Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở việt nam...

Tài liệu Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở việt nam

.PDF
93
484
136

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRƯƠNG THỊ THÙY DUNG VAI TRß CñA T¦ PH¸P TRONG VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI ë VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRƯƠNG THỊ THÙY DUNG VAI TRß CñA T¦ PH¸P TRONG VIÖC B¶O VÖ QUYÒN CON NG¦êI ë VIÖT NAM Chuyên ngành: Pháp luật về Quyền con người Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trương Thị Thùy Dung MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN TƯ PHÁP ........................................................................ 11 1.1. Khái quát về quyền con người ............................................................. 11 1.1.1. Khái niệm, đặc trưng về quyền con người .............................................. 11 1.1.2. Cách thức ghi nhận các quyền con người ............................................... 15 1.2. Khái quát về quyền tư pháp ................................................................ 17 1.2.1. Quan niệm chung về quyền tư pháp ....................................................... 17 1.2.2. Các đặc trưng của quyền tư pháp............................................................ 19 1.2.3. Tính độc lập của quyền tư pháp .............................................................. 21 1.3. Vai trò tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ........................... 26 1.3.1. Mối quan hệ giữa quyền tư pháp với việc bảo vệ quyền con người......... 26 1.3.2. Các đặc trưng cơ bản của việc bảo vệ quyền con người bằng tư pháp..... 29 1.3.3. Một số vai trò cụ thể của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người..... 31 1.4. Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người theo luật quốc tế ..... 37 Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM............................. 42 2.1. Khái quát hệ thống tư pháp ở Việt Nam ............................................. 42 2.2. Thực trạng bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam ............................................................................................... 44 2.2.1. Đánh giá chung ...................................................................................... 44 2.2.2. Những điểm còn hạn chế và nguyên nhân .............................................. 48 Chương 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TƯ PHÁP TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................ 57 3.1. Một số quan điểm nhằm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam.................................................... 57 3.1.1. Sự cần thiết phải nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ..................................................................................... 57 3.1.2. Một số quan điểm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam ................................................................. 58 3.1.3. Những phương hướng cơ bản cho cải cách tư pháp ................................ 61 3.2. Một số giải pháp nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam ............................................................... 65 3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ............................................................................................... 65 3.2.2. Hoàn thiện pháp luật bảo đảm vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ..................................................................................... 67 3.2.3. Nâng cao tính độc lập của tư pháp .......................................................... 75 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 86 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cả trong lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, trong mối quan hệ giữa nhà nước với công dân, thì các nhánh quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) đều rất dễ có xu hướng lạm dụng quyền lực, xâm hại các quyền con người, cụ thể: Đối với nhánh lập pháp: với nhiệm vụ là xây dựng những chính sách, quy tắc điều chỉnh hành vi của con người, liệu hệ thống pháp luật có đầy đủ và tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ quyền con người hay chưa? Các nội dung Quy định của pháp luật thật ra là đang bảo vệ hay hạn chế quyền con người? Bởi, quyền con người, theo học thuyết về quyền tự nhiên thì mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng, là bẩm sinh, vốn có của con người. Đối với nhánh hành pháp: có một điều rất dễ nhận thấy, đó là, từ khi sinh ra cho đến khi mất đi, tất cả những hoạt động của con người hầu như gắn liền với các cơ quan quản lý nhà nước. Trên thực tế, vấn đề vi phạm những quyền lợi chính đáng, thiết thân của con người trong lĩnh vực quản lý, hành chính nhà nước là câu chuyện đã được truyền thông, báo chí phản ánh rất nhiều với những bức tranh hiện thực muôn màu. Nhận thức được điều này, công cuộc cải cách thủ tục hành chính đã được Đảng và nhà nước tiến hành trong hơn 10 năm qua và đã thu được nhiều kết quả, phản hồi tích cực. Đối với nhánh tư pháp: mặc dù chúng ta cũng đã tiến hành cải cách tư pháp từ sau Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, đặc biệt là Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02-06-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nhưng những kết quả đạt được còn rất ít. Chính vì những đổi mới về nhận thức, lý luận và áp dụng trong hệ thống tư pháp các cấp còn hạn chế nên quyền con người trong lĩnh vực tư pháp thường bị vi phạm rất nhiều. 1 Khác với lĩnh vực hành pháp, trong lĩnh vực tư pháp, hậu quả của hành vi lạm quyền, xét xử không theo nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật thường là rất nghiêm trọng vì nó liên quan đến uy tín, danh dự, nhân phẩm, vận mệnh và có thể cả là tính mạng, sự sống của con người, của đời người. Các bản án oan, sai, xét xử không đúng hạn, vi phạm các thủ tục tố tụng, vi phạm quyền con người là câu chuyện không còn xa lạ trong đời sống của chúng ta. Vì sao hệ thống tư pháp lại còn nhiều bất cập đến vậy? Đó là do các nhánh quyền lực nhà nước còn chưa độc lập, còn chồng chéo lẫn nhau. Quyền lực nhà nước của chúng ta không được tổ chức theo nguyên tắc phân quyền như nhiều nước khác trên thế giới. Chúng ta đang chủ trương kiên trì con đường xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền nghĩa là phải tôn trọng và bảo vệ các quyền con người và tư pháp phải độc lập. Hiện nay chúng ta chưa thể có tư pháp độc lập khi mà cả lập pháp, hành pháp và tư pháp vẫn theo cách phân công phân nhiệm chứ không phải phân quyền. Quyền lực nhà nước vẫn theo nguyên tắc tập quyền, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhưng thực sự nhân dân có làm chủ quyền đó hay không khi mà chỉ thông qua cơ quan đại diện của nhân dân là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp mà trong đó nhân dân với tư cách “người làm chủ” không được quyền bãi nhiệm người đại diện của mình. Việc phân công, phối hợp quyền lực nhà nước giữa quyền tư pháp với các quyền lập pháp và hành pháp cần phải bảo đảm nguyên tắc độc lập của tư pháp. Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của tòa án nước ta chưa bảo đảm được tính độc lập. Tư pháp chưa thể độc lập khi mà hệ thống tòa án còn được tổ chức theo các cấp quản lý hành chính, bị chi phối, tác động theo các cấp ủy, Đảng địa phương. Vì vậy, có thể nói, quyền con người trong lĩnh vực tư pháp của chúng ta hiện nay chưa được đảm bảo, chưa có cơ chế bảo vệ hữu hiệu và vẫn còn bộc lộ những bất cập cả về lý luận cũng như hoạt động thực tiễn. Những bất cập này đã ít nhiều gây thiệt hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp 2 pháp của công dân; vi phạm đến các vấn đề về dân chủ, công bằng, bình đẳng trong xã hội; làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là nguyên cớ để các thế lực thù địch tìm cách chống phá lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đang tích cực triển khai những nhiệm vụ khác nhau nhằm hiện thực hóa việc xây dựng nhà nước pháp quyền, là một mô hình tổ chức nhà nước chống lại sự lạm quyền, đề cao, bảo vệ và tôn trọng các quyền con người. Quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền đòi hỏi chính quyền phải chịu sự kiểm soát của pháp luật. Nhà nước pháp quyền yêu cầu chính quyền phải chịu sự ràng buộc bởi pháp luật để bảo vệ con người, trong đó tư pháp là lĩnh vực có chức năng đảm bảo cho pháp luật được thực hiện và bảo vệ con người. Do đó, việc xây dựng nhà nước pháp quyền không thể tách rời với quá trình xây dựng, cải cách nền tư pháp, hướng tới một nền tư pháp công minh, độc lập, hiệu quả, bảo vệ các quyền con người. Chính vì vậy, để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, chúng ta cần phải đẩy mạnh cải cách tư pháp, hướng tới một nền “tư pháp độc lập” nhằm “bảo vệ các quyền con người, quyền công dân”. Trên thực tế, thời gian vừa qua công luận đã liên tiếp đưa ra ánh sáng tình trạng bắt người tùy tiện, bắt oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người không có căn cứ, khởi tố điều tra sai, khởi tố điều tra khi không đủ căn cứ dẫn đến xâm hại nghiêm trọng đến nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do hoạt động tố tụng là việc đi ngược dòng thời gian để tìm ra sự thật khách quan, song nhận thức của con người là có hạn nên một số trường hợp không thể hoặc chưa thể truy ra sự thật. Tuy nhiên, dưới sức ép không để lọt tội phạm dễ dẫn đến hiện tượng “giết nhằm hơn bỏ sót”, vậy là oan sai lại xảy ra. Nguyễn Thanh Chấn (ở tù oan hơn 10 năm) là một điển hình của việc này. Vì tâm lý “sợ lọt tội phạm” nên nhiều vụ án chưa đủ chứng cứ để kết tội 3 đáng lẽ ra phải tuyên bị cáo vô tội và trả tự do; vậy mà tòa tuyên trả hồ sơ điều tra bổ sung (bị cáo vẫn không được trả tự do), thậm tệ hơn là đưa ra bản án “an toàn” là chung thân trong những vụ án chỉ có thể tử hình hoặc vô tội, Kỳ án Vườn Mít là một ví dụ. Theo quy định của Bộ luật Hình sự 2003, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội – nghĩa là bị can, bị cáo có quyền im lặng trong khâu chứng minh mình vô tội. Tuy nhiên trên thực tế chỉ vì im lặng mà xảy ra những cái chết đau lòng tại trụ sở công an. Vụ án 05 công an đánh chết nghi can trong quá trình điều tra ở Phú Yên trong thời gian vừa qua là một minh chứng. Thực tế cho thấy vấn đề đảm bảo quyền con người nói chung và đảm bảo quyền con người trong hoạt động tư pháp ở nước ta tuy đang từng bước được củng cố và đã trở thành một trong những tiêu chí quan trọng trong việc đánh giá về sự công bằng, dân chủ và tiến bộ trong xã hội, tuy nhiên còn bộc lộ nhiều bất cập, thiếu sót, hạn chế, lý thuyết và là nội dung khá mới mẻ trong nhận thức của công dân, trong hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý cũng như trong việc tổ chức thực hiện trên thực tế. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận lẫn hoạt động thực tiễn để góp phần thiết thực vào việc đảm bảo quyền con người nói chung và quyền con người trong hoạt động tư pháp nói riêng, làm cơ sở cho việc thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Chính vì những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu về tư pháp và quyền con người nói chung, về bảo đảm quyền con người bằng hoạt động tư pháp trong nhà nước pháp quyền nói riêng, chẳng hạn như: 4 - Bài viết: Vai trò của tư pháp độc lập của tác giả Philippa Strum, được dịch và in trong cuốn Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến: Một số tiểu luận của học giả nước ngoài, NXB Lao động xã hội (2012), đã chứng minh những đóng góp quan trọng của nhánh quyền lực tư pháp trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở Hoa Kỳ. - Bài viết: Tầm quan trọng của tư pháp độc lập của tác giả Sandra Day O’Connor, được dịch và in trong cuốn Về pháp quyền và chủ nghĩa hợp hiến: Một số tiểu luận của học giả nước ngoài, NXB Lao động xã hội (2012), đã cho thấy tính phổ biến của tư pháp độc lập trong việc bảo vệ quyền con người, thông qua hoạt động xét xử. - Ấn phẩm: Phương thức hoạt động của tòa án Hoa Kỳ của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (1999) bao gồm nhiều bài viết của nhiều tác giả về các phương diện của hệ thống tư pháp Hoa Kỳ, trong đó chủ yếu đều cập đến lịch sử hình thành và phát triển của nền tư pháp Hoa Kỳ, những thành tựu của Hiến pháp Hoa Kỳ trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Bên cạnh đó, ấn phẩm này cũng cung cấp những kinh nhiệm quý báu trong việc bảo đảm sự vô tư, khách quan của thẩm phán bằng hệ thống đạo đức nghề nghiệp của thẩm pháp và phương thức kỷ luật thẩm phán trong hệ thống tư pháp Hoa Kỳ. 2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về tư pháp, cải cách tư pháp và quyền con người, có thể kể ra một số nghiên cứu sau: Một số sách, công trình nghiên cứu: - Lê Cảm – Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên) (2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Tác phẩm đã tình bày những vấn đề cơ bản cần đặt ra trong quá trình cải cách tư pháp trong mối quan hệ với những yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về tổ chức, hoạt động của quyền tư pháp; vị trí, vai 5 trò và đặc điểm của mối quan hệ giữa các thiết chế bên trong cũng như mối quan hệ giữa quyền lực tư pháp với quyền lập pháp và hành pháp. - Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2004), Thể chế tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, NXB Tư pháp, Hà Nội. Tác phẩm đã đề cập đến vấn đề lý luận về thể chế tư pháp, thể chế tư pháp ở nhà nước pháp quyền dân chủ và thể chế tư pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. - Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực Nhà nước, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. - Nguyễn Đăng Dung (chủ biên) (2012), Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Tác phẩm đã phân tích và làm rõ cơ sở lý luận về vị trí, vai trò của tòa án, phạm vi của hoạt động xét xử cũng như tầm quan trọng của độc lập tư pháp trong nhà nước pháp quyền. - Phạm Hồng Thái – Nguyễn Sĩ Dũng – Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao – Hoàng Minh Hiếu – Đặng Minh Tuấn (đồng chủ biên) (2012), Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Hồng Đức, Hà Nội. Tác phẩm này gồm nhiều chuyên luận có giá trị tham khảo rất lớn của các nhà nghiên cứu trong nước về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền, các yêu cầu cần phải đảm bảo trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp. - Nguyễn Đăng Dung – Phạm Hồng Thái – Lã Khánh Tùng – Vũ Công Giao (đồng chủ biên) (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội. - Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên) (2011), Giáo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Tác phẩm đã cung cấp một khối lượng kiến thức trọng tâm về pháp luật về quyền con người, nhằm đưa đến cho người đọc một sự hiểu biết toàn diện và khái quát nhất. 6 - Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân (2012), Giới thiệu Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR, 1966), NXB Hồng Đức, Hà Nội. Tác phẩm đã cung cấp những phân tích sâu sắc về nội hàm của các quyền con người, đồng thời cũng trình bày sơ lược về quá trình phát triển của các quyền con người. - Nguyễn Đăng Dung – Phạm Hồng Thái – Lã Khánh Tùng – Vũ Công Giao (đồng chủ biên) (2012), Tuyển tập Hiến pháp của một số quốc gia, NXB Hồng Đức, Hà Nội. - Gudmundur Alfredsson – Asbjorn Eide (đồng chủ biên) (1999), The Universal Declaration of Human rights: A common standard of Achivement (Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền 1948 – Mục tiêu chung của Nhân loại), NXB Martinus Nijhoff. Một số bài viết: - Lê Cảm (2006), “Tổ chức quyền tư pháp, yếu tố quan trọng nhất đảm bảo cho thành công của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, Nhà nước và pháp luật, (5). - Ngô Huy Cương (2003), “Tổ chức tư pháp hướng tới Nhà nước pháp quyền: Một số vấn đề cơ bản”, Nhà nước và pháp luật, (7). - Nguyễn Đăng Dung (2007), “Trọng tâm của công tác cải cách tư pháp hiện nay là bảo đảm cho nguyên tắc độc lập có hiệu lực trên thực tế”, Dân chủ và Pháp luật, (178). - Nguyễn Hải Ninh (2008), “Cải cách tư pháp ở Canada, Trung Quốc và Nhật Bản”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1 năm 2008. Những công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập, phân tích rất sâu những khía cạnh của nhà nước pháp quyền; vị trí, vai trò của tư pháp trong nhà nước pháp quyền và yêu cầu của tư pháp độc lập nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ công lý và pháp luật; những yêu cầu và định hướng cải cách tư pháp 7 nhằm đảo bảo yêu cầu trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, vẫn chưa đề cập đến vai trò cụ thể của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người, cả trong lý luận và thực tiễn qua hoạt động xét xử của tòa án ở Việt Nam. Cho nên, luận văn này là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Phân tích mối quan hệ, vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn phải giải quyết được các nhiệm vụ như sau: - Làm rõ nội hàm và các đặc trưng của khái niệm nhà nước pháp quyền, quyền con người và quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền. - Phân tích các yêu cầu, đặc trưng và các nội dung vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ quyền con người ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tư pháp, quyền con người trong nhà nước pháp quyền. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những nội dung về quyền tư pháp, quyền con người trong nhà nước pháp quyền, vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người theo những tiêu chuẩn chung của pháp luật thế giới và được áp dụng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. 8 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam về hệ thống pháp luật và quyền con người. Quan điểm của Liên hợp quốc về vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người. Các phương pháp được sử dụng trong luận văn này bao gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và khảo cứu tài liệu. Cách tiếp cận của luận văn bao gồm: triết học, chính trị học và luật học. 6. Những nét mới của luận văn Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư pháp và quyền con người ở Việt Nam, nhưng chưa có công trình nào phân tích toàn diện và thấu đáo về mối quan hệ, vai trò của tư pháp độc lập trong việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con người. Luận văn này góp phần khỏa lấp khoảng trống đó, bổ sung cho các nghiên cứu hiện hành về hai lĩnh vực này ở Việt Nam. Tuy vậy, các công trình đã nghiên cứu sẽ là những tài liệu tham khảo quan trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn. 7. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề cải cách hoạt động tư pháp, nâng cao chất lượng hệ thống tư pháp nhằm bảo vệ hiệu quả những quyền cơ bản của công dân nói riêng và quyền con người nói chung. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy, nghiên cứu ở khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác ở Việt Nam. Ngoài ra, luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu, hội thảo, chuyên đề có liên quan đến vấn đề tư pháp và quyền con người. 9 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết như sau: - Chương 1. Một số vấn đề lý luận về quyền con người và quyền tư pháp. - Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam. - Chương 3. Một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của tư pháp trong việc bảo vệ các quyền con người ở Việt Nam hiện nay. 10 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN TƯ PHÁP 1.1. Khái quát về quyền con người 1.1.1. Khái niệm, đặc trưng về quyền con người Quyền con người là một khái niệm tiến triển theo thời gian. Sự phát triển của nó “gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của các tôn giáo, tư tưởng, tập quán và pháp luật trong các giai đoạn lịch sử của nhân loại” [14, tr.19]. Trong thời kì cổ và trung đại, các giáo lý của một số tôn giáo lớn như Phật giáo, Thiên chúa giáo và Hồi giáo đều đã chứa đựng những tư tưởng có ý nghĩa đạo đức về bình đẳng, hạnh phúc và tự do. Một số bộ luật cổ còn lưu giữ lại được như Bộ luật Hammurabi cổ đại (khoảng 1780 tr.CN), Bộ luật của Cyrus Đại đế (khoảng 550 tr.CN), Bộ luật Ashoka (khoảng 273-231 tr.CN),… đã đề cập đến việc bảo vệ các quyền lợi chính đáng của con người. Trong các tác phẩm của mình, các nhà tư tưởng có ảnh hưởng trong thời kì này như Aristotle, Platon, Khổng Tử, Mặc Tử,… đều đã đề cập đến những khía cạnh về sự bình đẳng, tự do và các quyền của con người. Tiếp theo, cho đến trước cách mạng tư sản, nhiều văn kiện như Đại Hiến chương Anh (Magna Carta, 1215), Bộ luật về Quyền của Anh (Bill of Rights, 1689),… đã chứa đựng những quy định nhằm bảo vệ nhân phẩm của con người – “chịu ảnh hưởng của các tư tưởng nhân văn trong các học thuyết tôn giáo” [14, tr.20]. Thời kỳ Khai sáng và cách mạng tư sản, tư tưởng về quyền con người đã đánh dấu một bước phát triển mới. Nhiều tư tưởng, học thuyết tiến bộ về chính trị – xã hội ra đời hoặc hồi sinh, nổi bật trong số đó là tư tưởng về quyền tự nhiên (natural rights) với một số học giả tiêu biểu như Thomas Hobbes, John 11 Locke, Thomas Paine,… Họ cho rằng: “quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại” [14, tr.20]. Điều này cũng có thể được hiểu rằng, các quyền con người “không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào” [12, tr.39]. Cho nên, không một chủ thể nào, kể cả nhà nước có quyền ban phát hay tước bỏ các quyền gắn với con người này. Ngược lại, các nhà tư tưởng về học thuyết quyền pháp lý (legal rights) với đại diện Edmund Burke và Jeremy Bentham lại cho rằng: “quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa” [12, tr.39]. Những tư tưởng trong thời kì Khai sáng nêu trên đã có những tác động, ảnh hưởng to lớn đến các cuộc cách mạng tư sản – với ngọn cờ quyền con người nhằm chống lại xã hội phong kiến thần quyền. Sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789), hay Bộ luật về Quyền của Mỹ (1791) đã khẳng định quyền con người như một chân lý tự nhiên rằng: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [15, tr.115]. “Con người sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do, bình đẳng về quyền lợi” [15, tr.119]. Từ thế kỉ XIX cho đến nay, quyền con người càng trở nên phổ biến, được thừa nhận và tuân thủ bởi nhiều quốc gia trên thế giới, bất chấp sự khác biệt về thể chế chính trị, hệ tư tưởng, truyền thống văn hóa và pháp luật. Cùng với sự ra đời của những khái niệm khác có liên quan đến quyền con người như dân chủ, phát triển, hòa bình, an ninh,… làm cho “quyền con người trở thành một trong những khái niệm được đề cập, chấp nhận và cổ vũ một cách rộng khắp, thường xuyên và nồng nhiệt nhất hiện nay” [12, tr.56]. 12 Mặc dù có một quá trình phát triển lâu dài như đã trình bày ở trên, vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về quyền con người, bởi đây là một phạm trù đa diện, đa ngành. Với mỗi cách tiếp cận (luật học, chính trị học, triết học, văn hóa học, đạo đức, tôn giáo,…) ta lại có một định nghĩa hoặc khái niệm riêng. Năm 1994, theo một tài liệu của Liên hợp quốc cho thấy “có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố” [12, tr.37]. Đầu tiên phải kể đến định nghĩa được đưa ra bởi Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc – định nghĩa này cũng thường được trích dẫn bởi nhiều nhà nghiên cứu, đó là: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [12, tr.37]. GS. TS Nguyễn Đăng Dung – một người có nhiều năm kinh nghiệm nghiên cứu trong lĩnh vực quyền con người lại đưa ra một định nghĩa như sau: Quyền con người là những quyền cơ bản nhất của con người, được có một cách tự nhiên, gắn bó mật thiết với con người – một động vật cao cấp có lý trí và có tình cảm, làm cho con người khác với các động vật khác, mà nhà nước thành lập với một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình là phải bảo vệ những quyền đó [4]. Từ hai định nghĩa nêu trên, có thể rút ra được một số khía cạnh chung về cách hiểu, nhận thức về quyền con người là: thứ nhất, quyền con người là những quyền cơ bản, gắn với cá nhân con người, xuất phát từ phẩm giá vốn có của họ mà không có bất kì sự phân biệt nào. Nhờ những quyền đó con người mới tồn tại và phát triển được bản thân trong đời sống cộng đồng; thứ hai, các quyền con người yêu cầu phải được pháp luật ghi nhận và bảo đảm – đây chính là công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ các quyền con người, ở cả phạm vi quốc gia và quốc tế. Về các đặc trưng của quyền con người, theo cách hiểu hiện nay của luật nhân quyền quốc tế, quyền con người có bốn đặc trưng cơ bản, đó là: 13 Thứ nhất, tính phổ biến (universal). Theo đặc trưng này, “quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại mà không có bất cứ sự phân biệt nào về chủng tộc, màu da, tôn giáo, xuất thân,…” [12, tr.41] Tuy nhiên, sự bình đẳng ở đây không phải là cào bằng mức độ hưởng thụ, mà bình đẳng về tư cách chủ thể, và bình đẳng về cơ hội để thụ hưởng các quyền con người. Thứ hai, tính không thể phân chia (indivisible). Đặc trưng này chỉ ra các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, không quyền nào được coi là có giá trị hơn quyền nào. Bất kì một sự tước bỏ hay hạn chế quyền con người nào đều sẽ gây ra những “tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người” [12, tr.42]. Mặc dù vậy, trong những điều kiện, hoàn cảnh thực tế, tùy theo những yêu cầu cụ thể mà có những quyền được ưu tiên thực hiện. Chẳng hạn như trong chiến tranh, bệnh dịch, hay đói nghèo thì các quyền như quyền sống, quyền về y tế, quyền về lương thực sẽ được ưu tiên thực hiện hơn các quyền con người khác. Thứ ba, tính không thể tước bỏ (inalienable). Về cơ bản, các quyền con người là các quyền nhân thân, nó gắn liền với các cá nhân, cho nên không một chủ thể nào, kể cả cơ quan nhà nước có thể tùy tiện tước đoạt hay giới hạn. Sự tước đoạt hay giới hạn phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt của pháp luật – được thừa nhận chung bởi các quốc gia trên thế giới. Ví dụ như, trong tình trạng khẩn cấp quốc gia (state emergency) thì một số quyền con người có thể bị giới hạn, như quyền tự do đi lại, quyền hội họp, biểu tình,… hoặc khi một cá nhân vi phạm những tội ác nghiêm trọng nhất, quyền sống của cá nhân đó có thể sẽ bị tước đoạt (hình phạt tử hình). Thứ tư, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated & interdependent). Đặc trưng này nói lên rằng các quyền con người có mối liên hệ phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau: “Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây 14 ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặ gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác” [12, tr.43]. 1.1.2. Cách thức ghi nhận các quyền con người Trong một nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân là bình đẳng dựa trên cơ sở của pháp luật, và Hiến pháp – bản khế ước thể hiện sự đồng thuận của những người bị trị – đóng vai trò rất quan trọng. Các quyền con người, quyền công dân, thường là một phần trong các bản Hiến pháp. Chẳng hạn, Bộ luật về Quyền của Mỹ (Bill of Rights, 1791) chính là 10 Tu chính án Hiến pháp đầu tiên, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1789) chính là một phần của Hiến pháp Pháp, hay Bộ luật về Quyền của Anh (Bill of Rights, 1689) là một nguồn của Hiến pháp Anh. Các bản Hiến pháp cổ điển này chủ yếu quy định các quyền dân sự và chính trị. Ngày nay, các bản Hiến pháp hiện đại đã mở rộng phạm vi các quyền con người, ghi nhận thêm cả các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội, và cả quyền của các nhóm yếu thế (chẳng hạn như phụ nữ, trẻ em, người thiểu số…). Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân được ghi nhận tại Chương II Hiến pháp 2013, chia thành các nhóm quyền như sau: thứ nhất, các quyền dân sự, chính trị như: quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng; quyền tự do đi lại và lựa chọn nơi ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin; quyền lập hội, hội họp; quyền được bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý đất nước;… thứ hai, các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội như: quyền làm việc; quyền học tập; quyền được chăm sóc sức khỏe; các quyền về an sinh xã hội;… Ngoài ra, các đạo luật, luật cũng đã cụ thể hóa các quyền con người trong Hiến pháp vào các lĩnh vực pháp lý cụ thể, chẳng hạn như quyền con người 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan