DẪN LUẬN
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh
vực, thì vấn đề gìn giữ những giá trị đặc trưng của văn hóa điều mang tính cấp
bách và cần thiết, bởi văn hóa không chỉ là động lực, sức mạnh tổng hợp mà còn
là cốt cách, bản sắc của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Văn
hóa tín ngưỡng của cư dân ở huyện đảo Lý Sơn – Quảng Ngãi” làm luận án
nhằm tìm hiểu các loại hình tín ngưỡng trong đời sống của cư dân Lý Sơn.
Những giá trị văn hóa tín ngưỡng được dung hợp, tích hợp, thực dụng và linh
hoạt trong quá trình giao lưu – tiếp biến từ các lớp văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa
Chăm, văn hóa Đại Việt trên vùng đất biển đảo này. Qua nghiên cứu, chúng ta
sẽ hiểu rõ hơn vai trò tín ngưỡng của cư dân. Hơn thế, huyện đảo Lý Sơn lại gắn
với lịch sử về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp “chắp nối” những đứt gãy từ truyền
thống đến hiện đại, trả lại giá trị vốn có rất đặc trưng của Lý Sơn. Giúp các loại
hình văn hóa tín ngưỡng này có điều kiện bảo tồn và phát huy giá trị, cũng như
khẳng định và thừa nhận cái mới tích cực được tích hợp trong từng loại hình văn
hóa tín ngưỡng này. Từ đó, đề xuất các kiến nghị nhằm bảo tồn, phát huy giá trị
văn hóa qua các loại hình tín ngưỡng trên đảo Lý Sơn, đó là những vấn đề mà
người nghiên cứu quan tâm và sẽ công bố, mong muốn có những đóng góp
khoa học và thực tiễn nhất định khi đề tài hoàn thành.
2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Mục đích nghiên cứu: hệ thống lại các tư liệu thành văn, những kết quả
nghiên cứu để tìm ra những giá trị đặc trưng trong văn hóa tín ngưỡng của cư
dân huyện đảo Lý Sơn. Nhận diện và lý giải một số hiện tượng của tín ngưỡng.
Cung cấp thêm tư liệu về văn hóa tín ngưỡng cho công tác giảng dạy, học tập về
văn hóa ở các trường, các viện nghiên cứu. Góp thêm tư liệu phục vụ cho công
tác quản lý của các ban ngành chức năng huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi
và Trung ương có những chính sách tốt hơn trong việc quản lý tín ngưỡng, tôn
giáo.
- Đối tượng nghiên cứu: các loại hình tín ngưỡng đặc trưng đã từng gắn bó
trong đời sống cư dân Lý Sơn hơn vài trăm năm, nhưng đến nay vẫn được cư
dân gìn giữ, duy trì, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tín ngưỡng đó.
Từ việc tìm hiểu những biến đổi của các loại hình tín ngưỡng đó, chúng ta thấy
những điểm tương đồng và dị biệt so với những vùng khác ở Việt Nam. Từ đó,
nêu lên và lý giải những đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng ở Lý Sơn. Luận án
đã vận dụng các lý thuyết vùng văn hóa, sinh thái học văn hóa, giao lưu tiếp
biến văn hóa, chức năng luận vào thực tiễn những vấn đề cần nghiên cứu này.
Bởi chính các yếu tố đó đã tác động đến loại hình kinh tế, ngành nghề theo từng
1
khu vực cư trú đã tạo nên những loại hình tín ngưỡng của từng khu vực nhằm
đáp ứng nhu cầu tâm linh.
- Phạm vi nghiên cứu: thời gian nghiên cứu về văn hóa tín ngưỡng của cư dân
Lý Sơn cả lịch đại lẫn đồng đại. Về không gian nghiên cứu gồm ba xã: An Hải,
An Vĩnh và An Bình. Những giá trị văn hóa tín ngưỡng của từng vùng là sự đúc
kết, sáng tạo và tích lũy từ trong đời sống sinh kế của cư dân nhằm đáp ứng nhu
cầu tâm linh thông qua hành vi giao tiếp và ứng xử bằng những nghi lễ, tập tục
gắn liền với môi trường biển đảo Lý Sơn.
3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
3.1. Nhóm tài liệu viết về lịch sử, văn hóa, con người Quảng Ngãi
Trước năm 1945, có các tác giả viết về Quảng Ngãi tỉnh chí như
Nguyễn Bá Trác - Nguyễn Đình Chi - Khiếu Lựu Kiều in trong Nam phong tạp
chí (1933) và sách Địa dư Quảng Ngãi của Nguyễn Đóa - Nguyễn Đạt Nhơn
(1939) cũng được biên soạn nhiều vấn đề như văn hóa, tín ngưỡng, phong tục…
của các cộng đồng tộc người ở Quảng Ngãi. Cuốn Lịch triều hiến chương loại
chí của Phan Huy Chú (1960), Non nước xứ Quảng tân biên (1969) của Phạm
Trung Việt đã viết về lịch sử xã hội hình thành tỉnh Quảng Ngãi, còn về Lý Sơn
thì Ông đã viết: “trước năm 1604 thì Lý Sơn là một đảo hoang nên sau đó 15 vị
tiền hiền từ đất liền ra khai hoang lập ấp”. Về tín ngưỡng, Ông chỉ nêu về tín
ngưỡng đua ghe của cư dân nhân ngày giỗ Tổ mà thôi (Phạm Trung Việt, 1969,
tr. 30). Cuốn Hải ngoại kỷ sự (1962) của Thích Đại Sán đã nghiên cứu từ những
năm 1695 nhưng chủ yếu đề cập đến Cù lao Chàm, Quảng Nam, Hội An và
vùng đất Thuận hóa, bởi những vùng này có bến tàu tập họp hàng hóa của người
ngoại quốc, mà không đề cập đến đảo Lý Sơn. Cuốn sách Đại Nam nhất thống
chí, (Người dịch: Phan Trọng Điềm, Người hiệu đính: Đào Duy Anh) của Quốc
sử quán triều Nguyễn (1970), cuốn Đại Việt sử ký toàn thư (1971) của Ngô Sĩ
Liên và các tác giả cũng đã có những ghi chép về lịch sử, địa lý, văn hóa vùng
đất Quảng Nam (bao gồm cả Quảng Ngãi ngày nay), nhưng chưa đầy đủ. Sách
Non nước xứ Quảng (1971) của Phạm Trung Việt đã viết về vùng đất Quảng
Ngãi trên nhiều lĩnh vực từ lịch sử - kinh tế - văn hóa - chính trị, cũng như
những phong tục tập quán tín ngưỡng của dân gian. Mặc dù tác giả chưa đi sâu
vào những vấn đề cụ thể theo từng lĩnh vực. Sách Khâm định Việt sử thông
giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn (1998). Hoàng Việt nhất thống
địa dư chí (Người dịch: Phan Đăng) của Lê Quang Định (2005). Luận án về
Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa (2002) của Nguyễn Nhã đề cập đến đội Hoàng Sa ở đảo Lý Sơn và nguồn
gốc của người Việt đầu tiên từ cửa biển Sa Kỳ di dân ra đảo vào thế kỷ XVII.
(Nguyễn Nhã, 2002, tr. 64 – 65). Sách Quảng Ngãi – một số vấn đề lịch sử văn
hóa (2008) của Nguyễn Đăng Vũ đã tổng hợp những bài viết về con người và
lịch sử, một số hiện tượng văn hóa dân gian của người Việt - Quảng Ngãi.
2
3.2. Nhóm tài liệu viết về văn hóa biển đảo
Sách Biển với người Việt cổ của Phạm Đức Dương, Trần Quốc Vượng,
Cao Xuân Phổ (1996) là công trình nghiên cứu văn hóa biển của người Việt cổ
chủ yếu từ khảo cổ học. Sách Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam của Nguyễn Duy
Thiệu (2002) đã giới thiệu một cách tổng thể về quá trình hình thành và phát
triển các nhóm ngư dân qua khảo sát một số làng chài để thấy cơ cấu tổ chức xã
hội truyền thống và hiện nay. Điều này rất có ý nghĩa để xác định loại hình cư
trú, kinh tế, văn hóa của cư dân ở Lý Sơn có những điểm giống và khác trong
quá trình khảo sát nghiên cứu. Sách về Văn hóa biển miền Trung và văn hóa
biển Tây Nam bộ (2008) đã xác định những đặc trưng văn hóa biển, tìm hiểu
mối liên hệ với văn hóa Chăm và bước đầu luận giải những vấn đề liên quan.
Sách Đời sống xã hội - kinh tế, văn hóa của ngư dân và cư dân vùng biển Nam
Bộ (2014) của Phan Thị Yến Tuyết là một công trình nghiên cứu tổng thể về xã
hội, kinh tế, văn hóa biển của cư dân và ngư dân vùng biển Nam Bộ với nhiều
khía cạnh như dân cư, học vấn, cơ cấu lao động, phương tiện đánh bắt, khai thác
hải sản, nghề nuôi trồng hải sản, tín ngưỡng, tôn giáo, tri thức dân gian, ẩm thực
biển thông qua cách tiếp cận Nhân học biển. Về nghiên cứu văn hóa biển ở một
địa phương thì có một số công trình như: Tục thờ cúng của ngư phủ lưới đăng
Khánh Hòa (1970) của Lê Quang Nghiêm, Tục thờ cá voi ở các làng biển từ
đèo Ngang đến đèo Hải Vân (1999) của Trần Hoàng, Văn hóa biển làng chài
Nhượng Bạn (2000)của Trương Minh Hằng; Lễ hội dân gian của ngư dân Bà
Rịa – Vũng Tàu” (2004) của Đinh Văn Hạnh - Phan An, Tín ngưỡng thờ Mẫu và
nữ thần từ chiều kích văn hóa biển của vùng biển đảo Kiên Hải, Kiên Giang
(2010) của tác giả Phan Thị Yến Tuyết;… Các công trình trên là nguồn tài liệu
để người nghiên cứu hiểu hơn về văn hóa của ngư dân và cư dân trên khắp các
vùng biển Việt Nam, để so sánh đối chiếu văn hóa tín ngưỡng ở Lý Sơn nhằm
tìm ra những đặc điểm và vai trò.
3.3. Nhóm tài liệu liên quan đến văn hóa tín ngưỡng
Sách Văn hóa dân gian làng ven biển (2000) của Ngô Đức Thịnh đã
trình bày về văn hóa dân gian các làng ven biển từ Quảng Ninh đến Thừa Thiên
Huế, trong đó chú trọng đến người Việt với truyền thống văn hóa biển trong yếu
tố cấu thành văn hóa biển cận duyên truyền thống ở Việt Nam. Đến năm 2001,
Ngô Đức Thịnh (chủ biên) cuốn Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam
với các loại hình tín ngưỡng ở Việt Nam. Trong phần tín ngưỡng tổ tiên, ông
nêu “một hiện tượng khá bí ẩn nhưng được con người tin tưởng, đó là âm phù –
người chết phù hộ cho người sống hay mối quan hệ giữa người sống và người
chết cùng chung huyết thống lại càng gắn bó hơn” (Ngô Đức Thịnh, 2001, tr.
40). Đó cũng là đặc trưng trong văn hóa tín ngưỡng. Sách Văn hoá truyền thống
đảo Lý Sơn (Nhiều tác giả, 2002) giới thiệu về văn hoá vật chất và văn hóa tinh
thần của cư dân Lý Sơn. Trong phần văn hóa tinh thần, đã đề cập đến phong tục
3
sinh hoạt tín ngưỡng trong gia đình, tộc họ và cộng đồng nhưng mang tính khái
lược. Tuy vậy, đây là công trình bước đầu hỗ trợ tác giả định hướng trong
nghiên cứu thực địa. Luận án Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng
Ngãi (2003) của Nguyễn Đăng Vũ đã khảo sát, miêu tả và phân tích các giá trị
văn hóa dân gian của người Việt vùng ven biển Quảng Ngãi trên các khía cạnh:
tín ngưỡng – lễ hội, nghệ thuật dân gian, ngữ văn dân gian và nêu một số giá trị
đặc trưng, giải pháp bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa, cũng trong luận án
này tác giả cũng đề cập một số tín ngưỡng có liên quan ở huyện đảo Lý Sơn.
Sách“Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đã nói
đến con người vùng đất Quảng Ngãi nói chung và cư dân Cù Lao Ré nói riêng
về phong tục tín ngưỡng cúng tổ tiên, cúng thần như sau:“Cư dân nơi đây có
tục thích đồng bóng, ham hát tuồng, người ốm không uống thuốc, thường mời
thầy cúng về nhà bày cúng để mong khỏi bệnh. Có việc vui mừng thì bày tiệc ăn
uống và hát tuồng, không ngại phí tổn” (Quốc sử quán triều Nguyễn (tập 2),
2006, tr.474).Tư liệu từ sách này đã cung cấp thêm cho người nghiên cứu thông
tin về địa lý, kinh tế, chính trị của vùng đất Quảng Ngãi thời trước. Sách Tín
ngưỡng của cư dân ven biển Quảng Nam – Đà Nẵng (2009) của Nguyễn Xuân
Hương đã cung cấp những tư liệu và thông tin về diện mạo và sinh hoạt tín
ngưỡng trong đời sống với những đặc trưng qua các hình thái tín ngưỡng của
cộng đồng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng, như tín ngưỡng thờ Tiền
hiền có những tương đồng cúng tiền hiền ở xã An Vĩnh – Lý Sơn nhưng khác
với xã An Hải trong thành phần tham gia nghi thức cúng. Tác giả đã nghiên cứu
các hình thái tín ngưỡng của cộng đồng cư dân vùng ven biển Quảng Nam và
Đà Nẵng trên phương diện hệ thống và chức năng với các nội dung như tín
ngưỡng thờ cá Voi, tín ngưỡng thờ Mẫu, Âm linh và Tiền hiền. Sách Văn hóa
dân gian huyện đảo Phú Quốc và Lý Sơn (Trương Thanh Hùng & Phan Đình
Độ, 2012) đã giới thiệu các loại tín ngưỡng văn hóa dân gian ở hai huyện đảo
chứ chưa phân tích sâu về sự ảnh hưởng của chúng trong đời sống của cộng
đồng. Đề tài về Đời sống tín ngưỡng của cư dân Việt ở đảo Lý Sơn – Quảng
Ngãi (Đề tài NCKH cấp trường, ĐH KHXH&NV, TP. HCM, 2013) mà người
nghiên cứu là thành viên tham gia đã đóng góp một số khái quát về tín ngưỡng
của cộng đồng và mối liên hệ với tín ngưỡng trong gia đình được thể hiện trong
Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, cũng như việc cúng Âm hồn ở huyện đảo Lý Sơn.
Đây cũng chính là phần mà trong luận án này người nghiên cứu đã kế thừa từ đề
tài cấp trường để tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu. Sách về Xứ đàng trong: lịch
sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17 – 18 (2014) của Li Tana đã trình bày
những ảnh hưởng trong tín ngưỡng đối với Nho – Phật – Đạo, đặc biệt văn hóa
tín ngưỡng Chăm góp phần củng cố cho các di dân người Việt về mặt tinh thần
và tâm lý. Sách Văn hóa biển miền Trung - Việt Nam (2015) của Lê Văn Kỳ đã
nghiên cứu văn hóa biển của người Việt trên địa bàn 14 tỉnh thành từ Thanh
4
Hóa đến Bình Thuận, với những vấn đề chung về biển; văn học dân gian vùng
biển miền Trung; tục thờ phụng thần biển ở miền Trung... trong phần này tác
giả đưa ra những loại hình tín ngưỡng có liên quan mật thiết đến luận án của
chúng tôi như tín ngưỡng thờ cá Voi, tín ngưỡng thờ mẫu, tục thờ cúng âm linh
và tục thờ cúng tiền hiền. Đây cũng là những công trình đã giúp người nghiên
cứu có những dữ liệu so sánh đối chiếu với tín ngưỡng cá Ông ở huyện đảo Lý
Sơn, từ đó tìm ra những giá trị đặc trưng riêng của vùng biển đảo này.
Dưới đây, người nghiên cứu xin chia theo nhóm công trình của các loại hình
tín ngưỡng liên quan trực tiếp đến luận án.
Nhóm công trình đề cập đến tín ngưỡng gia đình - dòng họ
Sách Tín ngưỡng dân gian Huế (1995) của Trần Đại Vinh đã nêu việc thờ
cúng tổ tiên, nghi thức lễ kỵ giỗ theo từng cách thờ phụng tổ tiên cũng khác
nhau trong từng chi phái. Tư liệu này liên quan đến nghi lễ thờ cúng việc lề nên
rất cần thiết để so sánh với tín ngưỡng cúng Việc lề ở huyện đảo Lý Sơn. Luận
văn Lễ hội khao lề thế lính Hoàng Sa ở đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi (2011) của
Cao Nguyễn Ngọc Anh thể hiện từ nghi lễ của dòng họ đến lễ hội cộng đồng,
cũng như chức năng và vai trò của chúng. Trong cuốn Văn hóa, tín ngưỡng và
thực hành tôn giáo người Việt (2015), tác giả Léopold Cadière viết về tín
ngưỡng gia đình và cộng đồng của người Việt ở vùng đất Ngũ Quảng1 và ở
vùng đất kinh đô Huế ngày xưa qua việc thể hiện nghi thức cúng, cách bài trí,
linh vị thờ có những điểm tương đồng mà hiện nay cư dân Lý Sơn vẫn còn lưu
giữ và thờ phụng trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay cúng việc lề. Sách về
Văn hóa gia đình dòng họ và gia phả Việt Nam (2015) của Trường
ĐHKHXH&NV – ĐHQG Tp.HCM và Viện Lịch sử Dòng họ góp phần giải
quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu gia đình, dòng họ và
gia phả, từ đó phát huy và gìn giữ những truyền thống tốt đẹp. Trong đó, người
nghiên cứu có bài tham luận về Tín ngưỡng cúng Việc lề trong gia đình, dòng
họ của người Việt ở huyện đảo Lý Sơn – Quảng Ngãi. Ngoài ra, bài viết Tín
ngưỡng cúng Việc lề- một tâm thức về cội nguồn của cư dân Việt khẩn hoang
tại Nam Bộ (Phan Thị Yến Tuyết, 1999, tr. 64) và Cúng Việc lề- một sinh hoạt
văn hóa từ thời khẩn hoang của lưu dân người Việt (Qua cách thức cúng của họ
Phan ở huyện Châu Thành – Long An) (Phan Kim Thoa, 2009, tr. 71-72) cũng
giúp người nghiên cứu hiểu hơn quá trình hình thành và phát triển loại hình tín
ngưỡng này trên mảnh đất Nam Bộ để so sánh với Lý Sơn.
Nhóm công trình đề cập đến tín ngưỡng Âm hồn
Trong cuốn Đình Nam bộ xưa và nay (1999) đã đề cập đến các vị thần thờ
phụng ở phương Nam, như Nam Hải Tướng Quân vốn có nguồn gốc từ người
Chăm, là một vị thần được thờ cúng với Thủy Long Thần Nữ, Hà Bá Thủy
Quan, Cửu Thiên Huyền Nữ, Thần Hổ,…Khi nói về âm hồn, Đạo giáo cho rằng
5
“âm hồn gồm mọi tầng lớp của xã hội, từ vua đến dân, từ người giàu đến người
nghèo, từ con người đến côn trùng thú vật” (Huỳnh Ngọc Trảng – Trương Ngọc
Tường, 1999, tr. 138). Âm hồn cũng có quyền năng chi phối đến cuộc sống của
người dân nên phải cúng kiếng. Đối với cư dân Lý Sơn, “những âm hồn đó là
những bậc linh thiêng, bề trên, sẽ trở thành phúc thần cho nhân dân nếu như họ
được cúng lễ một cách chu đáo nên mới gọi là âm linh, cô bác” nên thể hiện
niềm tin với đấng thiêng “vừa kính vừa sợ” qua nghi thức cúng Bạt thục hay
cúng Chiêu hồn. Theo Đại từ điển tiếng Việt cho rằng: “tế có nghĩa là cúng
dâng trọng thể, thường đọc văn cúng và có trống chiêng kèm theo” (Nguyễn
Như Ý, 1999, tr. 1008). Như vậy, nghi thức tế lễ là một hành vi của tôn giáo,
một nghi thức tỏ lòng thành kính đối với bậc “thiêng” để cầu mong những điều
tốt đẹp. Theo đạo Phật thì thập loại cô hồn gồm mười loại của tứ sanh và lục
đạo. Khái niệm này có nguồn gốc từ thuyết vạn vật hữu linh nên mọi vật đều có
linh hồn. Còn sách Phong tục thờ cúng (2005) của Toan Ánh đã ghi: “Đối với
người Việt cổ, chết chưa phải là hết, thể xác tuy chết đi nhưng linh hồn vẫn còn
và vẫn hằng“lui tới”gia đình. Thể xác tiêu tan nhưng linh hồn bất diệt”. Đây
chính là cơ sở để phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt phổ biến hay những
vong linh của chúng sanh chết oan, từ đó xuất phát tục cúng âm hồn” (Toan
Ánh, 2005, tr. 11). Về tín ngưỡng thờ cúng âm hồn của cư dân ven biển Quảng
Ngãi nói chung và Lý Sơn nói riêng, bài viết Tục thờ cúng âm hồn dọc biển
(2006) của Nguyễn Đăng Vũ đã khái quát về tục cúng âm hồn dọc biển Nam
Trung Bộ và đưa ra những giá trị đặc trưng, giải pháp bảo tồn về loại hình tín
ngưỡng này trong điều kiện môi trường sinh thái, văn hóa biển. Đối với Nho
giáo thường biểu hiện quan điểm “thượng tôn nhân nghĩa” về việc cúng âm
hồn. Khi tiếp cận từ quan niệm Phật giáo thì: “Chết đi là sự luân chuyển theo
nghiệp của mình đã tạo trong đời trước… hay là sự biến chuyển từ cõi người
trực vãng siêu thoát về miền Tây phương cực lạc, cõi vĩnh hằng ở Tây phương
của A Di Đà” (Huỳnh Ngọc Trảng & Nguyễn Đại Phúc, 2013, tr. 14 -16). Luận
văn Lễ cúng chẩn tế của Phật giáo ở Nam bộ dưới góc nhìn văn hóa (2010) của
Phan Đình Đức đã nêu những giá trị mang tính nhân văn, tính dân tộc, tính địa
phương của cộng đồng người Việt qua nghi thức cúng chẩn tế để cứu các vong
linh. Vì vậy, để so sánh tín ngưỡng thờ cúng Âm hồn tại Lý Sơn với đất liền hay
vùng ven biển của Quảng Ngãi, người nghiên cứu cũng đã tham khảo luận văn
về Tập tục thờ cúng Âm hồn của người Việt ở Tây Nam Bộ của Vũ Minh Tuấn
(2012). Những tư liệu đó đã giúp người nghiên cứu hiểu rõ hơn về loại hình tín
ngưỡng Âm hồn của cư dân huyện đảo Lý Sơn trong quá trình hình thành và
phát triển với một môi trường sinh thái là nơi biển cả đã gắn liền với đời sống
của cư dân. Luận văn Tín ngưỡng thờ cúng Âm hồn của cư dân ven biển Quảng
Ngãi dưới góc nhìn văn hóa (2013) của Phạm Tấn Thiên thể hiện nghi thức tế lễ
Âm hồn của cư dân ven biển ở Quảng Ngãi như một tín ngưỡng có sự dung hợp
6
giữa Nho – Phật – Đạo. Trong cuốn Một góc nhìn về văn hóa biển (2014) của
Nguyễn Thanh Lợi với 19 bài nghiên cứu được trình bày trên nhiều lĩnh vực từ
địa danh học, đến hành trình về biển, rồi đời sống kinh tế và văn hóa tín ngưỡng
của cư dân vùng biển. Những bài viết của tác giả đi vào từng loại hình tín
ngưỡng trong văn hóa biển ở Nam Trung Bộ. Đặc biệt, bài Tục thờ cô hồn biển
ở Nam Trung Bộ đã cho thấy cái nhìn tổng thể về tục thờ cô hồn từ Hà Tĩnh trở
vào qua sự thích ứng của mỗi khu vực văn hóa – lịch sử trong quá trình hình
thành nên loại hình tín ngưỡng này. Người nghiên cứu cũng đã công bố bài viết
về Nghi thức tế lễ Âm hồn ở huyện đảo Lý Sơn – Quảng Ngãi nhằm cung cấp
thêm những quan niệm về tín ngưỡng có liên quan đến Âm hồn, cũng như so
sánh những tương đồng và khác biệt với tục cúng Âm hồn ở Nam bộ mà trước
đó chúng tôi chưa tìm hiểu sâu, cũng như bổ sung thêm tư liệu điền dã trong
những năm gần đây (Tác giả luận án, 2015, tr. 43). Như vậy, tín ngưỡng thờ
cúng Âm hồn là một tín ngưỡng phổ biến ở miền Trung, có thể nhiều nhất ở
những vùng ven biển, hải đảo bởi những nơi đó đầy trắc trở, hiểm nguy. Về sắc
thái biểu hiện của mỗi vùng thì khác nhau do điều kiện môi sinh của cộng đồng
gắn liền với điều kiện lịch sử của từng cộng đồng.
Nhóm công trình đề cập đến tín ngưỡng cá Ông
Vào thế kỉ XIX, có hai công trình Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử
quán Triều Nguyễn và Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức cũng đã
nhắc nhiều đến tục thờ cá Ông của cư dân miền biển nước ta. Sách Tục thờ cúng
của ngư phủ Khánh Hòa (1970) của Lê Quang Nghiêm đã giới thiệu về tục thờ
cá Ông của ngư dân địa phương. Đây là một hình thức tín ngưỡng chứa nhiều
nét văn hóa đặc sắc của ngư dân vạn chài gắn với nhiều huyền thoại, cũng như
thể hiện sự dung hợp của tín ngưỡng này với Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
Sách Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền (2007) của Ngô Đức Thịnh đã phân tích
khá rõ về tục thờ cá Ông ở vùng ven biển miền Trung nước ta trở vào ở phương
diện nguồn gốc lẫn hình thức biểu hiện. Liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng cá
Ông của cư dân ở huyện đảo Lý Sơn, người nghiên cứu có bài viết Tín ngưỡng
thờ cúng cá Ông ở Lăng Đông Hải – xã An Hải huyện đảo Lý Sơn in trong Kỷ
yếu Hội thảo liên khoa Việt Nam học. Đó là bước đầu nghiên cứu của chúng tôi
về loại hình tín ngưỡng này mà các học giả trước chưa đề cập đến như danh
xưng về cá Ông hay việc ứng hay cầu ứng mỗi khi ông lụy vào như năm 2014
tại lăng Chánh – An Hải có danh xưng “Đại Tướng Huỳnh Long Hải Tôn Thần”
[PL. Hình 107]. Sách Tín ngưỡng dân gian những góc nhìn (2014) của Nguyễn
Thanh Lợi cũng có bài viết về tục thờ cá Ông. Tác giả đã phân tích từ đặc điểm
sinh học cho đến nguồn gốc thờ cúng của loài cá này, cũng như hình thức thờ
cúng và về kiến trúc lăng Ông cùng các hình thức diễn xướng dân gian. Sách
Thần, người và đất Việt (2014) của Tạ Chí Đại Trường đã nói đến tục thờ cá
Ông, được triều đình sắc phong là “trung đẳng thần”. Tác giả còn lưu ý trong
7
các dinh vạn ở miền Trung, ngoài tục thờ cá Ông thì các vị thần biển khác được
phối tự, cũng như mối quan hệ giữa hai hình thức diễn xướng dân gian gắn với
tục thờ cá Ông là hát bả trạo và hát bội. Về danh xưng và giống loài cá Ông ở
Lý Sơn được người nghiên cứu lập bảng trong chương 2. Ngoài ra, tín ngưỡng
cá Ông cũng được nhà thờ họ Đặng thờ cúng như vị phúc thần “Ngài Thủ tướng
Đức Ngư”.
Nhóm công trình đề cập đến tín ngưỡng thờ Mẫu
Về nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, bài viết Tục thờ Mẫu và
những truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam (1992) của Đinh Gia Khánh
đã phân tích nguyên nhân hình thành nên tục thờ Mẫu này, có nguồn gốc từ
truyền thống nông nghiệp lúa nước, có chức năng che chở, bảo trợ và sinh sôi
giúp họ đảm bảo nhu cầu căn bản và những khát vọng của cuộc sống. Ngoài ra,
có nhiều công trình như: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam (2001)
của Nguyễn Hữu Thông, Đạo mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc
người ở Việt Nam và Châu Á (2004) của Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Lên đồng
hành trình của thần linh và thân phận (2007) của Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu
Việt Nam (2009)(2 tập) - Ngô Đức Thịnh , Tháp Bà Thiên Y A Na hành trình
của một nữ thần (2009) của Ngô Văn Doanh, Văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Khánh Hòa (2010) của Nguyễn Văn Bốn, Tín ngưỡng thờ nữ thần của người
Việt ở xứ Quảng (2011) của Nguyễn Xuân Hương, Văn hóa thờ nữ thần - mẫu ở
Việt Nam và Châu Á bản sắc và giá trị (2013) của Ngô Đức Thịnh., Tín ngưỡng
thờ Mẫu ở Nam bộ bản sắc và giá trị (2014) của nhóm chủ biên Võ Văn Sen –
Ngô Đức Thịnh – Nguyễn Văn Lên. Vì vậy, khi nghiên cứu về tín ngưỡng thờ
Mẫu ở huyện đảo Lý Sơn nên chúng tôi cần tìm hiểu loại hình tín ngưỡng này
để hiểu rõ hơn một số đặc trưng thông qua tư liệu điền dã cũng như những bài
nghiên cứu của các học giả để tìm ra đặc điểm tín ngưỡng thờ Mẫu ở Lý Sơn.
Việc nghiên cứu tín ngưỡng thờ Mẫu, đặc biệt là tục thờ cúng Thiên Y A Na tại
huyện đảo Lý Sơn qua những huyền thoại, nghi thức thờ cúng và lễ hội mới
hiểu được ra giá trị của nghi thức tế lễ này. Cho nên chúng tôi có bài viết Tục
thờ cúng Thiên Y A NA của người Việt ở huyện đảo Lý Sơn – Quảng Ngãi in
trong Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, số 82/2016. Sự thể hiện sắc
phong của Bà được cư dân thần thánh hóa trong các bài văn tế là “... thượng
thượng thượng đẳng thần” chứ không như sắc phong của triều đình nhà Nguyễn
là “trung đẳng thần hay thượng đẳng thần”. Từ những nguồn tư liệu về tín
ngưỡng thờ Mẫu của nhà nghiên cứu đi trước được chúng tôi kế thừa, tham
khảo trong luận án này để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt so
với vùng khác,cũng như đặc trưng riêng của tín ngưỡng thờ Mẫu nơi đây.
Nhóm công trình liên quan đến cộng đồng và cộng đồng cư dân
Sách Phát triển cộng đồng lý thuyết và vận dụng (2000) của Tô Duy Hợp,
Lương Hồng Quang đề cập đến cộng đồng và phát triển cộng đồng bởi việc tạo
8
nên một cộng đồng chính là nhân tố đoàn kết xã hội, tương quan và cơ cấu xã
hội. Hơn nữa, nhóm tác giả còn phân tích các thành phần tạo lập nên một cộng
đồng. Để nghiên cứu vai trò của tín ngưỡng của cư dân ở huyện đảo Lý Sơn thì
chúng tôi sẽ xem xét theo từng khu vực cư trú, khu vực kinh tế nông, ngư đã
ảnh hưởng và hình thành nên những yếu tố tín ngưỡng quan trọng trong gia đình
- dòng họ nói riêng và cộng đồng cư dân nói chung. Cuốn Văn hoá dân gian
làng ven biển (2000)của Ngô Đức Thịnh (chủ biên), là một công trình rất có ý
nghĩa trong việc nhận diện sự tương đồng và khác biệt của ngư dân ven biển từ
Bắc bộ đến Thừa Thiên Huế. Vì vậy, khái niệm làng cũng chính là không gian
văn hóa, là nơi mà con người biết cách sinh tồn, phát triển trong điều kiện môi
trường phù hợp. Điều đó đã giúp người nghiên cứu nhận diện không gian văn
hóa của cộng đồng cư dân Lý Sơn rõ hơn, từ đó việc hình thành nên nét văn hóa
riêng biệt, độc đáo qua văn hóa tín ngưỡng. Sách Cộng đồng ngư dân Việt ở
Nam Bộ (2004) của Trần Hồng Liên (chủ biên) đã so sánh đối chiếu ngư dân
Việt giữa hai làng biển ở Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Tác giả đã nghiên cứu
cộng đồng ngư dân theo phương pháp nghiên cứu trường hợp ở hai cộng đồng
ngư dân Phước Tỉnh (Bà Rịa-Vũng Tàu) và Vàm Láng (Tiền Giang), nhằm
phân tích khá rõ quá trình hình thành và phát triển, đời sống kinh tế và xã hội,
sinh hoạt văn hóa của ngư dân bản địa, đã thể hiện mối quan hệ giữa môi trường
tự nhiên với nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, văn hóa của ngư dân. Ngoài
ra bài viết:Người Việt (Kinh) vùng ven biển miền Trung hội nhập cùng biển cả:
Trường hợp nghiên cứu ở Ninh Thuận, Bình Thuận” của Nguyễn Duy Thiệu;
Thích ứng với biển của người Việt - nhìn từ khía cạnh sinh kế và tín ngưỡng thờ
thần biển của cư dân ven biển (khảo sát từ một số cộng đồng ngư dân ven biển
Trung Bộ, Việt Nam của Trần Thị An (2015), Tính cộng đồng trong hoạt động
đánh bắt xa bờ của ngư dân ven biển miền Trung cả Bùi Xuân Đính (2016)... đã
có những góc nhìn và tư liệu quý về ngư dân Việt vùng Nam Trung Bộ để người
nghiên cứu tham khảo cho luận án. Khi nói đến mối quan hệ giữa cộng đồng và
cá nhân thì sự thể hiện biểu tượng trong tín ngưỡng sẽ được hiển bày trong tín
ngưỡng như một “ký hiệu văn hóa” qua phẩm vật cúng. Sách Lễ hội cổ truyền
của người Việt, cấu trúc và thành tố (2013) của Nguyễn Chí Bền là một công
trình dày công khảo cứu, sưu tầm, nghiên cứu lễ hội cổ truyền Việt Nam. Từ
công trình này, có thể nhận diện chủ thể và khách thể khá đa dạng trong lễ hội,
những nhân vật được thờ phụng trong lễ hội, cùng với những thành tố tạo nên
tính thiêng của lễ hội. Vì vậy, phần Cấu trúc lễ hội cổ truyền của người Việt thì
Ông đã sử dụng lý thuyết cấu trúc luận và chức năng luận để làm sáng tỏ cấu
trúc và thành tố của lễ hội thông qua diễn trình thời gian và lát cắt không gian.
Điều này rất có ý nghĩa cho việc nghiên cứu, nhận diện các thành tố, giá trị của
lễ hội của cư dân huyện đảo Lý Sơn thông qua cách tiếp cận này. Sách Lễ hội
truyền thống của người Việt ở Đồng Bằng Sông Cửu Long vấn đề bảo tồn và
9
phát triển (2014) của Nguyễn Xuân Hồng đã nói lên quá trình cộng cư đan xen,
sinh sống của cư dân nên có những dấu ấn văn hóa trong quá trình giao lưu, tiếp
biến văn hóa tộc người. Bởi môi trường sinh thái tự nhiên – xã hội nơi đây đã
hình thành nên đặc trưng của lễ hội truyền thống phù hợp với môi trường đó. Để
tiếp cận lễ hội thì cần phải xem xét vấn đề phân loại lễ hội, cấu trúc lễ hội, hình
thái học lễ hội, cấu trúc xã hội tham gia lễ hội và sự biến đổi lễ hội theo tiến
trình thời gian. Chúng tôi tham khảo một số công trình, bài viết liên quan đến lễ
hội như Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam (1990)của Sơn Nam, Lễ hội
dân gian của người Việt ở Nam bộ (2003) của Huỳnh Quốc Thắng, Lễ hội dân
gian của ngư dân Bà Rịa-Vũng Tàu (2004) của Đinh Văn Hạnh - Phan An cũng
đã phân tích về lễ hội giữ một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của ngư
dân, giúp họ ổn định phát triển và thay đổi để phù hợp nhu cầu cuộc sống.
Ngoài ra, còn có những công trình, tài liệu liên quan đến sự biến đổi và giá trị
cũng như vấn đề bảo tồn và phát huy tín ngưỡng với tư cách là di sản văn hóa
phi vật thể. Đây là phần tổng kết để rút ra những đặc điểm, những giá trị của tín
ngưỡng trong gia đình – dòng họ, tín ngưỡng cộng đồng cư dân huyện đảo Lý
Sơn. Bởi văn hóa tín ngưỡng luôn biến đổi để đáp ứng nhu cầu tinh thần của
con người, thì người nghiên cứu tham khảo cuốn Sự biến đổi của tôn giáo tín
ngưỡng ở Việt Nam hiện nay (2008) của nhiều tác giả đã cho thấy sự thay đổi
vấn đề tôn giáo tín ngưỡng từ nhiều góc độ khác nhau, các tác giả đã vận dụng
phương pháp điền dã dân tộc học, như quan sát và tham dự để có nguồn tư liệu
chính xác. Trong sách này cũng có bài viết về sự biến đổi tôn giáo tín ngưỡng
nước ta hiện nay gắn liền với bối cảnh phát triển của đời sống xã hội, nhu cầu
kinh tế, địa vị cá nhân, sự thay đổi môi trường sống,… đã giúp chúng tôi nhận
diện những nguyên nhân, nội dung biến đổi trong sinh hoạt tín ngưỡng hiện nay
của cư dân. Vì vậy, tư liệu này đã giúp chúng tôi thực hiện phương pháp nghiên
cứu, kĩ năng phân tích những vấn đề biến đổi trong sinh hoạt tín ngưỡng ở
huyện đảo Lý Sơn. Sách Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập (2010) của Ngô Đức Thịnh
(chủ biên) đã đưa ra một số giá trị văn hóa cơ bản của tôn giáo, tín ngưỡng, lễ
hội cổ truyền. Đồng thời, nêu những giải pháp nhằm bảo tồn, làm giàu, phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam.
Tóm lại, những nguồn tư liệu trên nhằm tham khảo để thực hiện luận án này.
Bởi nguồn tài liệu khá đa dạng ở nhiều khía cạnh khác nhau từ lý thuyết, quan
điểm tiếp cận cho đến tư liệu dân tộc học. Những tài liệu của các chuyên gia
nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực và cách tiếp cận liên ngành và có tính khoa học
cao. Người nghiên cứu sẽ quan tâm ở góc độ ngành văn hóa học. Một số tài liệu
như sách vở, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, bài viết ở các hội thảo, tạp chí
mang tính cập nhật và góp cho người viết luận án có nhiều tư liệu cũng như góc
10
nhìn mới hơn, có tính khoa học hơn cũng như sự ảnh hưởng đến chất lượng của
luận án.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Tiếp cận liên ngành (Interdisciplinary approach) để tìm hiểu về văn hóa tín
ngưỡng, như ngành Địa lý học, ngành Sử học, ngành Tôn giáo học, ngành Nhân
học, ngành Tâm lý … Ở mỗi ngành gần đó, chúng tôi sẽ tiếp cận vấn đề với việc
vận dụng các khái niệm, các lý thuyết, các phương pháp nghiên cứu riêng phù
hợp với từng ngành, nhưng trong quá trình thực hiện luận án này thì người
nghiên cứu theo hướng chuyên ngành Văn hóa học.
- Nghiên cứu định tính (Qualitative research) với các phương pháp và kỹ thuật
thu thập thông tin qua nghiên cứu lời kể (narrative research), quan sát - tham dự
(participant and observation), phỏng vấn sâu (in – depth interviewing) hơn 50
cuộc với những cư dân sinh sống tại Lý Sơn, phỏng vấn lịch sử hồi cố (oral
history) để nghe những thông tin về cuộc sống cũng như văn hóa tín ngưỡng của
gia đình – dòng họ và cộng đồng, qua hồi ức của người sống lâu năm tại Lý
Sơn, ghi chép ở thực địa (fieldnotes), ghi âm, chụp hình ảnh... để có bức tranh
văn hóa tín ngưỡng của cư dân huyện Lý Sơn. Người nghiên cứu đã qua các đợt
khảo sát thực địa, tham dự trực tiếp trong những năm 2012, 2013, 2015, 2016 và
năm 2017 để có cứ liệu thực tiễn nhằm miêu tả, phân tích – tổng hợp lượng
thông tin thu thập được, đã có cuộc khảo sát bằng cách phát 100 phiếu để làm
cứ liệu. Ngoài ra, chúng tôi còn dựa vào tài liệu văn bản của các nhà nghiên cứu
đi trước kết hợp thông tin chuyển tải trên mạng Internet.
- Phương pháp so sánh đối chiếu (Comparative method) nhằm vận dụng lý
thuyết văn hóa vùng để nhận diện, phân chia và tìm hiểu các hiện tượng tương
đồng và khác biệt thông qua so sánh lịch đại, đồng đại trong các hiện tượng văn
hóa tín ngưỡng. Bởi yếu tố vùng miền và điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội
đã có những tương đồng và dị biệt trong văn hóa. Từ đó, rút ra những đặc điểm,
vai trò của văn hóa tín ngưỡng của cư dân huyện đảo Lý Sơn.
- Một số giả thuyết khoa học liên quan đến luận án với một số câu hỏi nhằm
để giải quyết mục tiêu của luận án như sau:
- Các dạng thức tín ngưỡng có mối quan hệ với môi trường sinh thái – văn
hóa của cộng đồng cư dân huyện đảo Lý Sơn?
- Những yếu tố văn hóa truyền thống nông nghiệp và ngư nghiệp kết hợp
với những điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội của vùng đất này có tạo
nên diện mạo đặc trưng cho hệ thống tín ngưỡng cư dân nơi đây?
- Có thể nhận diện và lý giải một số hiện tượng của tín ngưỡng thông qua
nghi thức tế lễ, phẩm vật cúng hay thành phần tham dự không?
- Các tín ngưỡng Lý Sơn đã biến đổi như thế nào trong suốt hàng trăm năm
tồn tại, phát triển của cư dân?
11
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
- Ý nghĩa khoa học của đề tài. Văn hóa của một tộc người không chỉ là sự kế
thừa theo thời gian mà là sự chọn lựa trong quá trình giao lưu, tiếp xúc giữa các
tộc người trong suốt chiều dài lịch sử, cũng như chịu sự chi phối bởi môi trường
tự nhiên và môi trường xã hội nơi tộc người sinh sống. Mặt khác, cùng một tộc
người nhưng hoạt động kinh tế cũng có những khác biệt trong văn hóa. Vì vậy,
cư dân Lý Sơn đã trải qua hàng thế kỷ với vùng đất này để thích ứng với môi
trường sinh thái mới, sáng tạo cho mình một phức hợp văn hóa nhằm góp phần
tạo nên những gía trị văn hóa của cư dân Lý Sơn. Nghiên cứu tín ngưỡng không
chỉ hiểu biết về văn hóa của cư dân trong suốt chiều dài lịch sử mà còn phát huy
những khía cạnh phù hợp trong bối cảnh hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa được tích hợp bởi 3 yếu tố: núi, đồng
bằng và biển. Vốn là một quốc gia có truyền thống làm nông nghiệp, hoạt động
sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Do đó, khi khoa
học kỹ thuật còn chưa phát triển thì các sự vật hiện tượng tự nhiên đã được cư
dân nông nghiệp thần thánh hóa để trở thành các đối tượng được tôn kính và thờ
cúng. Đến vùng đất Trung Bộ, do yếu tố địa hình qui định nên bên cạnh các tín
ngưỡng liên quan đến nông nghiệp như thờ thần đất, thần sông, thần núi, … thì
bắt đầu xuất hiện các tín ngưỡng cư dân đi biển đan xen như tín ngưỡng thờ
thần biển, thờ cá Ông… Đặc biệt, ở huyện đảo Lý Sơn – Quảng Ngãi có vị trí
địa lý, yếu tố sinh thái văn hóa đã hình thành nên một hệ thống tín ngưỡng đa
dạng trong đời sống văn hóa tinh thần của cư dân.
Những đóng góp mới từ kết quả nghiên cứu của luận án, nghiên cứu về
văn hóa tín ngưỡng của cư dân huyện đảo Lý Sơn được một số tác giả đề cập
trong một số công trình nghiên cứu nhưng chủ yếu theo hướng tiếp cận từ góc
độ nhân học/ dân tộc học… Vì vậy, việc tiếp cận của đề tài tiếp cận từ góc độ
văn hóa học là hướng nghiên cứu mới nhằm góp phần trong việc quản lý, bảo
tồn và phát huy những giá trị văn hóa tín ngưỡng của cư dân huyện đảo Lý Sơn
– Quảng Ngãi. Luận án sử dụng các lý thuyết như vùng văn hóa, sinh thái học
văn hóa, giao lưu tiếp biến văn hóa, chức năng luận để phân tích đối tượng
nghiên cứu cụ thể và sâu sắc hơn. Việc vận dụng các phương pháp tiếp cận liên
ngành, phương pháp nghiên cứu định tính, phương pháp so sánh đối chiếu…
trong luận án nhằm lý giải, phân tích và giải quyết vấn đề. Nguồn tư liệu được
thu thập, khảo sát, phỏng vấn trong những năm qua cũng có ý nghĩa thực tiễn,
nhằm nêu lên những nội dung với các dạng thức tín ngưỡng trên địa bàn huyện
đảo Lý Sơn. Đây là tài liệu có giá trị về đời sống văn hóa tín ngưỡng của cư dân
Lý Sơn cho HVCH, NCS, SV các ngành Dân tộc học, Nhân học, Văn hóa học,
Việt Nam học. Kết quả luận án có một số phát hiện khá thú vị, việc thờ cá Ông
tại nhà thờ họ Đặng như một vị phúc thần. Điều này các nhà nghiên cứu về tín
12
ngưỡng ở khu vực Đông Nam Bộ và Nam bộ chưa phát hiện, hay sự chuyển đổi
hay kết hợp giữa tín ngưỡng gia đình – dòng họ và tín ngưỡng cộng đồng.
Ngoài ta, tầm quan trọng của Shaman giáo đã ảnh hưởng đến các loại hình tín
ngưỡng gia đình – dòng họ và cộng đồng ở địa bàn nghiên cứu.
6. KẾT CẤU VÀ QUY CÁCH TRÌNH BÀY LUẬN ÁN
Phần chính văn: ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, luận án có kết cấu 3
chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và tổng quan về huyện đảo Lý Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi, gồm các khái niệm liên quan đến tín ngưỡng, văn hóa tín ngưỡng,
thờ cúng và các lý thuyết nghiên cứu liên quan. Ngoài ra, từ thực tiễn về điều
kiện tự nhiên, lịch sử hành chính, đặc điểm cư dân và tôn giáo tín ngưỡng của
vùng đất, con người Lý Sơn này đã ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa tín ngưỡng
của cư dân.
Chương 2. Các dạng thức tín ngưỡng của cư dân ở huyện đảo Lý
Sơn. Người nghiên cứu trình bày về tín ngưỡng trong gia đình – dòng họ và
cộng đồng của cư dân, như thờ cúng việc lề (tổ tiên), tế lễ âm hồn, thờ cúng cá
Ông, tục thờ cúng Thiên Y A Na. Từ đó, có những cứ liệu để so sánh những
tương đồng và dị biệt các dạng thức tín ngưỡng đó so với những vùng khác.
Chương 3. Đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng trong đời sống văn
hóa của cư dân huyện đảo Lý Sơn.
Người nghiên cứu nêu một số đặc điểm trong văn hóa tín ngưỡng ở Lý Sơn.
Bởi qua các dạng thức tín ngưỡng thể hiện sự tích hợp về tư tưởng và ý nghĩa
của Phật - Đạo - Nho thể hiện qua nghi lễ trong tín ngưỡng. Bên cạnh đó tính
dung hợp thể hiện rõ qua tín ngưỡng cúng Việc lề, tế lễ âm hồn, tín ngưỡng cá
Ông và tục thờ cúng Thiên Y A Na. Tính thực dụng được thể hiện trong việc
thờ cúng Việc lề đến lễ khao lề thế lính Hoàng Sa cũng như ý thức về việc bảo
vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam. Tính linh hoạt thể hiện từ sự chuyển đổi và
kết hợp trong tín ngưỡng giữa nông nghiệp và ngư nghiệp cũng như từ tín
ngưỡng gia đình – dòng họ đến cộng đồng. Điều đó cho thấy vai trò của văn
hóa tín ngưỡng là đáp ứng nhu cầu tâm linh, cố kết cộng đồng cũng như bảo
tồn và trao truyền những giá trị văn hóa truyền thống cho các thế hệ hiện nay.
Phần tài liệu tham khảo gồm 20 trang có 266 tài liệu.
Phần Phụ lục gồm những tư liệu thu thập từ điền dã thực tế chia làm 3 phụ
lục gồm phỏng vấn sâu (125 trang), hoành phi câu đối (13 trang) và hình ảnh
(28 trang).
Về cách thức ghi dẫn nguồn, người nghiên cứu đặt ngay sau ý hoặc đoạn
trích dẫn theo hướng dẫn trong quy chế với phương thức sau: (tên tác giả, năm
xuất bản, trang..), chẳng hạn ( Ngô Văn Lệ, 2017, tr...). Ngoài ra, chúng tôi có
dẫn nguồn tư liệu trong phần Phụ lục bao gồm Biên bản phỏng vấn, Tư liệu điền
dã và Phiếu điều tra, cụ thể: (PL-BBPV số....) có nghĩa là Phụ lục - Biên bản
13
phỏng vấn số....; (PL-TLĐD số....) có nghĩa là Phụ lục-Tư liệu điền dã số....;
(PL - PĐT số...) có nghĩa là Phụ lục - Phiếu điều tra số...
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN, TỈNH
QUẢNG NGÃI
1.1. Các khái niệm
- Tín ngưỡng
Tín ngưỡng (belief) là một yếu tố quan trọng trong đời sống tinh thần
của con người, như một hiện tượng văn hóa nhằm phản ánh niềm tin, ước vọng
của con người. Thế nhưng, do cách tiếp cận của mỗi ngành nên khái niệm tín
ngưỡng chưa được thống nhất. Nhưng tín ngưỡng là bộ phận quan trọng của tôn
giáo, nằm trong khái niệm tôn giáo, là cơ sở hình thành tôn giáo với hình thức
tôn giáo sơ khai như: tô tem giáo, bùa và lễ ám hại, chữa bệnh bằng phù phép,
thờ cúng tổ tiên, Shaman giáo, hay thờ thần thủ lĩnh và thờ thần nông. Theo luật
tín ngưỡng, tôn giáo (2017) đã viết:
“Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ
nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về
tinh thần cho cá nhân và cộng đồng, và hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thờ
cúng tổ tiên, các biểu tượng linh thiêng, tưởng niệm và tôn vinh người có công
với đất nước, với cộng đồng, các lễ nghi dân gian tiêu biểu cho những giá trị
lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội”. (Quốc Hội Nước CHXHCNVN, 2017, tr. 8).
Vì vậy, chúng tôi cho rằng tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng vọng của con
người vào những cái siêu nhiên hay cái thiêng trong đời sống tâm linh của con
người, khi tín ngưỡng chưa có hệ thống giáo lý mà chỉ có các huyền thoại, thần
tích, truyền thuyết. Tín ngưỡng mang tính chất dân gian, gắn với sinh hoạt văn
hóa dân gian nhằm thể hiện thông qua văn hóa giao tiếp giữa thế giới thần linh
và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ nhưng chưa chặt chẽ. Con người hướng
đến thần linh, đấng thiêng nhằm thể hiện niềm tin của mình để mong cầu sự
bình an.
-Văn hóa tín ngưỡng
Dưới góc nhìn văn hóa, văn hóa tín ngưỡng đã thể hiện sự gắn bó và tác
động qua lại giữa văn hóa và tín ngưỡng như thể hiện trong văn hóa giao tiếp và
văn hóa tâm linh. Bởi những đối tượng sùng bái, thờ phụng được thể hiện niềm
tôn kính từ niềm tin, ước nguyện của cư dân qua việc sắp xếp lễ vật, nghi thức
khấn vái, thành phần tham dự. Đây là sự thể hiện văn hóa, còn tín ngưỡng nhằm
mang lại tính thiêng. Những hoạt động tín ngưỡng nhằm xóa đi sự ngăn cách
giữa con người để khơi dậy tinh thần tự nguyện. Trong cuốn Tín ngưỡng và văn
hóa tín ngưỡng ở Việt Nam đã viết:
“Tương ứng với các cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng… đều có các dạng thức
văn hóa tương ứng. Bản thân các tôn giáo tín ngưỡng đã là một hình thức văn
14
hóa đặc thù. Đấy là chưa kể, trong quá trình hình thành và phát triển, mỗi tôn
giáo tín ngưỡng bao giờ cũng sản sinh, tích hợp trong nó những hiện tượng,
những sinh hoạt văn hóa nghệ thuật”. (Ngô Đức Thịnh (chủ biên), 2006, tr. 28).
Như vậy, văn hoá tín ngưỡng là sự gắn kết từ một hình thức tín ngưỡng nào
đó qua sự tích hợp tổng hòa các giá trị văn hoá vật chất và văn hóa tinh thần
cùng tồn tại như một tổng thể văn hoá. Vì vậy, chúng tôi hiểu văn hóa tín
ngưỡng là hệ thống giá trị qua những phương cách ứng xử của con người với
thế giới siêu nhiên hay xã hội có liên quan đến môi trường tự nhiên và xã hội
của một cộng đồng cư dân.
Bên cạnh đó, Thờ cúng cũng là hành vi thể hiện lòng thành kính của con
người trong tín ngưỡng và tôn giáo, như Hoàng Phê đã viết:
“Thờ cúng là tỏ lòng thành tôn kính thần thánh, vật thiêng hoặc linh
hồn người chết bằng hình thức lễ nghi, cúng bái theo phong tục hoặc tín
ngưỡng như thờ tổ tiên, thờ Phật, thờ Thần trên bàn thờ hay đền thờ hay thờ
cúng là thể hiện sự tôn kính và coi là thiêng liêng như việc thờ cha kính mẹ”.
(Hoàng Phê, 1992, tr. 318).
Theo chúng tôi, thờ cúng cũng có những dạng tín ngưỡng “vừa thờ vừa
cúng” nhằm thể hiện lòng thành kính với tổ tiên, thần linh, nhưng cũng có dạng
tín ngưỡng như âm hồn chỉ “cúng tế” chứ không “thờ phụng”. Vì vậy, việc thờ
cúng là hành vi thể hiện lòng tôn kính với đấng thiêng, những vong linh, đồng
thời để thể hiện nguyện vọng chính đáng của cư dân Lý Sơn trước cuộc sống
đầy rẫy những khó khăn, bất trắc.
1.2. Lý thuyết nghiên cứu
Trong nghiên cứu luận án, chúng tôi tiếp cận theo hướng sinh thái học văn
hóa (Cultural ecology), lý thuyết vùng văn hóa (Cultural Area), giao lưu và tiếp
biến văn hóa (Cultural Exchanges and Acculturation), Chức năng luận
(Functionalism) để tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng.
1.3. Lý Sơn - vùng đất và con người
Về điều kiện địa lý, đặc điểm kinh tế - xã hội văn hóa đã ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống cộng đồng Lý Sơn, bới nó gắn liền với môi trường sinh thái,
địa văn hóa nên cư dân đã hình thành các dạng thức tín ngưỡng phong phú về
nhân thần, thiên thần, nhiên thần…
Theo tài liệu cổ thì lịch sử hành chính đảo Lý Sơn có tên gọi là Du Trường
Sơn. Thời các chúa Nguyễn thì đảo Lý Sơn gọi là Cù lao Ré, rồi tổng Lý Sơn
thuộc phủ Bình Sơn. Từ sau ngày thống nhất đất nước năm 1975 đến nay đã
nhiều lần thay đổi tên xã nhưng đến năm 2003 thì huyện đảo Lý Sơn có ba xã
gồm An Hải, An Vĩnh và An Bình.
Về cư dân Lý Sơn, theo cuốn Địa chí Quảng Ngãi đã viết:“Cách nay 2500
năm – 3000 năm ở đảo Lý Sơn đã có cư dân, có lẽ đó là chủ nhân của văn hóa
Sa Huỳnh. Cư dân sống dọc các suối cổ, bắt ốc bắt cá, có thể có cả canh tác
15
nông nghiệp để sinh sống. Kế tiếp đó là lớp cư dân Chămpa cũng sống bằng
nghề khai thác hải sản và trồng rau củ, hoa màu”. (UBND tỉnh Quảng Ngãi,
2008, tr. 105). Trong cuốn Quảng Ngãi, đất nước con người và văn hóa cho
biết thêm về người Việt từ miền Bắc di cư vào Quảng Ngãi theo 3 đợt: “từ thời
nhà Hồ đến vua Lê Thánh Tông rồi đợt Nguyễn Hoàng vào Nam mở mang vùng
đất phương Nam. Ngoài ra, còn có những cuộc di dân tự do của nông dân miền
Bắc”. (Sở Văn hóa thông tin Quảng Ngãi, 2002, tr. 46-58). Sau đó, những cư
dân Việt đến đảo Lý Sơn vào khoảng cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII để khai
hoang lập ấp và thiết lập bộ máy chính quyền để quản lý. Đến năm 1975 thì cơ
cấu tổ chức của làng đã thay đổi. Về tôn giáo, tín ngưỡng hiện có 9 cơ sở thờ tự
tôn giáo và 43 cơ sở thờ tự tín ngưỡng cổ truyền.
Tiểu kết chương 1
Từ những cơ sở lý thuyết và thực tiễn về vùng đất biển đảo Lý Sơn, cho
chúng ta hiểu về văn hóa, lịch sử của cộng đồng cư dân. Những tác động từ môi
trường sinh thái, địa văn hóa, sử văn hóa, đặc điểm tộc người, nơi cư trú,
phương thức sản xuất gắn với ngành nghề đã hình thành nên tín ngưỡng. Trong
quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa cộng đồng cư dân Lý Sơn đã tích lũy và
sáng tạo để tạo nên những đặc trưng riêng trong đời sống văn hóa của mình.Hơn
thế, sự dung hợp và tích hợp giữa cộng đồng cư dân nông nghiệp và ngư nghiệp
đã làm nên những đặc trưng bản sắc riêng của vùng văn hóa cư dân trên đảo Lý
Sơn, đặc biệt là văn hóa tín ngưỡng. Vì vậy, từ cơ sở thực tiễn mà người nghiên
cứu đã vận dụng những lý thuyết để nghiên cứu các dạng thức tín ngưỡng của
cư dân ở huyện đảo Lý Sơn, từ tín ngưỡng của gia đình - dòng họ cho đến tín
ngưỡng của cộng đồng.
CHƯƠNG 2.
CÁC DẠNG THỨC TÍN NGƯỠNG CỦA CƯ DÂN
Ở HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN
2.1. Vài nét về tín ngưỡng trong gia đình–dòng họ và cộng đồng của cư
dân
- Tín ngưỡng trong gia đình – dòng họ của cư dân Lý Sơn thể hiện qua thờ
cúng việc lề (tổ tiên), thờ cúng gia thần hay nghi thức tế lễ âm hồn. Hơn nữa,
một số dòng họ có những vị nhân thần thường gọi là “Quan”. Ngoài ra, những
gia đình, tộc họ có thờ thổ thần nên trong ba ngày đầu năm những gì liên quan
đến đồng áng, chôn người mất hay ngư dân đi biển cũng phải chờ làng, xóm,
thôn động thổ xong mới tiến hành thực hiện. Tín ngưỡng này đã thể hiện niềm
tin, sự thích nghi với điều kiện sống của cư dân so với nơi khác nên có những
giá trị đặc trưng trong văn hóa tín ngưỡng ở Lý Sơn, như một hệ thống mở từ
tín ngưỡng của gia đình - dòng họ đã trở thành tín ngưỡng của cộng đồng.
- Tín ngưỡng trong cộng đồng. Theo chúng tôi biết, hiện nay ở Lý Sơn có 43
cơ sở thờ tự tín ngưỡng. Điều này cũng đã nói lên được tâm thức của cư dân nơi
16
đây về tín ngưỡng. Họ luôn có niềm tin vào thần thánh, như cuốn Lễ hội và
nhân sinh của Đặng Văn Lung đã viết: “Gửi lòng mình vào vật cúng, vật dâng,
lời khẩn nguyện kèm theo thái độ thành kính. Đó là cách giao tiếp đặc biệt của
một linh hồn nhỏ đối với một linh hồn lớn”. (Đặng Văn Lung, 2005, tr. 937).
Ngoài ra, Léopold Cadière cũng đã viết: “Thờ cúng ông bà tổ tiên chỉ là một
phần nhỏ trong tổng thể thần thánh mênh mông, và việc thờ ông bà chỉ là một
trong những khía cạnh đa dạng của tôn giáo người Việt”. (Léopold Cadière,
2015, tr. 36).
Bởi các dạng thức tín ngưỡng là sản phẩm tinh thần, nhằm đáp ứng nhu cầu
sinh sống của cư dân trước những khó khăn nên cần đến một niềm tin về tâm
linh. Như chú Võ Văn Hoàng - An Hải đã nói: “Ui, Thần thánh dữ lắm, người
ta đam mê nhiễm luôn, nói chung con người ở Lý Sơn nhiễm luôn”. (PL-BBPV
số 23).
2.2. Thờ cúng việc lề (tổ tiên)
Cúng việc lề là nghi thức cúng tổ tiên đã thành lệ của cư dân Lý Sơn. Tùy
vào từng tộc họ nên cúng việc lề có những quy ước về ngày cúng cũng khác
nhau. Họ thường tổ chức vào tháng 2 hay tháng 3 âm lịch hằng năm. Theo
truyền thống, các tộc họ ở Lý Sơn thường tổ chức nghi lễ này vào rạng sáng, nhưng
hiện nay thời gian tổ chức lễ chính tế thường vào rạng sáng hoặc lúc 10 giờ khuya
hay vào lúc trưa tùy từng tộc họ.
Về cách bài trí và nghi lễ thờ cúng việc lề tùy vào từng tộc họ, nhưng những
tộc họ tiền hiền thường bài trí và thực hành nghi lễ giống nhau, còn phẩm vật
cúng thì Phan Đình Độ đã viết rằng: “Ngày xưa, lễ vật cúng Việc lề của các
dòng họ thường có một thức cúng riêng, như họ Phạm thì có đãi gỏi cá nhám,
họ Dương thì có ba con gà luộc, họ Phan thì có cá nướng nguyên con, họ Võ thì
cúng tam sanh như cá nướng, cua luộc, gà…đây là những thức cúng bắt buộc
phải có trong lễ cúng Việc lề”. (Phan Đình Độ, 2008, tr. 246).
Bởi vật phẩm cúng mang một quy ước, một sản phẩm biểu tượng của văn
hóa chứa đựng một thông điệp trong nghi lễ phù hợp với từng tộc họ. Ngoài ra,
tại chánh điện của nhà thờ tộc họ thường có liễn đối, hoành phi như có chức
năng nhắc nhở con cháu về công đức của tổ tiên, cũng như lời khuyên bảo cho
con cháu. Về thành phần tham dự gồm các chi phái trong dòng họ để thực hiện
nghi thức cúng này. Ngoài ra, để tìm hiểu những tương đồng và dị biệt tín
ngưỡng thờ cúng việc lề của cư dân Lý Sơn thì chúng tôi so sánh với một số địa
phương khác như ở Nam bộ. Bởi những vị tiền hiền có công khai hoang lập ấp
được cộng đồng cư dân Lý Sơn thờ tự và tế lễ như vị thần hoàng vậy.
Như vậy, tín ngưỡng cúng việc lề của cư dân Lý Sơn thể hiện niềm tin
nhằm mong cầu sự độ trì gia hộ của tổ tiên, thần linh cho các thành viên trong
gia tộc, dòng họ được phước huệ an khang, vụ mùa được bội thu.
2.3. Tế lễ âm hồn trong gia đình - dòng họ của cư dân Lý Sơn
17
Tế lễ âm hồn vốn là một tín ngưỡng dân gian, được sự bảo trợ và chế định
hóa của nhà nước phong kiến mà ngày nay tế lễ này vẫn càng duy trì, bảo tồn và
củng cố hơn.
Nghi thức tế lễ âm hồn diễn ra vào dịp cúng việc lề hay tết, giỗ chạp để tỏ
lòng tri ân những vị Tiền Chủ, sự thương xót những người khuất mặt trên con
đường sinh kế, lập nghiệp. Về cách bài trí tế lễ âm hồn cũng tùy vào nguyên
nhân chết nên có những cách thức bài trí phối thờ trong từng nghi thức tế âm
hồn, cúng chiêu hồn hay tế cúng bạt thục mà thiết lập trai đàn khác nhau. Về
phẩm vật cúng âm hồn trong tộc họ giống như cúng việc lề vậy, nhưng khi cúng
bạt thục lại thực hiện theo sự mách bảo của vị “Quan” trong gia đình hay vị
thần thánh nào cho là hiển linh. Những phẩm vật cúng tế, đó là: “vái cúng một
hồng kê (1 con gà) nhất đầu, rồi một trư (một con heo), nhất khẩu”. [PL-BBPV
số 30], nhằm để mua chuộc lại vong hồn người mất chưa siêu thoát, hay vong
hồn đó đang bị ai bắt giữ. Còn khi cúng tế chiêu hồn cho người mất ở biển hay
những nguyên nhân khác phải thực hiện làm hình mộ chiêu hồn. Thầy Pháp
phải thực hiện theo tuần tự để nặn cái hình nhân, để rồi truy tróc các hồn thất
phách phục vị vong rồi mới đưa vào hòm để chôn, còn nghi thức cúng bạt thục
thực hiện mang tính chất "ma thuật" hay “Shaman giáo”. Về thời gian tổ chức
cúng bạt thục diễn ra lúc 1 hay 2 giờ sáng, chứ không như những nghi thức khác
có thể diễn ra vào lúc sáng hay trưa. Khi thực hiện cúng tế chiêu hồn hay bạt
thục thì các chi phái trong tộc họ đều tham dự và có Pháp sư tham dự nữa.
2.4. Tế lễ âm hồn của cộng đồng thường tổ chức trong tiết Thanh minh
nhằm thể hiện lòng tri ân, sự thương xót đến những anh linh, cô hồn, âm hồn
trong quá trình khẩn hoang lập ấp hay đi làm nghĩa vụ cho dân tộc phải bỏ mạng
ngoài biển hay tử nạn đi biển rồi trôi dạt vào bờ, đó là chùa Âm hồn - An Vĩnh
mà người dân Lý Sơn nào cũng biết.
Về không gian cúng tế âm hồn thường diễn ra ở nghĩa tự hay miếu, chùa âm
hồn, âm linh tự. Về kiến trúc cũng như cách bài trí phối thờ cúng âm hồn cũng
khác nhau, nhưng nghi thức tế lễ âm hồn đều thực hiện theo các bước sơ hiến, á
hiến và chung hiến với thành phần tham gia tế lễ gồm ông cả làng, ông chủ xóm
và cư dân... Đối với lễ vật cúng âm hồn thường làm lễ kỉnh sinh với phẩm vật
cúng là một con heo, kinh phí do cư dân đóng góp, nhưng ở nghĩa tự - An Hải
thì phẩm cúng do mỗi gia đình mang đến phụng cúng, có thể là khoai, sắn, bắp,
gạo, cháo trắng, mía, hay hải sản. Mỗi gia đình mang mâm cỗ đến nghĩa tự của
xóm, của làng để cúng. Ngoài ra, chúng tôi còn so sánh giữa tế lễ âm hồn ở
huyện đảo Lý Sơn với vùng khác để thấy được những tương đồng va dị biệt.
2.5. Thờ cúng cá Ông của cư dân ở huyện đảo Lý Sơn
Trong dân gian, cá Voi có tên khác nhau như: ông Nam Hải, ông Chuông,
ông Khơi, ông Lớn, ông Cậu...,nhưng ở Lý Sơn gọi cá Ông là “Đức
Ông”,“Đức Ngư”,“Lệnh Ông”,“Ông Đại Tướng”...Ngoài ra, cá Ông, cá Bà
18
còn có danh xưng, mỹ hiệu do thần thánh hóa được thể hiện trong bài văn tế
cúng cá Ông ở các lăng lân. Vì tín ngưỡng này đã ảnh hưởng trong tâm thức của
cư dân từ buổi đầu khai khẩn vùng đảo Lý Sơn nên được thờ tự nhiều nơi. Về
cảnh quan thì rộng rãi, có nhiều cây cổ thụ. Các lăng lân cá Ông được xây dựng
gần cửa biển để rước Ông khi bị lụy vào tu, hay làm lễ tống ôn, các lễ hội trong
năm như đua thuyền tứ linh, lễ ra mắt đầu năm.
Về cách bài trí phối thờ cá Ông được thờ chính tự như lăng Ông Đại
Tướng, Lân Đông Hải và phối tự với tiền nhân như tại nhà thờ họ Đặng. Nơi
chánh điện có nhiều hoành phi, câu đối với nội dung ca ngợi sự hiển linh và
công đức của vị thần Nam Hải mà cư dân mang đến phụng cúng như thể hiện
lòng biết ơn, sự tri ân. Về nghi thức cũng thực hiện theo ba bước từ sơ hiến lễ, á
hiến lễ đến chung hiến lễ với thành phần tham dự có ông chủ lân, trùm vạn, thủ
tự, chấp sự, xướng lễ… Hơn nữa, chúng tôi còn so sánh những điểm tương đồng
và dị biệt với vùng khác để thấy được những đặc trưng trong tín ngưỡng như
danh xưng cá Ông.
2.6. Tục thờ cúng Thiên Y A Na của cư dân
Trong tâm thức dân gian, Thiên Y A Na là dạng tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt
Nam được cộng đồng cư dân thờ tự khá phổ biến với mong muốn sự che chở,
bảo hộ cho cuộc sống an lành. Về lược sử Thiên Y A Na, trong cuốn Nhận thức
về Miền Trung Việt Nam hành trình 10 năm tiếp cận đã viết: “Nữ thần
Bhavagati, một hoá thân nữ tính của thần Civa đã được bản địa hoá thành
Thiên Y A Na, bà được tôn thờ là thần mẹ đã tạo dựng vương quốc ChămPa”
(Viện văn hoá nghệ thuật Việt Nam, 2009, tr.102). Về nguồn gốc và thần tích về
Bà có nhiều điển tích nên được ngưỡng vọng tôn thờ từ tầng lớp vua quan cho
đến thứ dân nên nhà Nguyễn đã ban sắc phong cho Bà là “Thượng đẳng thần”.
Theo ông Dương Quỳnh (90 tuổi) ở Thôn Đông - An Hải cho biết về nguồn gốc
Lân Đông Thạnh - An Hải, nơi thờ Bà Thiên Y A Na như sau:
“Nghe nói Ông bà tui về dưới này rồi mới bắt đầu lập cái Lân này để quy
danh lập ấp, từ đó thành mãi đến bấy giờ. Lân Đông Thạnh này cũng đã trải
qua nhiều lần bị đốt cháy, rồi người dân lập trở lại nên bây giờ nó mới có quy
mô như thế này để thờ Bà Thiên Y A Na… Ở đây người dân thờ Bà Thiên Y rất
nhiều vì dọc theo miền biển….”. (PL-BBPV số 72). Vì vậy, tục thờ cúng Thiên
Y A Na của cư dân Lý Sơn đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh, như
Ông Võ Hòe đã nói:
“Hễ khi cầu dưới Dinh bà Trời mà hạ lệnh là phiên này con không được đi
thì không đi, điều này không phải một người mà bao gồm tất cả các ngư dân đó.
Vì không nghe là ra gặp nạn thôi. Hễ ngang thì ráng chịu thôi. Hễ ngang là tàn
thôi. Sở Bà ở dưới An Hải thì một năm là nói chuyện với con dân biết bao nhiêu
lần, hễ biển dã có gì thì nhờ bà chỉ dẫn cho đó”. (PL-BBPV số 37).
19
Về cảnh quan, nơi thờ Bà đều có cảnh quan thoáng mát rộng rãi, được xây
dựng trên vùng đất cao hay lưng đồi núi. Về cách bài trí thờ cúng Bà thường thờ
chính tự hay phối thờ. Nơi tiền đường có nhiều hoành phi, liễn đối với nội dung
ca ngợi sự linh hiển của Bà, mong Bà phù hộ cho cư dân có cuộc sống được thái
bình, thịnh vượng. Vì vậy, cư dân mang câu đối để phụng cúng nhằm thể hiện
tấm lòng thành kính với Bà. Về nghi lễ, theo lệ vào ngày 25/2 âm lịch là ngày tế
lễ Bà Thiên Y A Na, nhưng trước đó 3 ngày thì các dinh, lân thờ Bà đã tổ chức
để nhập yết để cầu an cho thôn xóm, đến tối 24 rạng sáng 25 diễn ra lễ chính.
Về thành phần tham dự tế lễ có ban khánh tế, chủ cựu, ông cả làng, các chủ lân
và đại diện các họ tộc tiền hiền. Ngoài ra, ngày 26/12 âm lịch các dinh thờ Bà tổ
chức lễ mộc dục cho Bà. Nghi lễ này, chủ lân thường mời những cựu lân hay
người đại diện họ tộc đã có công phụng sự đến tham dự, hay tộc họ có công
dựng xây dinh thờ để bày tỏ lòng biết ơn đến. Hơn nữa, chúng tôi còn so sánh
tục thờ cúng Thiên Y A Na ở một số vùng khác để thấy những điểm tương đồng
và dị biệt trong tín ngưỡng này.
Tiểu kết chương 2
Các dạng thức tín ngưỡng của cư dân Lý Sơn nhằm thể hiện niềm tin
trong văn hóa tâm linh, thông qua việc “tri ân và báo ân” như một truyền thống
tốt đẹp bao đời nay. Hơn thế, tín ngưỡng đó không chỉ thể hiện lòng tri ân với ông
bà tổ tiên quá vãng mà còn tưởng nhớ đến những binh phu Hoàng Sa đã hy sinh,
những chiến sĩ trận vong vì chủ quyền của Tổ quốc qua nghi thức tế lễ, thành phần
tham dự…để mong sự phù hộ độ trì từ những đấng thiêng hay phúc thần. Các
dạng thức tín ngưỡng đó được kiến lập mang nét văn hóa tín ngưỡng đặc thù
gắn với môi trường sinh thái văn hóa nơi biển đảo Lý Sơn. Hơn thế, văn hóa tín
ngưỡng đã và đang ảnh hưởng trong đời sống kinh tế xã hội của cư dân Lý Sơn.
Bởi nó là chỗ dựa tinh thần, là niềm tin tâm linh của cư dân Lý Sơn nhằm mong
cầu thần linh, gia thần phù hộ, độ trì cho cộng đồng cư dân.
CHƯƠNG 3.
ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ TÍN NGƯỠNG TRONG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN
3.1. Một số đặc điểm văn hóa tín ngưỡng của cư dân huyện đảo Lý Sơn.
Văn hóa tín ngưỡng từ gia đình - dòng họ cho đến cộng đồng đã thể hiện qua
một số đặc điểm và vai trò trong đời sống của cư dân Lý Sơn. Chính những đặc
thù riêng do bối cảnh địa lý, không gian sống, lịch sử văn hóa của vùng đất này
trong dòng chảy văn hóa đã để lại những dấu ấn đặc trưng. Bởi các loại hình tín
ngưỡng đó được tích hợp qua tư tưởng và ý nghĩa trong Phật – Đạo – Nho qua
các hình thức tín ngưỡng, cũng như thể hiện mối liên hệ từ tín ngưỡng cúng việc
lề đến lễ khao lề thế lính Hoàng Sa. Bên cạnh đó, tính dung hợp, tính lịch sử
cũng thể hiện qua các loại hình tín ngưỡng mang giá trị đặc trưng văn hóa cư
dân Lý Sơn. Tính linh hoạt thể hiện trong sự kết hợp và chuyển đổi từ tín
20
- Xem thêm -