Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính từ thực tiễn tỉnh qu...

Tài liệu Vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính từ thực tiễn tỉnh quảng nam .

.PDF
87
225
53

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HỒ THANH VẤN VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HỒ THANH VẤN VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS VŨ VĂN NHIÊM HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học viện Khoa học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn./. NGƯỜI CAM ĐOAN Hồ Thanh Vấn MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH .............................................................5 1.1. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính .............................5 1.2. Vai trò của VKSND trong thụ lý giải quyết vụ án hành chính ............................9 1.3. Vai trò của VKSND trong giai đoạn đối thoại vụ án hành chính ......................17 1.4. Vai trò của VKSND trong giai đoạn xét xử vụ án hành chính ..........................22 1.5. Vai trò của VKSND trong giai đoạn kiến nghị, kháng nghị vụ án hành chính .27 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VKSND TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM. ........................................................................................................33 2.1. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn thụ lý vụ án hành chính ...............................................33 2.2. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn đối thoại ......................................................................43 2.3. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn xét xử vụ án hành chính ..............................................46 2.4. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn kiến nghị, kháng nghị vụ án hành chính ......................58 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH ........................................................................................................61 3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng vai trò của VKSND trong tố tụng hành chính ..........................................................................................................................61 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính .................................................................................................................64 KẾT LUẬN ..............................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt STT Nghĩa đầy đủ 1 BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự 2 HĐTP Hồi đồng thẩm phán 3 HP Hiến pháp 4 HVHC Hành vi hành chính 5 KSV Kiểm sát viên 6 KTV Kiểm tra viên 7 Luật TCVKSND Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 8 Luật TTHC Luật Tố tụng hành chính 9 NQ Nghị quyết 10 PL Pháp lệnh 11 QĐHC Quyết định hành chính 12 TA Toà án 13 TAND Toà án nhân dân 14 TANDTC Toà án nhân dân tối cao 15 TTGQCVAHC Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 16 TTLT Thông tư liên tịch 17 UBKS Uỷ ban kiểm sát 18 UBND Uỷ ban nhân dân 19 VAHC Vụ án hành chính 20 VKS Viện kiểm sát 21 VKSND Viện kiểm sát nhân dân 22 VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao 23 XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Sự cấp thiết của đề tài Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đặt ra yêu cầu: “Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, đảm bảo sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án”. Theo Hiến pháp và pháp luật quy định mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và do đặc thù của các khiếu kiện hành chính là khiếu kiện giữa bên là cá nhân, cơ quan, tổ chức với một bên là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Để thực hiện tốt chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước thể hiện trong Hiến pháp cũng như trong Nghị quyết, góp phần đảm bảo việc giải quyết vụ án hành chính được khách quan, chính xác, kịp thời, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính của Viện kiểm sát phải được quan tâm, chú trọng. Luật Tố tụng hành chính năm 2015 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII ngày 25/11/2015 với nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung trong đó có các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hành chính, trực tiếp liên quan đến việc thực hiện chức năng kiểm sát giải quyết vụ án hành chính. Các quy định của Luật Tố tụng hành chính tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân, xác định VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng, Viện trưởng VKSND, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên là người tiến hành tố tụng, VKS có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hành chính kịp thời đúng pháp luật. Hiện nay, vẫn có nhiều quan điểm khác nhau về nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi tố tụng của Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên của Viện kiểm sát trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án hành chính. Để làm rõ vai trò, đối tượng, phạm vi tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án hành chính đồng thời thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng hành chính, góp phần đáp 1 ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới thì việc nghiên cứu, xây dựng luận văn: “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là thực sự cần thiết, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính là vấn đề không chỉ được ngành Kiểm sát nhân dân mà còn được cả xã hội quan tâm. Do yêu cầu và đòi hỏi khách quan, đã có nhiều bài viết tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo, chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm của ngành Kiểm sát, Tòa án… liên quan đến nội dung vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính. Từ tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài cho thấy có nhiều quan điểm, lý luận có thể kế thừa và phát triển. Các công trình, bài viết trên chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu các lĩnh vực chung nhất về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước; các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính dưới góc độ của Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. Hoặc có công trình, bài viết tuy có trực tiếp đề cập đến vấn đề này, nhưng do thời điểm nghiên cứu đã lâu nên không cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện nay, nhất là trong điều kiện Luật Tố tụng hành chính năm 2015 vừa được Quốc hội ban hành với nhiều quy định mới, nên không còn mang tính thời sự nữa. Mặt khác, các công trình, bài viết trên chưa đưa ra được một nhận thức toàn diện và đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân và hiệu quả hoạt động của nó trong tố tụng hành chính. Vì vậy, đến nay chưa có một công trình khoa học hoặc đề tài nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về vấn đề này được chính thức công bố. Do vậy, tác giả chưa thấy có công trình, đề tài nào trùng lặp với đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận, các quy định của pháp luật và thực tiễn việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính nhằm đánh giá ưu điểm, hạn chế việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên trong quá trình kiểm sát giải quyết các vụ án 2 hành chính tại Tòa án nhân dân các cấp. Từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm sát. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích và đánh giá cơ sở lý luận, thực tiễn trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án hành chính. Phân tích, đánh giá về những khó khăn, vướng mắc về quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi tố tụng, từ đó, làm rõ chức năng, nhiệm vụ kiểm sát của VKSND, Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên trong công tác này. Qua thực tiễn công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính tại tỉnh Quảng Nam nhằm phát hiện những bất cập của hệ thống pháp luật, từ đó đưa ra giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hành chính về nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề lý luận và thực tiễn, các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện vai trò của VKS trong tố tụng hành chính theo yêu cầu cải cách tư pháp. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài đi sâu nghiên cứu những quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên trong công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam. Số liệu được luận văn thu thập và đánh giá trong thời gian từ ngày 01/7/2015 đến 30/11/2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, các quan điểm đường lối của Đảng về tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, đặc biệt là 3 các quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp, đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và của Viện KSND nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú về chức năng, nhiệm vụ và việc hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với VKSND trong hoạt động tố tụng hành chính. - Về thực tiễn: Những kết quả của luận văn sẽ góp phần nâng cao vài trò của Viện kiểm sát nhân dân nói chung, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam nói riêng trong tố tụng hành chính. Đồng thời, là nguồn tư liệu tham khảo tốt cho công tác nghiên cứu và áp dụng vào thực tiễn. Bênh cạnh đó, đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung, tiếp tục hoàn thiện Luật Tố tụng hành chính, nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng hành chính được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong toàn quốc. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn được chia làm 3 chương: CHƯƠNG 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính CHƯƠNG 2: Thực trạng việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam CHƯƠNG 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính 4 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH 1.1. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính Vai trò thường là tính từ chỉ tính chất của sự vật, sự việc, hiện tượng, dùng để nói về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, mục đích của sự vật, sự việc, hiện tượng trong một hoàn cảnh, bối cảnh và mối quan hệ nào đó. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân được xác định trong quan điểm, chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 08-NQ/TW [4] ngày 02-01-2002, Nghị Quyết 49/NQ-TW [5] ngày 02-6-2005 đã đặt ra đó là: “Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, đảm bảo sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án”. Được cụ thể hoá trong Hiến pháp, Luật Tổ chức VKSND thông qua các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung, nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng. Tại Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định: “ VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Đây là nhiệm vụ mà Hiến pháp quy định đối với ngành KSND trong hệ thống chính trị, hệ thống bộ máy nhà nước. Luật Tổ chức VKSND năm 2014, đã cụ thể hóa Điều 107 Hiến pháp về chức năng, nhiệm vụ của Ngành: “ VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Tại Khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức VKSND quy định: “ Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, trong việc giải quyết vụ án hành chính ”. Theo từ điển Tiếng Việt, nhiệm vụ được hiểu là “Công việc phải làm vì một 5 mục đích và trong thời gian nhất định”. Như vậy, nhiệm vụ nói chung là công việc mang tính bắt buộc đối với một chủ thể phải thực hiện. Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách chủ thể trong quan hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và được pháp luật quy định. Có thể thấy, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và xuyên suốt mà Đảng, Nhà nước, Nhân dân giao cho Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ Nhân dân và chế độ. Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự là các cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống thống nhất, bao gồm VKSND tối cao, các VKSND địa phương, các Viện kiểm sát quân sự. VKSND do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng cấp trên; Viện trưởng VKSND các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao. Viện kiểm sát nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp khác là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần bảo vệ công lý, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phạm vi công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính của Viện kiểm sát là bắt đầu từ khi Tòa án thông báo trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính hoặc từ khi Tòa án thông báo thụ lý vụ án hành chính đến khi bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà không có kháng nghị, không có yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại theo quy định. Đối tượng kiểm sát của VKSND trong tố tụng hành chính là việc tuân theo pháp luật của Tòa án, người tiến hành tố tụng của Tòa án, người tham gia tố tụng và 6 cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Mục tiêu của hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính là bảo đảm việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật, qua đó, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 36 Luật TTHC năm 2015 thì VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng hành chính cùng với Tòa án nhân dân. Việc giữ nguyên quy định này là hợp lý bởi lẽ trong tố tụng hành chính, VKSND nhân danh quyền lực Nhà nước thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, cụ thể là kiểm sát tính hợp pháp về các quyết định và hành vi của người tiến hành tố tụng và hành vi của người tham gia tố tụng, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật trong tố tụng hành chính phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh giúp cho việc giải quyết vụ án hành chính được đúng đắn và khách quan. Ngoài ra, theo Khoản 2 Điều 36 Luật TTHC năm 2015 quy định Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên là những người tiến hành tố tụng hành chính cùng với Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án. Như vậy, Luật TTHC năm 2015 đã bổ sung thêm Kiểm tra viên là người tiến hành tố tụng hành chính, thể hiện sự đồng bộ, phù hợp với quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và kế thừa các quy định trước đây “Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật”. So với Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 (được sửa đổi, bổ sung các năm 1998, 2006, Luật TTHC 2010), vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính theo Luật TTHC 2015 có một số nội dung thay đổi, bổ sung đó là: Không quy định quyền khởi tố vụ án hành chính của Viện kiểm sát đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự; thay vào đó, Khoản 3 Điều 23 Luật TTHC quy định “Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, nếu họ không có người khởi kiện thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy 7 ban nhân dân cấp xã) nơi người đó cư trú cử người giám hộ đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người đó”. Đối với nhiệm vụ và quyền hạn của KSV, nếu như Điều 40 Luật TTHC năm 2010 trước đây chỉ quy định một cách chung chung thì Điều 43 Luật TTHC năm 2015 đã có sự liệt kê các nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng và chi tiết hơn. Theo đó, khi được Viện trưởng phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hành chính nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính đúng pháp luật, KSV có những nhiệm vụ, quyền hạn đó là: Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện; kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án; nghiên cứu hồ sơ vụ án; xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại Khoản 6 Điều 84 của Luật này; tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án; kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án; yêu cầu, kiến nghị Tòa án thực hiện hoạt động tố tụng; đề nghị với Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa không chỉ phát biểu quan điểm của VKSND về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án mà còn phát biểu cả về nội dung, đường lối giải quyết vụ án đảm bảo giải quyết vụ án được nghiêm minh, chính xác, đúng quy định pháp luật. Với việc quy định cụ thể, chi tiết về nhiệm vụ và quyền hạn của KSV giúp cho họ thuận lợi hơn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Nhiệm vụ của KSV được quy định trong các Điều 4, 5; Điểm e Khoản 2 Điều 6; Điều 27 Luật Tổ chức VKSND năm 2014; các Điều 25, 43 Luật TTHC 2015 và Thông tư liên tịch 03/2016/TTLTVKSNDTC-TANDTC[36] Nhiệm vụ cụ thể của Kiểm sát viên là kiểm sát tính hợp pháp về các quyết định và hành vi của người tiến hành tố tụng và hành vi của người tham gia tố tụng, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật trong tố tụng hành chính phải được phát hiện và xử lý kịp thời, giúp cho việc giải quyết vụ án hành chính nghiêm minh và khách quan được quy định cụ thể tại Điều 27 Luật Tổ chức VKSND năm 8 2014 và Quy chế công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính nhằm thực hiện chức năng của mình, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hành chính đúng pháp luật, kịp thời nhanh chóng, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Nhiệm vụ của Kiểm tra viên được quy định tại Điều 36, 44 Luật TTHC năm 2015 đều là các nhiệm vụ và quyền hạn mới, Kiểm tra viên có các nhiệm vụ và quyền hạn đó là: Nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo kết quả với Kiểm sát viên; lập hồ sơ kiểm sát vụ án hành chính theo sự phân công của Kiểm sát viên hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát; giúp KSV kiểm sát việc tuân theo pháp luật theo quy định. Khi được phân công, Kiểm tra viên là người tiến hành tố tụng. Như vậy, trong từng vụ việc cụ thể thì việc phân công KTV có phải thực hiện bằng quyết định hay không; nếu có thì quyết định phân công KTV có phải gửi cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án không, vấn đề này còn bỏ ngõ cần có hướng dẫn cụ thể. Quyền yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính được quy định chung tại Khoản 2 Điều 25 Luật TTHC và quyền yêu cầu của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS được quy định tại Điểm đ Khoản 1, Khoản 2 Điều 42 là những nhiệm vụ và quyền hạn mới được bổ sung. Thông tư liên tịch 03/2016/TTLT-VKSTC-TANDTC quy định các quyền yêu cầu gồm: Yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ án hành chính để VKS xem xét việc kháng nghị; yêu cầu, kiến nghị của Viện trưởng VKS, Kiểm sát viên; yêu cầu Tòa án cho sao chụp bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ trong trường hợp trả lại đơn khởi kiện; yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ; yêu cầu sửa đổi, bổ sung biên bản phiên tòa, phiên họp; yêu cầu Hội đồng xét xử khắc phục vi phạm về thủ tục tố tụng ... được quy định tại Điểm a Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 5; Điều 20; Điều 21; Điều 22; Điều 23; Điểm a Khoản 1 Điều 27. 1.2. Vai trò của VKSND trong thụ lý giải quyết vụ án hành chính Thuật ngữ “Quyền hạn” [40, tr.1383-1384] theo Từ điển Tiếng Việt được hiểu là “quyền được xác định về nội dung, phạm vi, mức độ”. Dưới góc độ pháp lý, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vị trí công tác và trong phạm vi không 9 gian, thời gian nhất định theo luật định. Quyền hạn của cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức. Quyền hạn của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn của Kiểm sát viên là những quyền năng pháp lý cụ thể được quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ chức VKSND, Luật TTHC và các văn bản pháp luật khác giao cho KVS phải thực hiện khi được phân công kiểm sát việc giải quyết vụ án hành nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong tố tụng hành chính, Kiểm sát viên thực hiện kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính thuộc thẩm quyền Viện kiểm sát cấp mình theo phân công của Viện trưởng và chịu trách nhiệm trước Viện trưởng. Như vậy, quyền hạn của KSV trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án hành chính là “Quyền giải quyết những công việc cụ thể của KSV trong các giai đoạn khác nhau của quá trình giải quyết vụ án hành chính nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án kịp thời, đúng pháp luật”. Trong hoạt động tố tụng hành chính, pháp luật luôn quy định nhiệm vụ đi đôi với quyền hạn, tạo thành mối liên kết vững chắc làm căn cứ để KSV thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Quyền hạn của KSV trong giải quyết vụ án hành chính bao gồm: Quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án, quyền trực tiếp tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ và tại phiên tòa, phiên họp, KSV có quyền kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục những vi phạm trong hoạt động tố tụng theo quy định tại Khoản 6 Điều 84, Khoản 6 Điều 43 Luật TTHC. Được Tòa án gửi các văn bản tố tụng do Tòa án ban hành trong thời hạn luật định. Được Tòa án chuyển hồ sơ vụ án để nghiên cứu. Tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật; yêu cầu kiến nghị Tòa án thực hiện hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật; đề nghị với Viện trưởng VKSND có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm 10 minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật. Kiểm tra xác định tính hợp pháp, kịp thời, đầy đủ, khách quan trong quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ xác minh, lập hồ sơ của Toà án. Yêu cầu Toà án trưng cầu giám định, xác minh làm rõ tài liệu, chứng cứ hoặc tự mình tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để đảm bảo cho việc kháng nghị. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án... Trong quá trình kiểm sát việc thụ lý vụ án hành chính, nhất là các vụ án liên quan đến lĩnh vực đất đai, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thực hiện chức năng kiểm sát theo trình tự tố tụng đó là: Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán đã thụ lý vụ án phải thông báo bắng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết theo Khoản 1 Điều 126 Luật TTHC. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, Viện kiểm sát phân công Kiểm sát viên, Kiểm sát viên dự khuyết thực hiện nhiệm vụ và thông báo cho Tòa án. 1.2.1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện Theo quy định tại Điều 31 Pháp lệnh TTGQCVAHC trước đây thì khi đương sự nộp đơn khởi kiện vụ án hành chính cho Tòa án, nếu thấy có một trong các căn cứ nêu tại điều này, Tòa án có quyền trả lại đơn khởi kiện cho đương sự và không thụ lý vụ án. Luật TTHC 2015 quy định về kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với việc trả lại đơn khởi kiện của Toà án đã sửa đổi bổ sung chặt chẽ hơn: Khi trả lại đơn khởi kiện cho đương sự, Tòa án phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện. Tại Khoản 1 Điều 124 quy định, trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo do Tòa án trả lại, người khởi kiện có quyền khiếu nại với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện. Ngay sau khi nhận được khiếu nại trả lại đơn khởi kiện, Chánh án phải phân công 01 Thẩm phán giải quyết. Thực tiễn thi hành các quy định nêu trên cho thấy, có thể xảy ra trường hợp Tòa án áp dụng các căn cứ quy định tại Điều 31 Pháp lệnh để trả đơn cho người khởi kiện không chính xác, mà pháp luật lại không quy định cơ chế bảo đảm để VKS thực hiện được quyền kiểm sát đối với việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện, điều đó sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Để khắc phục vướng mắc này, Khoản 2 Điều 123 Luật TTHC đã quy định rõ “Khi trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho người khởi kiện, Toà án phải 11 có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn khởi kiện được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp”. Điều 124 Luật TTHC tiếp tục quy định quyền của đương sự được khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện; đồng thời điều luật còn quy định quyền kiến nghị của Viện kiểm sát đối với việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, theo đó quy định: Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện. Ngay sau khi nhận được kiến nghị của Viện kiểm sát, Chánh án Toà án phải phân công 01 Thẩm phán giải quyết việc thụ lý vụ án. Trường hợp không đồng ý với quyết định trả lời khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp xem xét, giải quyết ... 1.2.2. Kiểm sát về đối tượng khởi kiện Khi thực hiện kiểm sát việc thụ lý, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên được phân công cần phải làm rõ các nội dung đó là: Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai là các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai. Các quyết định, hành vi này có thể đã được khiếu nại theo thủ tục nhưng người khiếu nại không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại và không tiếp tục khiếu nại nữa hoặc trường hợp đã hết thời hạn giải quyết khiếu nại nhưng khiếu nại đó không được cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì người khiếu nại có quyền khởi kiện ra Tòa án. Quyết định hành chính về đất đai gồm: Quyết định thu hồi đất, giao đất, quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất…. Quyết định hành chính về đất đai thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của quyết định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số người mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Hành vi hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai là hành vi 12 của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức được giao thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về đất đai, thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong hoạt động quản lý đất đai theo quy định của pháp luật. Hành vi thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong hoạt động quản lý đất đai ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội. Trong nhiều trường hợp, đối tượng khởi kiện vụ án hành chính về đất đai khó xác định, xuất phát từ việc quản lý và sử dụng đất đai phức tạp, dẫn đến việc hiểu và áp dụng không thống nhất khi xác định vụ án là tranh chấp dân sự về đất đai hay tranh chấp hành chính về lĩnh vực đất đai. Tranh chấp dân sự về đất đai là tranh chấp về quyền sử dụng đất giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức với nhau. Tranh chấp hành chính về đất đai là tranh chấp phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước về đất đai giữa một bên là cơ quan và người có thẩm quyền nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện việc quản lý về đất đai với một bên là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm phạm. Hoạt động quản lý nhà nước đó được thực hiện bằng một quyết định hay hành vi cụ thể, là đối tượng để Tòa án giải quyết bằng một vụ án hành chính. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, tranh chấp dân sự về đất đai được giải quyết bằng cơ quan quản lý nhà nước về đất đai thông qua hình thức giải quyết khiếu nại về đất đai nhưng các bên đương sự không nhất trí với kết quả giải quyết khiếu nại đó và khởi kiện đối với quyết định giải quyết khiếu nại về đất đai thì tranh chấp hành chính xảy ra và thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Vì vậy, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên khi nghiên cứu cần xác định đúng đối tượng khởi kiện của người khởi kiện, trên cơ sở đó đảm bảo Tòa án xác định thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính đúng căn cứ pháp luật. 1.2.3. Kiểm sát về điều kiện khởi kiện Luật TTHC quy định cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong hoạt động quản lý đất đai khi họ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái quy định của pháp luật, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Theo đó, khi nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính trong hoạt động quản lý đất 13 đai hoặc trong trường hợp khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nhưng hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện ngay để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Sau khi Kiểm sát viên, Kiểm tra viên xem xét đến chủ thể thực hiện quyền khởi kiện, người khởi kiện phải bảo đảm tư cách chủ thể, tức chủ thể đó phải có năng lực hành vi tố tụng hành chính theo quy định pháp luật. Nếu người khởi kiện là cá nhân thì cá nhân đó phải đủ mười tám tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, không bị khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và không thuộc các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Nếu đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì việc thực hiện quyền khởi kiện phải thông qua người đại diện theo pháp luật. Nếu đương sự là cơ quan, tổ chức thì việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong tố tụng hành chính thông qua người đại diện hợp pháp. Trong nhiều trường hợp, các quyết định hành chính, hành vi hành chính làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các hộ gia đình. Vì vậy, KSV, Kiểm tra viên cần xem xét tính hợp pháp khi hộ gia đình cử người đại diện đứng ra thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính. Để xem xét điều kiện khởi kiện vụ án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên xem xét nội dung về điều kiện chủ thể và quyền khởi kiện vụ án hành chính của chủ thể đó đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong hoạt động quản lý đất đai. Như vậy, để xác định một người có quyền khởi kiện hay không, cần xác định người đó có đảm bảo tư cách chủ thể theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính hay không. Người khởi kiện phải là người bị tác động, ảnh hưởng trực tiếp từ các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai. 1.2.4. Kiểm sát về thời hiệu khởi kiện Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Như vậy, 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan