Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tư tưởng hồ chí minh về tư cách người công an cách mạng và việc học tập, làm the...

Tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về tư cách người công an cách mạng và việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh của cán bộ, chiến sĩ công an giai đoạn hiện nay

.PDF
91
610
74

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ KIM DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƯ CÁCH NGƯỜI CÔNG AN CÁCH MẠNG VÀ VIỆC HỌC TẬP, LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH CỦA CÁN BỘ, CHIẾN SĨ CÔNG AN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI, 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ KIM DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƯ CÁCH NGƯỜI CÔNG AN CÁCH MẠNG VÀ VIỆC HỌC TẬP, LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH CỦA CÁN BỘ, CHIẾN SĨ CÔNG AN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Chuyên ngành : Triết học Mã số: 60.22.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Đặng Thái Giáp HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu ghi trong luận văn là trung thực.Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác. . Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2017 Tác giả Trần Thị Kim Dung LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn, tác giả đã nhận được sự động viên, khuyến khích và sự giúp đỡ nhiệt tình của quý Thầy giáo, cô giáo, các cấp lãnh đạo, bạn bè đồng nghiệp và gia đình. Với tình cảm chân thành, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến: - PGS.TS Đặng Thái Giáp, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn. - Lãnh đạo Khoa Triết học, Học viện Khoa học xã hội (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), Quý Thầy cô giáo đã dạy học lớp Cao học Triết học đợt 2 - K6 năm 2015, các phòng chuyên môn của Học viện đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành của Quý thầy cô giáo, các nhà khoa học và các bạn đồng nghiệp để luận văn này có giá trị thực tiễn. Xin chân thành cảm ơn và xin kính chúc các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt. Hà Nội,ngày 20 tháng 8 năm 2017 Người thực hiện Trần Thị Kim Dung MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƯ CÁCH NGƯỜI CÔNG AN CÁCH MẠNG................................................................................................... 7 1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh trật tự và xây dựng lực lượng công an nhân dân. .............................................................................................. 7 1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về người công an cách mạng ............................. 19 Chương 2 NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ VIỆC HỌC TẬP, LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH CHO CÁN BỘ, CHIẾN SĨ CÔNG AN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ......................... 50 2.1 Công an nhân dân học tập và thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy – một phong trào hành động cách mạng của lực lượng Công an nhân dân ......................... 50 2.2 Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho cán bộ, chiến sĩ công an giai đoạn hiện nay............................ 64 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 80 DANH MỤC VIẾT TẮT CNXH Chủ nghĩa xã hội CNTB Chủ nghĩa tư bản CNĐQ Chủ nghĩa đế quốc CAND Công an nhân dân ANTT An ninh trật tự CBCS Cán bộ chiến sĩ XDLL Xây dựng lực lượng ANCT An ninh chính trị ANQG An ninh quốc gia TTATXH Trật tự an toàn xã hội XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chăm lo, giáo dục, rèn luyện và xây dựng lực lượng Công an nhân dân Việt Nam về mọi mặt, đặc biệt là giáo dục, rèn luyện đạo đức, tư cách người Công an. Người đã để lại cho lực lượng Công an nhân dân Việt Nam (CAND) nhiều lời dạy quý báu. Ngày 11-3-1948, trong thư gửi đồng chí Giám đốc Công an Khu XII, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên sáu nội dung về tư cách người công an cách mệnh. Từ đó tới nay, sáu nội dung về tư cách người công an cách mệnh đã trở thành sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân. Sáu điều Bác Hồ dạy CAND là những phẩm chất cơ bản, chuẩn mực đạo đức, phong cách, thái độ đối nhân xử thế mà mỗi cán bộ, chiến sỹ CAND phải ra sức phấn đấu, rèn luyện trong suốt cuộc đời hoạt động của mình. Đó cũng là mục tiêu, phương hướng xây dựng lực lượng CAND Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó. Gần bảy mươi năm qua, trải qua các chặng đường phát triển của cách mạng Việt Nam, phong trào “CAND học tập, thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy” luôn được lực lượng CAND triển khai, thực hiện nghiêm túc, mang lại hiệu quả thiết thực, được Đảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân dân ghi nhận, đánh giá cao; được cán bộ, chiến sĩ CAND tích cực tham gia hưởng ứng và tự giác thực hiện. Trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, trên khắp mọi miền đất nước CAND luôn thi đua học tập, thực hiện theo các nội dung về tư cách người Công an cách mạng. Lực lượng CAND đoàn kết, mưu trí, dũng cảm, liên hệ mật thiết với các tầng lớp nhân dân phá tề, diệt ác, trừ gian, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động phá hoại của các tổ chức phản động, gián điệp, giữ gìn ổn định an ninh, trật tự. Những chiến công to lớn của lực lượng CAND góp phần cùng toàn dân, toàn quân đánh bại chiến tranh xâm lược của các đế quốc, thế lực phản động, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đất nước thống nhất, cả nước tiến hành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ủy Công an Trung ương tiếp tục lãnh đạo, tổ 1 chức và phát động phong trào CAND học tập, thực hiện nghiêm túc tư cách người Công an cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, việc quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người Công an cách mạng được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Tuy nhiên đứng trước xu thế mở cửa, hội nhập, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, mặt trái của nền kinh tế thị trường, các tệ nạn xã hội đang hàng ngày, hàng giờ tác động tiêu cực đến việc rèn luyện của cán bộ, chiến sĩ CAND. Một bộ phận cán bộ, chiến sĩ Công an bộc lộ tư tưởng trung bình chủ nghĩa; né tránh trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; ý thức tổ chức kỷ luật kém, đạo đức lối sống sa sút; có thái độ cửa quyền, hách dịch, gây phiền hà nhân dân; tình trạng vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật còn xẩy ra. Những khuyết điểm yếu kém nói trên đã gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng đến uy tín, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với lực lượng Công an nhân dân. Nghiên cứu, học tập và thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy CAND là việc làm suốt đời của mỗi cán bộ, chiến sĩ công an. Trong giai đoạn hiện nay, việc nghiên cứu học tập và thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy CAND càng cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc rèn luyện của cán bộ, chiến sĩ CAND. Là một cán bộ của lực lượng Công an, để góp phần giải quyết yêu cầu trên, tôi chọn vấn đề "Tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người Công an cách mạng và việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, chiến sĩ Công an giai đoạn hiện nay" để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Xung quanh vấn đề lực lượng CAND học tập và làm theo sáu điều Bác Hồ dạy, thời gian qua đã được Đảng ủy Công an Trung ương và Bộ Công an thường xuyên quan tâm chỉ đạo thực hiện thông qua phong trào thi đua “CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy”. Để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của nội dung tư cách người công an cách mạng, nhiều công trình nghiên cứu, nhiều cuộc hội thảo đã được tổ chức. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu với nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đó, đáng chú ý là một số tác phẩm tiêu biểu như sau: 2 + Kỷ yếu hội thảo khoa học – thực tiễn "Sáu mươi năm Công an nhân dân làm theo lời Bác" do Bộ công an biên soạn, Hà Nội – 2008. Cuốn sách được trình bày quá trình thực hiện sáu điều Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy CAND, cũng như kinh nghiệm thực tiễn của Công an các đơn vị, địa phương trong học tập, thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy CAND. + Kỷ yếu hội thảo khoa học – thực tiễn "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – CAND vì nước quên thân, vì dân phục vụ" do Bộ công an biên soạn, Hà Nội – 2007. Kỷ yếu đã trình bày nội dung, ý nghĩa quan trọng của việc thực hiện phong trào thi đua "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh – CAND vì nước quên thân, vì dân phục vụ"; đồng thời là các hoạt động thực tiễn của Công an các đơn vị, địa phương hưởng ứng cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". + Công trình "Sáu mươi năm Công an nhân dân Việt Nam"(1945 - 2005), Bộ công an chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội – 2006. Cuốn sách đã khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với CAND và trình bày quá trình ra đời và phát triển lực lượng CAND (1945 - 2005). + Công trình "Công an nhân dân học tập, làm theo lời dạy và di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh" của nhiều tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội tháng 12 năm 2008. Cuốn sách đã khẳng định giá trị quý báu của sáu điều Bác Hồ dạy công an nhân dân với việc học tập, rèn luyện đạo của các cán bộ chiến sĩ theo 6 điều Bác Hồ dạy. Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng lực lượng Công an và sáu điều Bác Hồ dạy CAND như: + Luận văn thạc sĩ "Tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND với công tác xây dựng lực lượng CAND tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay" của tác giả Phạm Thị Thơm, năm 2008. + Luận văn cao cấp chính trị "Xây dựng lực lượng Công an Quảng Ninh theo sáu điều Bác Hồ dạy" của nhiều tác giả Lê Văn Hoan, năm 2003. 3 + Luận văn cao cấp chính trị "Tìm hiểu sáu điều Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy CAND" của tác giả Đỗ Quang Dương, năm 2005. + Luận văn cao cấp lý luận chính trị "Công an Hải Phòng thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy trong những năm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" của tác giả Nguyễn Thị Lan Anh, năm 2006. Cùng các bài viết tiêu biểu về sáu điều Bác Hồ dạy đăng trong kỷ yếu, tạp chí. + “Phát huy kết quả 65 năm CAND học tập và thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự trong tình hình mới”, GS - TS Trần Đại Quang, Tạp chí KHGD & AN 5/2013. + "Học tập và thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy là nội dung cốt lõi trong công tác chính trị, tư tưởng của lực lượng CAND" của Đại tá, TS. Đặng Thái Giáp, Tạp chí Công an nhân dân tháng 5 năm 2008. +“Những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào CAND học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy” của Thiếu tướng, TS. Đặng Thái Giáp, Kỷ yếu hội thảo khoa học 65 năm công an nhân dân học tập, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy, tháng 5/2013. Các công trình nghiên cứu về Công an nhân dân là tương đối toàn diện, phong phú, có giá trị về lý luận và thực tiễn cao. Tuy nhiên, trước yêu cầu đòi hỏi của việc học tập và thực hiện theo sáu điều Bác Hồ dạy CAND trong giai đoạn cách mạng mới cần có cách nghiên cứu, tiếp cận và vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tư cách người Công an cách mạng sao cho phù hợp với nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng CAND đáp ứng yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong tình hình hiện nay. Vì vậy, đề tài luận văn thạc sĩ "Tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người công an cách mạng và việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, chiến sĩ Công an giai đoạn hiện nay" không trùng lặp với những công trình đã công bố và hy vọng sẽ có những đóng góp mới cả về lý luận và thực tiễn cho phong trào thi đua "Công an nhân dân học tập và thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy". 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 4 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu hệ thống lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người Công an cách mạng và kết quả của việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, chiến sĩ công an giai đoạn hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, chiến sĩ Công an giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: + Phân tích nội dung, rút ra giá trị lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người Công an cách mạng. + Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, chiến sĩ Công an giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu + Tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người Công an cách mạng. + CAND quán triệt, thực hiện tư cách người Công an cách mạng trong giai đoạn hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, về tư cách người Công an cách mạng trong lực lượng Công an nhân dân trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về việc học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức và tư cách người công an cách mạng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh để luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn trong đề tài luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5 6.1. Lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách của người Công an cách mạng. Luận văn là sự đóng góp thiết thực, nhằm phát huy và thực hiện tư cách của người CAND. 6.2. Thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy và giáo dục, rèn luyện tư cách đạo đức cho cán bộ, chiến sĩ Công an trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết: Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tư cách người Công an cách mạng Chương 2: Nâng cao chất lượng, hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cho cán bộ, chiến sĩ Công an giai đoạn hiện nay. 6 Chương 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TƯ CÁCH NGƯỜI CÔNG AN CÁCH MẠNG 1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh trật tự và xây dựng lực lượng công an nhân dân. 1.1.1 Khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh * Khái niệm tư tưởng Theo nghĩa phổ thông nhất, tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của con người với thế giới xung quanh. Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm “tư tưởng” có ý nghĩa ở tầm khái quát triết học. Khái niệm “tư tưởng” ở đây không phải dùng với nghĩa tinh thần – tư tưởng, ý thức tư tưởng của một cá nhân, một cộng đồng, mà với nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực. * Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh Qúa trình nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh đi từ thấp đến cao, từ những vấn đề cụ thể đến hệ thống hoàn chỉnh. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (tháng 2-1951) đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định vai trò, ý nghĩa, tác dụng của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách... Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Có thể nói, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991) đánh dấu một cột móc quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đã khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Văn kiện của Đại hội định nghĩa: “Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc” [T18, tr.127]. 7 Kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh được tiến hành một cách sâu sắc và toàn diện đồng thời cũng đạt được những kết quả quan trọng. Những kết quả nghiên cứu đó đã cung cấp luận cứ khoa học có sức thuyết phục để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4 – 2001) xác định khá toàn diện và có hệ thống khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh. Văn kiện đại hội lần thứ IX của Đảng viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Máclênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giải phóng giai cấp giải phóng con người” [T22, tr.127]. Sau 10 năm thực hiện, từ Đại hội lần thứ IX (2001) đến Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011), tổng kết thực tiễn, Đảng ta tiếp tục khẳng định giá trị và ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh. Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng (2011) định nghĩa: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi" [T26, tr.88]. Đây là một sự tổng kết sâu sắc, bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta và là một quyết định quan trọng có ý nghĩa lịch sử, đáp ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp cách mạng nước ta, đồng thời đây cũng là tình cảm nguyện vọng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Định nghĩa này đã bước đầu làm rõ: Một là, bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là hệ thống các quan điểm lý luận; tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng và dân tộc Việt Nam. Hai là, nội dung khách quan được phản ánh trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm những vấn đề có tính quy luật có liên quan trực tiếp đến cách mạng Việt Nam. 8 Ba là, nguồn gốc tư tưởng - lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa Mác - Lênin; giá trị văn hoá dân tộc; tinh hoa văn hoá nhân loại. Bốn là, giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh; tài sản tinh thần vô cùng to lớn, quý giá của Đảng và dân tộc; mãi mãi soi đường thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Nội dung cốt lõi, sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. 1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh, trật tự Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ an ninh, trật tự là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: 1.1.2.1. Nhân dân là nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự Để nhận thức đầy đủ quan niệm về “nhân dân” của Hồ Chí Minh, xin được bắt đầu từ định nghĩa về con người: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là loài người” [T50, tr.276] “Nhân nghĩa là nhân dân” [T47, tr.644] – từng con người trong một cộng đồng xã hội, là lực lượng đông đảo, không phân biệt nghề nghiệp, địa vị xã hội, giai cấp, tôn giáo, tộc người…mà chỉ có tiêu chí chung là dân tộc quốc gia và cùng chung một mục tiêu phấn đấu vì lợi ích chung từng thời kỳ. Như vậy, mọi thành viên trong một quốc gia kể cả chủ tịch nước đều là dân. Điều đáng chú ý là Người thường dùng từ “đồng bào” khi nói về nhân dân đất nước mình, khi nói về mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Ở Hồ Chí Minh “nhân dân” được đồng nghĩa với “đồng bào”. “Nhân nghĩa là nhân dân” – Hồ Chí Minh còn khẳng định sức mạnh to lớn từ tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng nhân nghĩa cao cả của nhân dân. “Nhân: là phải có lòng bác ái – yêu nước, yêu đồng bào, yêu bộ đội của mình” [T46, tr.433]. Chính 9 vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Trong bầu trời, không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân” [T49, tr544]. Mặt khác, khi nói về mối quan hệ xã hội và trách nhiệm của mỗi người trong các mối quan hệ thì thuật ngữ “nhân dân” được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng với nghĩa hẹp hơn. Một cá nhân có thể là dân trong mối quan hệ này nhưng không phải là dân trong mối quan hệ khác. Đảng và dân, quân đội và dân, công an và nhân dân…Chẳng hạn, chúng ta hiểu rằng cán bộ chiến sĩ công an cũng là dân. Nhưng trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự thì người chiến sĩ công an lại trở thành “công bộc” của nhân dân. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, các khái niệm: dân tộc, giai cấp không phải là những khái niệm trừu tượng mà bao gồm những con người rất cụ thể, những số phận không giống nhau. Người luôn đòi hỏi cán bộ của Đảng và Nhà nước, trong khi thi hành chính sách, pháp luật phải quan tâm đến từng cá nhân, từng gia đình, đến mỗi tầng lớp xã hội cụ thể, có những lợi ích nguyện vọng khác nhau. Tuyệt đối không nhân danh sự nghiệp chung mà có thái độ thờ ơ với số phận của từng con người. Về phần mình, trong suốt chặng đường lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giành sự quan tâm đặc biệt đến nhân dân. Người luôn xác định nhân dân là nền tảng, là động lực quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Đối với Công an Việt Nam là công cụ chuyên chính sắc bén bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ lợi ích của nhân dân. Nhân dân được xác định là nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Điều đó được thể hiện ở những khía cạnh sau: An ninh cho nhân dân là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Cội nguồn của tư tưởng này xuất phát ở chỗ cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Người nhấn mạnh: Tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc tôi đó là những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu. Theo Người, giành độc lập cho dân tộc là tiền đề để đạt mục tiêu cuối cùng là giành cuộc sống ấm no, 10 hạnh phúc cho nhân dân. Bởi vì “nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Với ý nghĩa đó, cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự luôn hướng tới mục tiêu cuối cùng là xây dựng và giữ gìn một môi trường xã hội bình yên để mọi thành viên được sống thanh bình, yên ổn. Theo Hồ Chí Minh: “Có giữ vững trật tự an ninh, thì nhân dân …an cư lạc nghiệp”, dân có yên ổn thì sản xuất mới phát triển, kinh tế mới tăng trưởng. Như vậy, “Yên dân” là điều kiện để “dân giàu”. Dân yên, dân giàu thì đất nước mới có thể vững mạnh. Sự vững mạnh của một đất nước thể hiện ở chỗ có một nền kinh tế phát triển vững chắc, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn được đảm bảo. Nhân dân là mục tiêu cao nhất của sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự xuất phát từ bản chất của nhà nước ta là Nhà nước vì dân, bao nhiêu lợi ích đều thuộc về nhân dân. Cho nên lợi ích lớn nhất, đầu tiên của sự nghiệp giữ gìn trật tự, an ninh phải thuộc về nhân dân. Sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự của ta trước hết phải vì dân, đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ tính mạng, tài sản, lợi ích hợp pháp của nhân dân. Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thực hiện “việc gì có lợi cho nhân dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh” [T46, tr.51]. Khác biệt với chế độ thực dân, phong kiến sử dụng sức mạnh của lực lượng Cảnh sát, quân đội để đàn áp nhân dân, phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị còn lực lượng công an, quân đội của ta giữ gìn an ninh, trật tự trước hết là phục vụ nhân dân, đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân. Như vậy, nhân dân là mục tiêu quan trọng của sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự là đối tượng bảo vệ của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Song nhân dân cũng là lực lượng trực tiếp tham gia vào sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự. Bởi vì nhân dân là lực lượng quyết định sự thành công của sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của công an, quân đội, dân quân tự vệ…và là trách nhiệm, nghĩa vụ của nhân dân. Mỗi cơ quan, đơn vị, lực lượng trong sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự đều có một vị trí, vai trò nhất định. Trong những lực 11 lượng tham gia vào sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Công an nhân dân là lực lượng chuyên trách giữ vai trò nòng cốt, tiên phong. Bởi lẽ, công an nhân dân được Đảng, Chính phủ thành lập ra để bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng, Chính phủ. Do vậy, Công an phải có trách nhiệm, nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an ninh. Các lực lượng khác đều có trách nhiệm tham gia giữ gìn an ninh, trật tự. Tuy nhiên, trong tất cả các lực lượng tham gia chỉ có lực lượng duy nhất giữ vai trò quyết định đến thành công hay thất bại của sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự đó là nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, nhân dân quyết định sự thành công hay thất bại của sự nghiệp giữ gìn an ninh trật tự trước hết xuất phát từ số lượng đông đảo, to lớn của nhân dân. “Bác lấy ví dụ: Công an có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm bảy vạn đi nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân. Năm vạn người thì chỉ có 5 vạn cặp mắt, 5 vạn đôi tay. Phải làm sao có hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được. Muốn vậy phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Nếu không thì sẽ thất bại. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn” [T49, tr270]. Nhân dân có sức mạnh to lớn. Lực lượng nhân dân có ở khắp mọi nơi, địch không giấu được nhân dân, cái gì nhân dân cũng có thể nghe, cũng có thể biết, có thể thấy; không âm mưu, thủ đoạn, hoạt động nào của địch không có thể thoát được sự giám sát của nhân dân. Để đánh giá sức mạnh vô địch của nhân dân trong sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự phân tích, đánh giá hết sức đúng đắn, sáng tạo vừa rõ ràng, vừa cụ thể. Người khẳng định: “Giữ gìn trật tự, an ninh trước hết là công việc của công an, bộ đội, cảnh sát. Nhưng chính quyền ta là chính quyền dân chủ, bất kỳ việc to việc nhỏ đều phải dựa vào lực lượng của nhân dân để phụng sự lợi ích của nhân dân…Mấy vạn con mắt soi sáng, mấy mươi vạn lỗ tai nghe ngóng, thì bọn gian phi, côn đồ sẽ lòi mặt ra và sẽ phải cải tà quy chính dưới lực lượng to lớn của quần chúng” [T51, tr77]. 12 Đánh giá khái quát vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của sự nghiệp giữ gìn an ninh, trật tự của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra một luận điểm bất hủ: “Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn” [T49, tr270]. Lời căn dặn đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn được lực lượng Công an nhân dân khắc ghi trong suốt chặng đường từng bước xây dựng và trưởng thành. 1.1.2.2 Đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, vấn đề đoàn kết gắn chặt với vấn đề an ninh của đất nước. Người thường nói: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”. Người từng tổng kết: “Sử ta dạy ta bài học này: Lúc nào dân tộc ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [T45, tr.217]. Từ phạm vi nhỏ tại một cụm dân cư, một tổ đội sản xuất, một làng, xã, huyện, tỉnh, cơ quan, xí nghiệp đến cả nước…nếu nhân dân đoàn kết một lòng, hành động thống nhất trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật…thì không một hành vi phạm tội nào lọt khỏi sự giám sát của toàn dân; không ai có thể trù dập, trả thù, hành hung người lương thiện, kẻ yếu thế; những người lầm đường lạc lối, bị mua chuộc, bị lôi kéo sẽ được giáo dục cải tạo trở về với cộng đồng; người gặp khó khăn được giúp đỡ; không kẻ thù nào có thể tuyên truyền kích động, chia rẽ và lợi dụng… Vì thế, Người luôn chăm lo khối đại đoàn kết toàn dân: đoàn kết giữa các dân tộc, đoàn kết giữa người có đạo và người không theo đạo, đoàn kết người trong Đảng và người ngoài Đảng, đoàn kết cán bộ với nhân dân, đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài, đoàn kết trong nước và đoàn kết quốc tế… Xuất phát từ tính chất, đặc điểm của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự; để thực hiện được tư tưởng chiến lược đại đoàn kết dân tộc bảo vệ an ninh, trật tự, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chủ trương: Trước hết phải đoàn kết rộng rãi, đoàn kết chặt chẽ tất cả những ai có thể đoàn kết được vì mục tiêu chung. Đây là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ quá trình giải quyết các mối quan hệ phức tạp, đan xen, chồng chéo lẫn nhau giữa: giai cấp và dân tộc, gia đình và xã hội, cá nhân và cộng 13 đồng…Trong những mối quan hệ này, luôn chứa đựng các yếu tố thống nhất và mâu thuẫn mà Hồ Chí Minh là người tìm kiếm, phát huy mặt thống nhất, mặt tương đồng; khắc phục giải quyết mặt mâu thuẫn, mặt khác biệt nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định rằng đoàn kết sẽ có sức mạnh vô địch. Sức mạnh đó là ở nhân dân, ở dân tộc, ở con người. Đoàn kết không chỉ là phép tính cộng thuần túy từng con người, mà là sự kết tinh dân tộc và thời đại. Đoàn kết là môi trường khơi dậy những tiềm năng chưa được khai thác, phát huy những sức mạnh sẵn có, làm nảy nở những cái mới, cái hay, cái đẹp của dân tộc, trong cả cộng đồng và trong mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đoàn kết là một tiền đề tất yếu trong mọi giai đoạn của cách mạng nhưng Người không bao giờ coi đoàn kết là những việc làm có tính chất sách lược, nhất thời, hôm nay cần đến thì đoàn kết, mai không cần nữa thì thôi. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vấn đề này: “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị” [T50, tr.387]. Trong đấu tranh bảo vệ ANTT, có thể coi đây là tư tưởng chiến lược về xây dựng thế trận ANND và chỉ đạo thực hiện chức năng trực tiếp đấu tranh phòng chống tội phạm của lực lượng Công an nhân dân. Nhiệm vụ bảo vệ ANTT là nhiệm vụ chiến lược của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, đại đoàn kết vì sự nghiệp đó là công việc trọng yếu, lâu dài, thường xuyên; không chỉ giữ vững an ninh cho hôm nay mà còn đặt nền móng an ninh cho ngày mai, không chỉ an ninh cho sự sinh tồn mà còn an ninh cho sự phát triển lâu bền. Đoàn kết để có an ninh trật tự trong khi giành chính quyền; đoàn kết để có an ninh trật tự trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm cũng như trong thời bình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội; đoàn kết không chỉ vì sự tồn vong của chế độ mà còn vì sự nghiệp xây dựng một xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. 1.1.2.3. Tư tưởng nhân văn, nhân đạo Hồ Chí Minh trong bảo vệ an ninh, trật tự 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan