Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Vai trò của hệ thống chính trị trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của ng...

Tài liệu Vai trò của hệ thống chính trị trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người m’nông ở xã quảng sơn, huyện đắk glong, tỉnh đắk nông hiện nay.

.PDF
76
1490
103

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN VĂN DƢƠNG VAI TRÕ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG VIỆC GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC CỦA NGƢỜI M’NÔNG Ở XÃ QUẢNG SƠN, HUYỆN ĐẮK GLONG, TỈNH ĐẮK NÔNG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI, 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHAN VĂN DƢƠNG VAI TRÕ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG VIỆC GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC CỦA NGƢỜI M’NÔNG Ở XÃ QUẢNG SƠN, HUYỆN ĐẮK GLONG, TỈNH ĐẮK NÔNG HIỆN NAY Ngành: Chính trị học Mã số: 8 31 02 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHÚ VĂN HẲN HÀ NỘI, 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Phú Văn Hẳn. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài “Vai trò của hệ thống chính trị trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người M’Nông ở xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông hiện nay” là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Các số liệu được sử dụng trong luận văn phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra trong luận văn còn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích rõ nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung luận văn của mình trước pháp luật. TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 8 năm 2018 Tác giả luận văn Phan Văn Dƣơng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG VIỆC GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC .................................................................................................................. 8 1.1. Một số khái niệm liên quan ............................................................................. 8 1.2. Chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.......................................................................................................................... 12 Chƣơng 2: VĂN HOÁ VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA CỦA NGƢỜI M’NÔNG TẠI ĐỊA PHƢƠNG HIỆN NAY .................................................................................... 24 2.1. Vài nét về xã Quảng Sơn ............................................................................... 24 2.2. Con người và văn hóa của người M’Nông .................................................... 26 2.3. Văn hóa dân tộc của người M’Nông tại địa phương ..................................... 30 2.4. Bản sắc văn hóa của người M’Nông tại xã Quảng Sơn ................................. 41 2.5. Một số hoạt động và kết quả nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa của người M’Nông ................................................................................................................. 47 2.6. Thuận lợi và khó khăn trong công tác giữ gìn bản sắc văn hóa của người M’Nông ................................................................................................................. 50 Chƣơng 3: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC CỦA NGƢỜI M'NÔNG HIỆN NAY ........... 54 3.1. Vai trò của hệ thống chính trị xã Quảng Sơn trong công tác giữ gìn bản sắc văn hóa của người M’Nông .................................................................................. 54 3.2. Một số giải pháp đối với hệ thống chính trị địa phương trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa của người M’Nông tại xã Quảng Sơn ........................................ 57 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 65 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT UBND: Ủy ban Nhân dân HĐND: Hội đồng Nhân dân UBMTTQ: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc UNESCO: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc XHCN: Xã hội Chủ nghĩa XHCNVN: Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam DTTS: Dân tộc thiểu số LHQ: Liên Hiệp Quốc TTPCBXH: Trung tâm phòng chống bệnh xã hội HIV: Là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh Human Immuno - deficiency Virus (Virusgây suy giảm miễn dịch ở người). AIDS: Là một bệnh mạn tính do HIV gây ra. HIV phá huỷ các tế bào của hệ miễn dịch, khiến cơ thể không còn khả năng chống lại các virus, vi khuẩn và nấm gây bệnh. Do đó bệnh nhân dễ bị một số loại ung thư và nhiễm trùng cơ hội mà bình thường có thể đề kháng được. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dân tộc Việt Nam có một truyền thống lâu đời về văn hóa và văn hiến, kết tinh thành hệ giá trị chân - thiện - mỹ như một hệ giá trị phổ quát của văn hóa, của mọi dân tộc trong quốc gia - dân tộc mình và trong cộng đồng nhân loại. Song mỗi dân tộc, do những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử riêng của mình, từ những trải nghiệm trực tiếp trong thực tiễn lao động và đấu tranh, trong môi trường tự nhiên và xã hội để tồn tại và phát triển, lại có những quan niệm và cách thức biểu hiện riêng của mình về chân - thiện - mỹ. Nó biểu hiện thành tâm lý và ý thức, phong tục tập quán và lối sống, tạo thành tính cách của con người và cộng đồng dân tộc. Các giá trị văn hóa truyền thống đó kết tinh lại trong quan niệm, tư tưởng, triết lý, trong đạo đức và cách thức ứng xử, phản ánh diện mạo tinh thần, tâm hồn và tình cảm của cả một dân tộc, có trong các sản phẩm vật thể và phi vật thể của văn hóa. Quảng Sơn là xã thuộc vùng núi đặc biệt khó khăn, bao gồm nhiều dân tộc thiểu số sinh sống được thành lập theo Nghị định số 82/2005/NĐ-CP vào ngày 27 tháng 6 năm 2005 của Chính phủ và có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển chung của huyện Đắk Glong về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng. Mỗi dân tộc sinh sống trên địa bàn xã đều có những đặc điểm riêng, sớm hình thành những nét văn hóa vốn có, độc đáo của mình. Cũng như mọi dân tộc khác, người M’Nông tại xã Quảng Sơn đã sớm hình thành một nền văn hóa mang màu sắc riêng và hết sức đặc sắc. Chính những giá trị văn hóa, sắc thái văn hóa ấy đã có những ảnh hưởng tới các dân tộc tại địa phương nói chung và người M’Nông nói riêng, góp phần làm phong phú thêm những giá trị cho nền văn hóa đa dân tộc vùng Tây Nguyên. Trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xu thế hội nhập và toàn cầu hóa là điều mà Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài cuộc về vấn đề này. Kinh tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó, có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa của dân tộc M’Nông tại xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông. Trước sự tác động 1 của cơ chế thị trường, sự mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc nói chung và người M’Nông tại xã Quảng Sơn nói riêng đang bị mai một, pha trộn, lai căng, không còn giữ được bản sắc. Trước tình hình đó việc giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của người M’Nông tại xã Quảng Sơn là vấn đề mang tính thời sự, cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian qua dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Huyện ủy, UBND huyện, sự quan tâm tạo điều kiện, ủng hộ của các ban, ngành, đoàn thể cấp huyện; sự chỉ đạo của Đảng ủy, HĐND, sự đồng tình ủng hộ của các ban ngành, đoàn thể cấp xã, các đơn vị đóng chân trên địa bàn xã; xã Quảng Sơn đã đạt được nhiều sự thành công. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển của kinh tế, đời sống người dân được nâng cao, cũng cần thẳng thắn thừa nhận rằng, hiện nay những giá trị mang đậm bản sắc dân tộc thiểu số, đặc biệt là bản sắc văn hóa của người M’Nông đang đứng trước những thách thức và có những biểu hiện mai một, biến đổi một cách nghiêm trọng đó chính là sự mai một những giá trị văn hóa truyền thống khác như ngôn ngữ, trang phục, phong tục, tập quán bản địa trong cuộc sống, sinh hoạt, lao động sản xuất hằng ngày. Một số vấn đề như không coi trọng việc học tập, việc tiếp thu tri thức khoa học, xem nhẹ các giá trị về truyền thống, đạo đức, gia đình, cộng đồng và có biểu hiện vi phạm pháp luật của một bộ phận người M’Nông đáng được quan tâm, giải quyết. Từ những thực trạng đó cho thấy hệ thống chính trị các cấp, đặc biệt là ở địa phương có phần trách nhiệm lớn và cần phát huy mạnh mẽ hơn nữa trong vai trò của mình đối với công tác giữ gìn bản sắc văn hóa của người M’Nông. Làm thế nào để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người M’Nông tại địa phương, đang là câu hỏi lớn đặt ra cho Đảng bộ, chính quyền và toàn thể nhân dân trong toàn xã. Đề tài:“Vai trò của hệ thống chính trị trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người M’Nông ở xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông hiện nay" là đề tài cho luận văn tốt nghiệp chuyên ngành chính trị học, nhằm đánh giá đúng hiện trạng và tìm ra các giải pháp để giữ gìn bản sắc văn hóa của người M’Nông tại xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông hiện nay. 2 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Những nghiên cứu đề cập tới những vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hóa, bản sắc văn hóa, vai trò của hệ thống chính trị trong thời gian gần đây được chú trọng nhiều hơn, do vậy công trình nghiên cứu về đề tài này hết sức phong phú và có ý nghĩa cần thiết trong bối cảnh xã hội hiện tại. Trong các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài vai trò của hệ thống chính trị trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc nói chung và người M’Nông nói riêng vẫn còn khá ít. Đối với Đắk Nông thì các đề tài và các công trình nghiên cứu có liên quan khá khiêm tốn. Tuy nhiên để thực hiện đề tài, tác giả chỉ có thể nêu lên một số công trình có liên quan trong quá trình thực hiện đề tài mà tác giả nghiên cứu và tìm hiểu như sau: Trong nghiên cứu “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa Tây Nguyên trong quá trình xây dựng văn hóa tinh thần ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số” của tác giả Trương Minh Dục [19] đã nhấn mạnh những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên cần được giữ gìn và phát huy. Đồng thời thông qua đó tác giả đưa ra và phân tích những thế mạnh của cộng đồng các dân tộc thiểu số, những chủ trương, chính sách liên quan để làm tốt công tác giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa. Bài viết “Văn hóa các tộc người Tây Nguyên – Thành tựu và thực trạng” thì tác giả Tô Ngọc Thanh [32] cũng chú ý đi sâu vào phân tích thực trạng về văn hóa của các dân tộc ở Tây Nguyên, trong đó nêu cụ thể những thành tựu về văn hóa đã đạt được và cũng làm rõ những yếu tố văn hóa đang bị mai một, những tác động và ảnh hưởng xung quanh đối với văn hóa. Bài viết cũng đề cập đến vai trò của hệ thống chính trị trong việc phát triển văn hóa. Báo Đắk Nông với bài viết “Văn hóa Tây nguyên và sự phát triển bền vững” đã nêu ra những giá trị đặc sắc văn hóa Tây Nguyên, bài viết cũng không quên đề cập đến thực trạng của văn hóa Tây Nguyên, đồng thời đưa ra những giải pháp đề cập đến vai trò của hệ thống chính trị trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa Tây Nguyên. 3 Một số công trình khác của tác giả Võ Thị Thùy Dung như “Lễ hội nông nghiệp của tộc người M’Nông tỉnh Đắk Nông - Truyền thống và biến đổi” (Bài báo hội thảo khoa học quốc tế tháng 6/2014) [16]; “Tôn giáo đa thần trong nghi lễ và lễ hội của dân tộc M’Nông” (Bài đăng trong Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa dân gian tháng 10/2015 – ISSN 0866-7284)[18]; “Tác động của đô thị hóa đến lễ hội truyền thống của người M’Nông tỉnh Đắk Nông” (Bài báo Hội thảo khoa học Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội tháng 11/2014) [17]; đều có đề cập đến vai trò của hệ thống chính trị trong việc bảo tồn văn hóa dân tộc. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai mươi, tháng 4-1972 nhấn mạnh “Giáo dục tư tưởng XHCN, nâng cao trình độ văn hóa, trình độ khoa học - kỹ thuật, sức khỏe và tay nghề của người lao động, mở rộng các hoạt động văn hóa, văn nghệ, truyền thanh, truyền hình…”. Hội nghị Trung ương 2 khóa IX năm 2012, nêu rõ phát triển đầy đủ thành 10 nhiệm vụ cụ thể trên tất cả các lĩnh vực văn hóa, từ xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam trong giai đoạn mới, xây dựng môi trường văn hóa; xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống; phát triển văn học, nghệ thuật; bảo tồn và phát huy di sản văn hóa; phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo và khoa học - công nghệ; phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; thực hiện chính sách văn hóa đối với tôn giáo đến củng cố, xây dựng, hoàn thiện thể chế văn hóa và mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa (Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII). Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã nêu lên bốn giải pháp cơ bản để xây dựng và phát triển văn hóa: - Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. - Xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa. - Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa. - Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi mặt hoạt động, mọi quan hệ xã hội, thành sức mạnh 4 nội sinh quan trọng của phát triển bền vững. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều kiện để xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật, phát huy tốt vai trò chủ thể sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các đề tài, nghiên cứu, văn bản, nội dung liên quan đã đề cập đến giá trị văn hóa, sắc thái văn hóa, thực trạng và những ảnh hưởng tiêu cực liên quan đến vấn đề văn hóa; trong đó đã đưa ra những giải pháp nhấn mạnh vai trò của hệ thống chính trị trong việc giữ gìn, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa đó. Sự thiết thực và cấp bách đó đã đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới hết sức cấp thiết về lý luận, thực tiễn phải nghiên cứu, luận giải, đề ra những giải pháp mang tính khả thi, bảo đảm phát huy được vai trò của hệ thống chính trị trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc. Với mong muốn làm rõ những giá trị của bản sắc văn hóa, vai trò của hệ thống chính trị và đề xuất các giải pháp để phát huy tốt hơn nữa vai trò của hệ thống chính trị trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cụ thể đối với người M’Nông ở xã Quảng Sơn, đặt ra nhiệm vụ khoa học cần nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu là trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và các vấn đề thực tiễn có liên quan, làm rõ vai trò của hệ thống chính trị và đề xuất các giải pháp thiết thực, phù hợp với nhiệm vụ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc M’Nông tại xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để hoàn thành mục tiêu trên, đề tài có nhiệm vụ: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trò của hệ thống chính trị trong công tác giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người M’Nông tại địa phương. 5 - Phân tích, đánh giá hiện trạng về văn hóa, bản sắc văn hóa của người M’Nông tại xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong hiện nay, nêu ra những thuật lợi, khó khăn đối với công tác giữ gìn bản sắc văn hóa của người M’Nông. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản, làm rõ vai trò của hệ thống chính trị địa phương trong công tác giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người M’Nông tại xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung vấn là đề văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc của người M’Nông và vai trò của hệ thống chính trị của địa phương trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa của người M’Nông tại xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu việc thực hiện các cơ chế, chính sách, giải pháp, nội dung có liên quan của hệ thống chính trị đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người M’Nông và những đáp ứng của hệ thống chính trị tại xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông hiện nay. - Về không gian: Trong khuôn khổ luận văn, đề tài nghiên cứu chủ yếu địa bàn người M’Nông tại xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông. - Về thời gian: Phân tích thực trạng về văn hóa dân tộc của người M’Nông tại xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông giai đoạn hiện nay. Các giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả về việc giữ gìn bản sắc văn hóa của người M’Nông tại xã Quảng Sơn, huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về việc giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số, về vai trò của hệ thống chính trị trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. 6 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết (nghiên cứu các văn bản về chính sách, đường lối của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định của Nhà nước về công tác giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số). - Phương pháp liệt kê, phân tích số liệu, tổng hợp số liệu, giải thích các thuật ngữ liên quan được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu. - Phương pháp quan sát (tiếp cận đối tượng nghiên cứu, không gian nghiên cứu để làm rõ các vẫn đề nghiên cứu từ thực tiễn). 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Vận dụng các lý thuyết và các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước để đánh giá khách quan, khoa học công tác giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc, đặc biệt là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người M’Nông và làm rõ vai trò của hệ thống chính trị trong giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người M’Nông để từ đó chỉ ra thực trạng, tồn tại, hạn chế và giải pháp giữ gìn, phát triển bền vững. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Thông qua sự phân tích, nhìn nhận và đánh giá tình hình thực tiễn tại địa phương, nhằm đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hơn, phù hợp hơn đối với vai trò của hệ thống chính trị trong công tác giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người M’Nông tại xã Quảng Sơn. Kết quả của luận văn sẽ được ứng dụng tham khảo và kế thừa cho các đề tài, công trình nghiên cứu có liên quan khác. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, cụ thể như sau: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Chƣơng 2: Văn hóa và bản sắc văn hóa của người M’Nông hiện nay Chƣơng 3: Hệ thống chính trị và một số giải pháp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người M’Nông hiện nay. 7 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN TRONG VIỆC GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC 1.1. Một số khái niệm liên quan 1.1.1. Khái niệm về văn hóa Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ - tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm…khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội…Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng”[30]; còn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”. Theo Hồ Chí Minh cho rằng “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”[14, tr. 431]. Trong quan niệm của Đảng ta, văn hóa là một lĩnh vực thực tiễn của đời sống xã hội, nó cũng có những quy luật vận động phát triển riêng, trong đó tính dân tộc được coi là thuộc tính cơ bản của văn hóa, phản ánh mối quan hệ giữa dân tộc và văn hóa trong điều kiện dân tộc đã hình thành. Nội lực của dân tộc, một mặt, chính là nguồn nhân lực to lớn, mặt khác, là truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được kết tinh và hiện đại hóa. Có thể nói tính dân tộc là nội dung quan trọng, luôn được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu, vì đó là tính chất cốt lõi của một nền văn hóa. Nó là cơ sở của nền văn hóa tiên tiến, kết tinh thành nguồn nội lực để xây dựng một quốc gia giàu mạnh và phát triển bền vững. Chính do tác động của quy luật tính dân tộc mà văn hóa mang bản sắc dân tộc. Lịch sử đã chứng kiến biết bao cuộc đấu tranh oanh liệt, bao người sẵn sàng hy sinh để bảo vệ bản sắc văn hóa của dân tộc mình 8 trước kẻ thù xâm lược. Những ngày hôm nay biết bao người dân Việt Nam ở hải ngoại vẫn khát khao muốn hành hương tìm về cội nguồn, tìm về bản sắc văn hóa dân tộc [22]. Thông qua các định nghĩa nêu trên có thể thấy rằng văn hóa dân tộc của người M’Nông bao gồm nhiều yếu tố văn hóa phi vật thể, vật thể như trang phục, ẩm thực, phong tục tập quán, các nét văn hóa dân gian của chính họ. 1.1.2. Khái niệm về bản sắc văn hóa Cốt lõi của văn hóa là bản sắc văn hóa dân tộc. Nó được thể hiện qua sắc thái văn hóa và những nét văn hóa như đạo đức, lối sống, trang phục, phong tục tập quán, lễ hội…có trong văn hóa phi vật thể và văn hóa vật thể. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp nên trong lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, hình thành qua nhiều thế hệ, nấc thang biến đổi, phát triển. Vì thế, nó kết tinh những gì đặc sắc nhất, đẹp đẽ nhất, độc đáo nhất của các cộng đồng dân tộc Việt Nam, nó có giá trị bền vững, trường tồn cùng thời gian, nó như chất keo kết nối cộng đồng người gắn bó với nhau, để cùng tồn tại và phát triển. Biểu hiện cụ thể của nó là: Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống...[20]. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là tài sản vô giá; là linh hồn của dân tộc được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với bao biến cố thăng trầm của lịch sử; được viết lên bằng máu, nước mắt và mồ hôi của cả dân tộc Việt Nam. Tất cả những yếu tố đó đã tô thắm nét đẹp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, khắc sâu trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam. Như vậy, bản sắc văn hoá phải là những nét đặc trưng, độc đáo và cơ bản nhất để nhận diện một nền văn hoá và để phân biệt nền văn hoá này với một nền văn hoá khác. 9 Thông qua những phân tích của các định nghĩa trên có thể nói rằng bản sắc văn hóa của người M’Nông có thể hiểu là những gì đặc trưng nhất, căn bản nhất để phân biệt với bản sắc văn hóa các dân tộc khác. Bản sắc văn hóa của người M’Nông đó chính là tính cộng đồng rất cao, nó được thể hiện qua những giá trị của các nét văn hóa, sắc thái văn hóa trong cuộc sống, lao động hằng ngày của chính cộng đồng người M’Nông. 1.1.3. Khái niệm về dân tộc thiểu số Cho đến thời điểm này, vẫn chưa có một định nghĩa nào về “dân tộc thiểu số” (minorities) được chính thức xác nhận trong bất cứ văn kiện quốc tế nào của Liên Hợp Quốc. Mỗi quốc gia đều có nét đặc thù riêng, mang bản sắc và hình ảnh đặc trưng, do vậy cách hiểu và quan điểm về vấn đề DTTS đều khác nhau. Ở Việt Nam, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng dân tộc thì khái niệm “dân tộc thiểu số” không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc mà chỉ mang ý nghĩa đơn thuần về mặt số lượng. Khái niệm “dân tộc thiểu số”, có lúc, có nơi, nhất là trong những năm trước đây còn được gọi là “dân tộc ít người”. Nghị định 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân tộc đưa ra khái niệm tại Khoản 2- Điều 4 "DTTS là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước CHXHCNVN"; khoản 3 - Điều 4: "Dân tộc đa số là dân tộc có số dân chiếm trên 50% tổng số dân của cả nước theo điều tra dân số quốc gia"[12]. Dân tộc thiểu số được định nghĩa tại Khoản 2 Điều 4 Nghị định 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc như sau: “Dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [10]. Như vậy, có thể hiểu, dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít, chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong một quốc gia đa dân tộc. 1.1.4. Khái niệm về hệ thống chính trị Hệ thống chính trị bao gồm toàn bộ các tổ chức chính trị, được lập ra để thực hiện quyền lực chung của xã hội - quyền lực chính trị. 10 Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp theo quy định và có mối quan hệ với nhau trong một hệ thống có tổ chức nhằm thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ được quy định đối trong đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với chế độ và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Có thể nói hệ thống chính trị ở nước ta là tổ chức của chính trị và dân chủ, được xác lập bởi tổ chức và hoạt động của một hệ thống thống nhất các thiết chế bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội khác có trách nhiệm và quyền hạn thực hiện quyền lực chính trị theo ủy quyền của nhân dân, phát huy dân chủ để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng của chủ nghĩa xã hội theo dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Theo quy định tại Hiến pháp năm 2013, hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm: - Đảng Cộng sản Việt Nam (là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội); - Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; - Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; - Các tổ chức chính trị - xã hội khác (Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam). - Ở nước ta thì hệ thống chính trị được được tổ chức theo theo một hệ thống từ địa phương đến trung ương [24]. Hệ thống chính trị tại xã Quảng Sơn bao gồm: Đảng ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ Việt Nam, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Công đoàn cấp xã; các chi bộ, ban tự quản, chi đoàn thanh niên, chi hội phụ nữ, chi hội hội cựu chiến binh, chi hội nông dân, ban công tác mặt trận của các thôn/bon, các chi bộ trường học, cơ quan, quân sự trực thuộc. 11 1.2. Chính sách của Đảng và Nhà nƣớc trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc 1.2.1. Chủ trương và chính sách của Đảng Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã đi vào cuộc sống 15 năm, được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đồng tình ủng hộ, được cả hệ thống chính trị quan tâm, tổ chức thực hiện. Có thể nói, nó không chỉ là một văn kiện mang tính đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, mà còn thể hiện tư duy lý luận văn hóa một cách toàn diện và sâu sắc trong giai đoạn cách mạng mới. Thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong 15 năm qua đã gợi mở thêm nhiều vấn đề mới cần được nghiên cứu để bổ sung và phát triển tại Hội nghị Trung ương 9 khóa XI tới đây. Đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam được xác định tại Đề cương văn hóa Việt Nam (1943): “Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hóa)”; “Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa…”; “Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả” và “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội…”; “Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”. Mục tiêu trước mắt mà Đề cương văn hóa Việt Nam đề ra là xây dựng nền văn hóa mới dân tộc, khoa học, đại chúng và mục tiêu lâu dài là xây dựng “văn hóa xã hội chủ nghĩa”. Muốn xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng phải nắm vững ba nguyên tắc: dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa. Đường lối ấy được bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội, hội nghị Trung ương từ khóa I đến khóa VIII. Nhưng có thể nói đến Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) mới là văn kiện đánh dấu sự phát triển toàn diện đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Sự phát triển toàn diện ấy được thể hiện ở các điểm chủ yếu sau đây: 12 Từ nhận thức văn hóa, bao gồm tư tưởng, học thuật, nghệ thuật (Đề cương văn hóa Việt Nam 1943) đến văn hóa bao gồm: tư tưởng, đạo đức, lối sống, khoa học, giáo dục - đào tạo, thông đại chúng, văn học - nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng… Từ nền văn hóa mới: dân tộc, khoa học, đại chúng; dân tộc là hình thức, tân dân chủ là nội dung (1943); là nền văn hóa “có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc”(1982) đến nền văn hóa mang tính dân tộc, hiện đại, nhân văn (Hiến pháp 1992) và xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII 1998). Từ quan niệm “phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội” (1943); cách mạng tư tưởng - văn hóa là động lực (Đại hội IV) đến văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội (Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII). Từ ba nguyên tắc vận động cách tân văn hóa: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa (1943); tiến hành cách mạng XHCN trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội: kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước; “tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao” [3]. “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” (Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII) [2]. 13 Hội nghị Trung ương 2 khóa IX, phát triển đầy đủ thành 10 nhiệm vụ cụ thể trên tất cả các lĩnh vực văn hóa, từ xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam trong giai đoạn mới, xây dựng môi trường văn hóa; xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống; phát triển văn học, nghệ thuật; bảo tồn và phát huy di sản văn hóa; phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ; phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; thực hiện chính sách văn hóa đối với tôn giáo đến củng cố, xây dựng, hoàn thiện thể chế văn hóa và mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa (Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII). Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã nêu lên bốn giải pháp cơ bản để xây dựng và phát triển văn hóa [2]: Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa. Chú trọng và huy động nguồn lực, vật chất phục vụ cho hoạt động văn hóa. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Thông qua đó có thể thấy, các nội dung của Nghị quyết đã kịp thời định hướng, thể hiện được quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng, khôi phục, phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời đại, đáp ứng với nhu cầu và nguyện vọng của đại đa số nhân dân Việt Nam. Nhận thức được điều này, ngay từ Đại hội VIII, Đảng và Nhà nước đã thông qua nghị quyết số 03/NQ-TW tại hội nghị lần thứ năm của Ban chấp hành Trung ương Đảng vào ngày 16/07/1998 về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Trong phần xác định phương hướng, nhiệm vụ, ban chấp hành trung ương Đảng đã nhận ra “Nền văn hoá Việt Nam là nên văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam”, từ đó đặt ra một trong các nhiệm vụ cụ thể là “bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số. Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, 14 phát triển những giá trị mới về văn hoá, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số”. + Hội nghị lần thứ chín của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI nhấn mạnh mục tiêu [7]: Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước. Việc kiến tạo ra môi trường lành mạnh, phù hợp sự phát triển của văn hóa hòa cùng dòng chảy của kinh tế, cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ thống chính trị, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách. Bên cạnh đó cũng ràng buộc những yếu tố liên quan đến văn hóa như quy định, thế chế, cơ chế đặc thù để bảo đảm quá trình khôi phục, phục dựng, phát triển, kế thừa văn hóa được thực hiện triệt để và có hiệu quả. Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam. Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội. 1.2.2. Một số quy định của Nhà nước trong công tác bảo tồn, giữ gìn, phát triển văn hóa các dân tộc + Bộ luật tố tụng hình sự 2003, tiếp tục khẳng định quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, ghi nhận quyền được sử dụng tiếng nói và chữ viết của đồng bào DTTS trong tố tụng hình sự. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan