Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Huỷ hợp đồng trong trường hợp hàng hoá không phù hợp với hợp đồng theo công ước ...

Tài liệu Huỷ hợp đồng trong trường hợp hàng hoá không phù hợp với hợp đồng theo công ước viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế

.PDF
81
677
66

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH ---------***--------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Chuyên ngành: Luật kinh doanh quốc tế HỦY HỢP ĐỒNG TRONG TRƯỜNG HỢP HÀNG HÓA KHÔNG PHÙ HỢP THEO CÔNG ƯỚC VIÊN NĂM 1980 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ Họ và tên sinh viên: Bạch Thị Hương Giang Mã sinh viên: 0852020007 Lớp: Anh 2 – Khối 1 QT Khóa: 47 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Hằng Hà Nội, tháng 05 năm 2012 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ....................................................................................................... i CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ CHẾ TÀI HỦY HỢP ĐỒNG TRONG TRƯỜNG HỢP HÀNG HÓA KHÔNG PHÙ HỢP THEO CÔNG ƯỚC VIÊN NĂM 1980 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ............................................ 1 1.1. Khái quát chung về Công ước Viên năm 1980 và hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế................................................................................................... 1 1.1.1. Giới thiệu Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (CISG) ....................................................................................................... 1 1.1.2. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế theo CISG ................................ 4 1.2. Khái quát chung về chế tài huỷ hợp đồng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ............................................................................................................ 5 1.2.1. Điều kiện áp dụng chế tài huỷ hợp đồng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế..................................................................................................... 5 1.2.2. Hậu quả pháp lý của việc huỷ hợp đồng ........................................... 11 1.3. Khái quát chung về tính phù hợp với hợp đồng của hàng hoá............... 12 1.3.1. Tính phù hợp của hàng hoá ............................................................... 12 1.3.2. Trách nhiệm của người bán về việc hàng hoá không phù hợp với hợp đồng 16 1.3.3. Quyền khôi phục tính phù hợp của hàng hóa với hợp đồng của người bán trước hạn giao hàng ....................................................................................... 19 1.3.4. Kiểm tra chất lượng hàng hoá và khiếu nại trong trường hợp hàng hoá không phù hợp với hợp đồng ........................................................................ 19 CHƯƠNG 2: HỦY HỢP ĐỒNG TRONG TRƯỜNG HỢP HÀNG HÓA KHÔNG PHÙ HỢP THEO CÔNG ƯỚC VIÊN NĂM 1980 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ ................................................................ 21 2.1. Các trường hợp dẫn đến việc áp dụng chế tài huỷ hợp đồng do hàng hoá không phù hợp theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế .......................................................................................................... 21 2.1.1. Các trường hợp hàng hoá không phù hợp cấu thành vi phạm cơ bản. .. 21 2.1.2. Trường hợp không thể khôi phục tính phù hợp của hàng hóa trong khoảng thời gian mà người mua đã gia hạn thêm hoặc thời hạn mà người bán đã yêu cầu người mua gia hạn thêm. ........................................................................ 31 2.2. Một số giới hạn về quyền huỷ hợp đồng của người mua do hàng hoá không phù hợp với hợp đồng ............................................................................ 34 2.2.1. Trường hợp người mua không khiếu nại hoặc không kịp thời khiếu nại về sự không phù hợp của hàng hóa. ............................................................... 34 2.2.2. Trường hợp người mua mất quyền huỷ hợp đồng do không thông báo kịp thời. ................................................................................................................ 40 2.2.3. Khả năng người bán giảm giá hàng hoặc sửa chữa hàng hoá hoặc giao hàng thay thế ........................................................................................................ 42 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VIỆC HỦY HỢP ĐỒNG DO HÀNG HÓA KHÔNG PHÙ HỢP THEO CÔNG ƯỚC VIÊN NĂM 1980 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM ...................................................................... 46 3.1. Đánh giá các quy định và thực tiễn huỷ hợp đồng do hàng hoá không phù hợp theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế........................................................................................................................... 46 3.1.1. Đánh giá các quy định liên quan đến huỷ hợp đồng do hàng hoá không phù hợp theo CISG.................................................................................... 46 3.1.2. Đánh giá thực tiễn huỷ hợp đồng do hàng hoá không phù hợp theo CISG..................................................................................................................... 48 3.2. Giải pháp nhằm hạn chế việc hàng hoá không phù hợp với hợp đồng dẫn đến huỷ hợp đồng theo CISG .................................................................... 51 3.2.1. Các bên thỏa thuận cụ thể về tính phù hợp của hàng hoá và khả năng áp dụng chế tài huỷ hợp đồng .............................................................................. 51 3.2.2. Sử dụng hợp lý các giới hạn về huỷ hợp đồng do hàng hoá không phù hợp với hợp đồng theo CISG ............................................................................... 52 3.2.3. Tạo điều kiện thiết lập giao dịch mới giữa các bên trên cơ sở hợp đồng cũ đã bị huỷ ................................................................................................. 54 3.2.4. Kết hợp áp dụng các thói quen, tập quán thương mại, các quy phạm tư pháp quốc tế trong các giao dịch mua bán hàng hoá quốc tế .......................... 54 3.2.5. Bổ sung các quy định mới về các vấn đề pháp lý mới phát sinh ...... 56 3.3. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam ..................................................... 56 3.3.1. Bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam ..................... 57 3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện thêm các quy định pháp luật của Việt Nam về vấn đề hủy hợp đồng trong trường hợp hàng hóa không phù hợp dẫn đến hủy hợp đồng ..................................................................................................................... 61 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................... 67 1 DANH MỤC VIẾT TẮT Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt CISG, Công ước Convention on Contracts for the Công ước Viên năm 1980 Viên năm 1980, International Sale of Goods về hợp đồng mua bán Công ước hàng hóa quốc tế UCC Uniform Commercial Code Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ PECL Principles of European contract law UNCITRAL on Bộ nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng United Nations Commission on Ủy ban của Liên Hợp International Trade Law Quốc về Luật thương mại quốc tế ICC International Commerce Chamber of Phòng thương mi quốc tế i LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau 25 năm mở cửa thị trường và 5 năm gia nhập tổ chức Thương mại thế giới, hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam trong đó nòng cốt là ngoại thương tiến bộ rõ rệt. Thị trường được rộng mở tới hơn 150 nền kinh tế thành viên. Các hợp đồng xuất nhập khẩu giữa các thương nhân Việt Nam và các thương nhân nước ngoài càng nhiều hơn về số lượng và lớn hơn về giá trị hợp đồng. Đặc biệt, lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá đã có bước tăng trưởng vượt bậc và trở thành một trong những ngành chủ chốt của các hoạt động ngoại thương nói chung. Với tình hình mua bán hàng hoá quốc tế diễn ra nhộn nhịp như vậy, tính chất và quy mô của các giao dịch này ngày càng đa dạng và phức tạp. Do vậy, khi mà khoảng cách kinh tế, kỹ thuật và văn hoá vẫn chưa được xoá bỏ hoàn toàn, rất nhiều các thương nhân Việt Nam gặp phải các trường hợp vi phạm dẫn đến huỷ hợp đồng gây thiệt hại lớn và quan trọng nhất là khiến cho mục đích khi giao kết hợp đồng lúc ban đầu không được thực hiện. Một trong những nguyên nhân phổ biến dẫn đến huỷ hợp đồng chính là do hàng hoá không phù hợp với hợp đồng. Vậy thế nào là hàng hoá không phù hợp với hợp đồng? Trường hợp nào hàng hoá không phù hợp với đồng có thể dẫn đến huỷ hợp đồng? Pháp luật hợp đồng của Việt Nam vẫn chưa có những quy định cụ thể rõ ràng về trường hợp này. Tuy nhiên, những nguồn luật khác như Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ, chỉ thị 44/99/EC của Nghị viện châu Âu1, Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đều có những quy định liên quan, đặc biệt là Công ước Viên năm 1980 - nguồn luật điều chỉnh phần lớn các hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế trên thế giới. Chính vì vậy, người viết đã chọn Công ước Viên năm 1980 nhằm làm rõ thêm vấn đề trên và chọn đề tài: “Huỷ hợp đồng trong trường hợp hàng hoá không phù hợp với hợp đồng theo Công ước Viên 1 Điều 2, chỉ thị 44/99/EC về mua bán hàng hoá và các biện pháp đảm bảo. Xem tại http://eur-lex.europa.eu/LexUriServ/LexUriServ.do?uri=CELEX:31999L0044:EN:NOT. ii năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Bằng việc chọn đề tài “Huỷ hợp đồng trong trường hợp hàng hoá không phù hợp theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp, người viết sẽ làm rõ trường hợp huỷ hợp đồng do hàng hoá không phù hợp với hợp đồng trong khuôn khổ các giao dịch áp dụng Công ước Viên 1980 trên mặt lý luận và thực tiễn. Từ đó người viết đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế trường hợp này và bài học kinh nghiệm đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia quan hệ mua bán hàng hoá quốc tế. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: • Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của khoá luận tốt nghiệp này là các quy định của Công ước Viên 1980 về huỷ hợp đồng trong trường hợp hàng hoá không phù hợp với hợp đồng và các tranh chấp cụ thể trong thực tiễn có liên quan đến vấn đề này. • Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của khoá luận là các trường hợp huỷ hợp đồng do hàng hoá không phù hợp của các giao dịch mua bán hàng hoá quốc tế trong khuôn khổ Công ước Viên 1980. Về mặt thời gian: Các tranh chấp diễn ra từ khi Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có hiệu lực cho đến nay. Về mặt nội dung: Hàng hoá không phù hợp với hợp đồng gồm có hai dạng: Không phù hợp về mặt thực tế (sai lệch so với hợp đồng) và không phù hợp về mặt pháp lý (sai lệch so với các chứng từ ngoài hợp đồng). Trong khoá luận tốt nghiệp này xin phép chỉ phân tích các trường hợp hàng hoá không phù hợp về mặt thực tế. 4. Phương pháp nghiên cứu: Khoá luận sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, so sánh để đánh giá các thông tin số liệu thu thập được có liên quan đến trường hợp huỷ hợp đồng do hàng hoá không phù hợp với hợp đồng theo Công ước Viên 1980. iii Ngoài ra phương pháp cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu luật học như phương pháp so sánh luật học, phương pháp bình luận án lệ. 5. Kết cấu của đề tài: Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tham khảo, nội dung khoá luận được chia làm 3 chương: - Chương 1: Tổng quan về Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và Chế tài huỷ hợp đồng trong trường hợp hàng hoá không phù hợp theo công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán quốc tế. - Chương 2: Huỷ hợp đồng trong trường hợp hàng hoá không phù hợp theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán quốc tế. - Chương 3: Giải pháp nhằm hạn chế việc huỷ hợp đồng do hàng hoá không phù hợp theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán quốc tế và bài học kinh nghiệm đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến TS. Nguyễn Minh Hằng – người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo và tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình làm khóa luận. Em cũng bày tỏ sự biết ơn đối với tập thể giảng viên trường Đại học Ngoại thương đã tận tình dạy dỗ và trang bị cho em những kiến thức quý báu trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường. 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ CHẾ TÀI HỦY HỢP ĐỒNG TRONG TRƯỜNG HỢP HÀNG HÓA KHÔNG PHÙ HỢP THEO CÔNG ƯỚC VIÊN NĂM 1980 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ 1.1. Khái quát chung về Công ước Viên năm 1980 và hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế 1.1.1. Giới thiệu Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (CISG) Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (viết tắt theo tiếng Anh là CISG - Convention on Contracts for the International Sale of Goods) được soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) là kết quả của một nỗ lực hướng tới việc thống nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Được được thông qua tại Viên (Áo) ngày 11 tháng 04 năm 1980 tại Hội nghị của Ủy ban của Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế, sau hơn 30 năm CISG đã trở thành Công ước được áp dụng rộng rãi nhất trong số các điều ước quốc tế đa phương về mua bán hàng hóa quốc tế. Cho đến hiện nay, ước tính Công ước Viên năm 1980 đã điều chỉnh hơn ba phần tư thương mại hàng hóa trên toàn thế giới. Tính đến thời điểm tháng 2 năm 2012, đã có gần 80 quốc gia tham gia Công ước.2 Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm các nội dung chính sau: Phần 1: Phạm vi áp dụng và các quy định chung (điều 1 – 13) Phần này bao gồm các quy định về những trường hợp Công ước được áp dụng (điều 1 – 6) cũng như những quy định diễn giải về tuyên bố, xử sự và việc áp dụng tập quán thương mại của các bên. Đồng thời cũng nêu ra những vấn đề liên quan hình thức hợp đồng. Phần 2: Hình thành hợp đồng (trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng) (Điều 1424) 2 Tính đến ngày 01/01/2012 theo website của Uncitral, xem tại http://www.uncitral.org/ 2 Trong phần này, Công ước Viên đã đề cập đến các vấn đề pháp lý đặt ra trong quá trình giao kết hợp đồng. CISG đã định nghĩa chào hàng, phân biệt chào hàng với lời mời chào hàng và chỉ ra các đặc điểm của một chào hàng. Đồng thời Công ước cũng quy định về hiệu lực của chào hàng, thu hồi và hủy bỏ chào hàng. Song song với chào hàng, Công ước cũng có quy định tương đối chi tiết và rõ ràng về chấp nhận chào hàng và các khía cạnh pháp lý liên quan bao gồm: nội dung chấp nhận chào hàng; hiệu lực của chấp nhận và điều kiện cấu thành hợp đồng cùng với chào hàng; thời hạn chấp nhận và chấp nhận muộn, kéo dài thời hạn chấp nhận; thu hồi chấp nhận; thời điểm hợp đồng có hiệu lực. Phần 3: Mua bán hàng hóa (Điều 25 - 88) Phần 3 bao gồm các vấn đề pháp lý liên quan đến thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và được xem là phần chính của Công ước Viên năm 1980. Phần Mua bán hàng hóa bao gồm các chương: Chương I: Những quy định chung Chương II: Nghĩa vụ của người bán Chương III: Nghĩa vụ của người mua Chương IV: Chuyển rủi ro Chương V: Các điều khoản chung về nghĩa vụ của người bán và người mua. Chương I bao gồm những quy định chung về các phạm trù khác nhau như cách xác định “vi phạm cơ bản”, thông báo hủy hợp đồng, viện dẫn thông tin… Các phạm trù này có tác dụng trong việc tạo cơ sở thực hiện hay làm rõ hơn một số nội dung ở các chương sau. Trọng tâm của phần 3 nằm ở các quy định về nghĩa vụ của người bán và người mua trong chương II và chương III. Về nghĩa vụ của người bán, Công ước quy định rất rõ nghĩa vụ giao hàng và chuyển giao chứng từ, đặc biệt là nghĩa vụ đảm bảo tính phù hợp của hàng hóa được giao (về mặt thực tế cũng như về mặt pháp lý). Song song với người bán, người mua cũng phải đảm bảo thực hiện những nghĩa vụ chính của mình, bao gồm thanh toán và nhận hàng. Công ước Viên không có chương riêng dành cho vi phạm hợp đồng và các chế tài do vi phạm hợp đồng. Những nội dung này cũng được đề cập trong các 3 chương II, III và V. Theo đó, những chế tài khi xảy ra vi phạm hợp đồng bao gồm buộc thực hiện đúng hợp đồng, đòi bồi thường thiệt hại, hủy hợp đồng. Đồng thời, CISG cũng quy định thêm những biện pháp khác như giảm giá hàng, gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Những biện pháp này không mang tính chế tài, trừng phạt mà lại tạo điều kiện cho các bên, đặc biệt là bên vi phạm tiếp tục hoàn thành các nghĩa vụ, thực hiện hợp đồng. Công ước Viên cũng tách riêng vấn đề chuyển rủi ro thành chương IV của phần III. Theo đó, tùy thuộc vào từng trường hợp và giai đoạn cụ thể, rủi ro được quy định thuộc về bên nào. Đây là cơ sở để xác định phạm trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên đặc biệt trong trường hợp có xảy ra vi phạm hợp đồng. Chương V của Phần 3 quy định về vấn đề tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, vi phạm trước hợp đồng, việc áp dụng các biện pháp pháp lý trong trường hợp giao hàng từng phần, hủy hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Đặc biệt chương V còn những quy định cụ thể về chế tài “bồi thường thiệt hại” – một trong những biện pháp được áp dụng phổ biến nhất trong các tranh chấp thuộc khuôn khổ CISG. Ngoài ra, các vấn đề về căn cứ miễn trách, hậu quả do hủy hợp đồng, bảo quản hàng hóa khi xảy ra vi phạm cũng được đề cập đến. Phần 4: Các quy định cuối cùng (Điều 89 - 101) Phần này bao gồm các vấn đề mang tính thủ tục như thời điểm Công ước có hiệu lực, hiệu lực của Công ước so với hiệu lực của các nguồn luật khác, thủ tục gia nhập hay từ bỏ Công ước đối với các quốc gia và các vấn đề khác. Như vậy, sau hơn 20 năm có hiệu lực, cùng với các quy định được đánh giá là hiện đại, mềm dẻo và linh hoạt, Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được đánh giá là một trong những công ước thống nhất về luật tư thành công nhất. Được Liên Hợp Quốc bảo trợ soạn thảo và thực thi, CISG đã tạo ra được sự tin cậy từ phía các quốc gia (trong quá trình soạn thảo) mà còn nhận được sự tin tưởng từ đông đảo doanh nghiệp (trong quá trình thực thi). Sự thành công của Công ước Viên 1980 được khẳng định trong thực tiễn với hơn 2500 vụ tranh chấp đã được Tòa án và trọng tài các nước/quốc tế giải quyết có liên quan đến việc áp dụng và diễn giải Công ước Viên 1980 được 4 báo cáo. Không chỉ các nước thành viên mà các quốc gia chưa phải là thành viên vẫn áp dụng Công ước, hoặc do các bên trong hợp đồng lựa chọn Công ước Viên 1980 như là luật áp dụng cho hợp đồng, hoặc do các tòa án, trọng tài dẫn chiếu đến để giải quyết tranh chấp. Nhiều doanh nghiệp tại các quốc gia chưa phải là thành viên CISG đã tự nguyện áp dụng CISG cho các giao dịch thương mại quốc tế của mình, bởi vì họ thấy được những ưu việt của CISG so với luật quốc gia. 1.1.2. Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế theo CISG Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không có điều khoản nào nêu ra định nghĩa pháp lý cụ thể cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, thông qua điều 31 và 53 của Công ước, ta có thể kết luận một hợp đồng mua bán hàng hóa được hình thành trong trường hợp người bán được quy định thực hiện nghĩa vụ giao hàng (và chứng từ) và người mua được quy định thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Công ước cũng đưa ra tiêu chí để xác định xem loại hàng hóa như thế nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước (từ điều 2 đến điều 6 Công ước). Ngoài ra, để xác định tính chất “quốc tế” (international character) cho hợp đồng, điều 1 của Công ước có nêu: “Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các Quốc gia khác nhau.” Như vậy, Công ước Viên đã đưa xem trụ sở thương mại là tiêu chí để xác định hợp đồng ký kết giữa các bên có phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay không. Trong trường hợp có nhiều trụ sở thương mại, bên giao dịch có thể chọn ra trụ sở có mối liên quan chặt chẽ nhất tới hợp đồng. Trong trường hợp hai bên không có trụ sở thương mại thì sẽ lấy nơi cư trú thường xuyên làm tiêu chí xác định tính chất quốc tế của hợp đồng (điều 10 CISG). Tuy nhiên, trong trường hợp các bên không chứng minh được trụ sở thương mại của mình một cách chính thức như tại khoản 2 điều 1 “Việc xác nhận được các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không được chấp nhận nếu việc xác nhận này không xuất phát từ hợp đồng, từ các giao dịch vốn có giữa các bên hoặc từ các thông tin được trao đổi giữa các bên trước hoặc vào thời điểm ký hợp đồng”. Ví dụ một trong các bên giao dịch không chứng minh 5 mình là đại lý hợp pháp của một bên có trụ sở thương mại khác thì hợp đồng ký kết giữa hai bên không được xem là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Ngoài ra Công ước Viên không lấy các yếu tố mang tính quốc tịch (nationality), quy chế dân sự (civil character) và quy chế thương mại (commercial character) làm tiêu chí xác định hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Điều 1 khoản 3 có nêu: “Quốc tịch cũng như tư cách dân sự hoặc thương mại của các bên hoặc tính chất dân sự hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước này”. 1.2. Khái quát chung về chế tài huỷ hợp đồng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Luật Thương mại 2005 của Việt Nam quy định hủy hợp đồng là việc hủy bỏ hoàn toàn hoặc một phần hợp đồng (điều 312): Hủy bỏ hoàn toàn là việc bãi bỏ toàn bộ việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng; tương tự: hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn có hiệu lực. Bộ luật thống nhất thương mại thống nhất Hoa Kỳ quy định khác hơn khi phân thành hai thuật ngữ riêng biệt cho 2 trường hợp của hủy hợp đồng (hủy hợp đồng do hai bên thỏa thuận trước, hủy hợp đồng do một bên gây ra vi phạm). Tuy nhiên, bản chất của hủy hợp đồng trong UCC vẫn là việc hai bên sẽ giải thoát cho nhau tất cả mọi nghĩa vụ của hợp đồng, trừ những nghĩa vụ phát sinh sau khi hủy hợp đồng và từ giải quyết tranh chấp (điều 2 – 106 khoản 3, 4 UCC). Bên cạnh đó, theo tinh thần của hầu hết pháp luật các nước, khi xảy ra vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm chưa áp dụng chế tài này ngay mà áp dụng các chế tài khác (bắt buộc thực hiện nghĩa đúng nghĩa vụ, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại…). Trong trường hợp việc áp dụng các chế tài khác không khắc phục được tình trạng vi phạm, chế tài hủy hợp đồng mới được áp dụng. Việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng phải đảm bảo những điều kiện về nội dung và hình thức. 1.2.1. Điều kiện áp dụng chế tài huỷ hợp đồng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 1.2.1.1. Điều kiện về nội dung 6 Pháp luật các nước khác nhau thì có cách quy định khác nhau về các trường hợp được áp dụng chế tài hủy hợp đồng. Luật Thương mại Việt Nam 2005 lại quy định: “Trừ các trường hợp miễn trách quy định tại điều 294 của Luật này, chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây: a. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; b. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.” CISG lại có quy định riêng cho từng bên về các trường hợp được áp dụng chế tài hủy hợp đồng. Theo đó, điều 49 khoản 1 Công ước quy định đối với trường hợp người mua: “Người mua có thể tuyên bố hủy hợp đồng: a. Nếu việc người bán không thực hiện một nghĩa vụ nào đó của họ phát sinh từ hợp đồng hay từ Công ước này cấu thành một vi phạm cơ bản hợp đồng; hoặc b. Trong trường hợp không giao hàng, nếu người bán không giao hàng trong thời gian đã được người mua gia hạn thêm cho họ chiếu theo khoản 1 điều 47 hoặc nếu người bán tuyên bố sẽ không giao hàng trong thời gian được gia hạn này.” Song song, điều 64 khoản 1 cũng quy định về quyền hủy hợp đồng của người bán: “ Người bán có thể tuyên bố hủy hợp đồng: a. Nếu sự kiện người mua không thực hiện nghĩa vụ nào đó của họ theo hợp đồng hay Công ước cấu thành một sự vi phạm cơ bản hợp đồng; hoặc b. Nếu người mua không thực hiện nghĩa vụ trả tiền hoặc nhận hàng trong thời hạn bổ sung mà người bán chấp nhận cho họ chiếu theo khoản 1 điều 63 hay nếu họ tuyên bố sẽ không làm việc đó trong thời hạn ấy.” Thời hạn gia hạn thêm được nói tới ở đây là một thời gian hợp lý được một bên chấp nhận thêm để bên còn lại có thể hoàn thành nghĩa vụ của mình. Như vậy, chế tài hủy hợp đồng có thể được áp dụng trong các trường hợp sau: do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng; do có xảy ra vi phạm gây ra thiệt hại nghiêm trọng; do bên vi phạm không thể khắc phục được thiệt hại trong thời hạn được gia hạn thêm. 7 • Trường hợp các bên đã thỏa thuận trước về trường hợp hủy hợp đồng Việc áp dụng chế tài này có thể được quy định ngay trong điều khoản của hợp đồng bên cạnh những quy định trong pháp luật về các tình trạng vi phạm cụ thể dẫn đến có thể áp dụng được chế tài hủy hợp đồng như ở 1.2.1.1. Điều 312 khoản 4 điểm a Luật Thương mại Việt Nam 2005 đã có quy định: chế tài hủy hợp đồng cũng được áp dụng nếu đã được thỏa thuận ngay trong hợp đồng. Trên thực tế, đã có những trường hợp vi phạm hợp đồng chưa đến mức nghiêm trọng dẫn đến hủy hợp đồng, nhưng vì đó là một trường hợp mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng nên dẫn đến chế tài hủy vẫn được áp dụng. Tương tự, điều 2-106 khoản 3 UCC cũng quy định về trường hợp này này. • Trường hợp xảy ra vi phạm gây ra thiệt hại nghiêm trọng Có thể thấy các nguồn Luật đều có điểm chung là chế tài hủy hợp đồng được áp dụng trong trường hợp xảy ra vi phạm nghiêm trọng. Tuy nhiên, mỗi nguồn luật có cách diễn giải khác nhau về vi phạm nghiêm trọng. Trong trường hợp của Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ cũng như Bộ nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng, một bên có quyền hủy hợp đồng khi bên kia có “sự vi phạm các điều khoản chủ yếu”. Trong khi đó luật Cộng hòa Pháp sử dụng thuật ngữ “vi phạm chủ yếu” để làm cơ sở cho việc áp dụng chế tài hủy. Trong đó, cả Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và Luật Thương mại Việt Nam đã có sự gặp gỡ trong việc sử dụng thuật ngữ “vi phạm cơ bản” (fundamental breach). Để làm rõ hơn về trường hợp vi phạm nghiêm trọng dẫn đến hủy hợp đồng, khóa luận này sẽ phân tích những vấn đề liên quan đến vi phạm cơ bản bao gồm khái niệm và cách xác định vi phạm cơ bản. - Khái niệm “vi phạm cơ bản” Rất nhiều chuyên gia cũng như các nhà kinh doanh đánh giá thuật ngữ “vi phạm cơ bản” rất mơ hồ và khó áp dụng. Đồng thời, mỗi nguồn luật cũng có cách quy định khác nhau cho khái niệm này. Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 định nghĩa tại điều 13 khoản 3: “Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích giao kết”. Với khái niệm này, 8 CISG lại quy định tương đối cụ thể hơn tại điều 25: “Một sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho bên kia bị thiệt hại mà người bị thiệt hại, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu quả đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào hoàn cảnh tương tự.” Như vậy, có thể thấy cả Luật Thương mại Việt Nam lẫn CISG đều nhìn nhận vi phạm cơ bản từ góc độ hậu quả của vi phạm thay vì quy định cụ thể về hành vi vi phạm. Về bản chất, vi phạm cơ bản là một sự vi phạm hợp đồng. Đó là việc vi phạm bất kỳ một nghĩa vụ đã được hai bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc phát sinh từ hợp đồng hay quy định của nguồn luật áp dụng cho hợp đồng. Tuy nhiên, nếu Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 chỉ đề cập đến hậu quả làm cho một bên “không đạt được mục đích giao kết” thì Công ước Viên năm 1980 đã cụ thể hóa hậu quả là bên bị vi phạm bị mất quyền chờ đợi trên cơ sở hợp đồng trong chừng mực đáng kể và bên vi phạm lường trước được thiệt hại đó. Chính cách quy định có vẻ “mơ hồ” như trên đã mở ra một phạm trù rộng lớn bao gồm những quy định pháp luật có liên quan đến vi phạm cơ bản và thực tiễn mà việc xác định vi phạm cơ bản trở thành vấn đề chính. Khái niệm “vi phạm cơ bản” đã trở thành trung tâm trong nhiều tranh chấp của của các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế. Việc đánh giá không đúng tính “cơ bản” (fundamentality) của vi phạm có thể dẫn đến việc xác định nhầm về quyền và nghĩa vụ của các bên, do đó làm mất đi tính công bằng cho các phán quyết và gây ra những thiệt hại không đáng có. Chính vì vậy, việc xác định vi phạm cơ bản cần phải dựa vào những tiêu chí nhất định. - Tiêu chí xác định vi phạm cơ bản Mặc dù cách định nghĩa có thể khác nhau, vấn đề trọng tâm của việc xác định “vi phạm cơ bản” chính là tính nghiêm trọng của thiệt hại. Đây là tiêu chí đầu tiên để đánh giá tính “cơ bản” của vi phạm. Tại điều 25 Công ước Viên, thuật ngữ “đáng kể” (substianlly) được sử dụng để diễn giải mức độ thiệt hại mà bên bị vi phạm gặp phải – hay mức độ 9 những lợi ích mà bên bị vi phạm không đạt được do hành vi vi phạm.3 Phần mất đi này càng lớn thì thiệt hại càng nghiêm trọng và do đó bên vi phạm càng dễ bị xem là gây ra vi phạm cơ bản cho hợp đồng. Thông thường, những lợi ích bị mất đi này được thể hiện qua việc các bên không thực hiện được mục đích mà họ mong muốn khi ký kết hợp đồng. Ví dụ, nếu người bán giao hàng kém chất lượng khiến người mua không thể tiêu thụ số hàng hóa đó trên thị trường như ý định ban đầu; nếu người mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán, người bán không thể có được số tiền như đã mong muốn để phục vụ những kế hoạch đã đặt ra. Đây chính là điểm gặp gỡ giữa CISG và Luật Thương mại Việt Nam năm 2005. Ngoài ra, tính nghiêm trọng của thiệt hại cũng có thể được đánh giá thông qua khả năng khắc phục hậu quả. Hậu quả do vi phạm cơ bản gây ra không nhất thiết là không khắc phục được. Tuy nhiên có thể việc khắc phục sẽ gây ra chi phí quá lớn hay những phí tổn vô lý cho các bên. Bên cạnh việc đánh giá tính nghiêm trọng của thiệt hại, tình tiết vi phạm cũng là một tiêu chí để xác định vi phạm cơ bản. Vi phạm cơ bản không nhất thiết là vi phạm một nghĩa vụ chủ yếu hay một nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng. Việc vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào, dù là nghĩa vụ phụ, nhưng mang đầy đủ các tiêu chí nêu tại điều 25 thì đều được coi là vi phạm cơ bản. Ví dụ như người mua vi phạm nghĩa vụ bảo mật hàng hóa… Do đó, nếu chỉ xem xét hậu quả và khả năng khắc phục hậu quả mà không xem xét tình tiết vi phạm có thể sẽ dẫn đến việc đánh giá không đúng đắn tính chất “cơ bản”. Ngoài ra, một trong những tiêu chí CISG đưa ra để xác định vi phạm cơ bản chính là việc bên vi phạm phải lường trước được những hậu quả của vi phạm – hay còn gọi là tính “có thể dự đoán được” (foreseeability). Theo điều 25 CISG, nếu bên vi phạm không thể được biết hay tiên liệu được mình sẽ vi phạm nghĩa vụ và gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho bên còn lại thì vi phạm đó sẽ không được xem là vi phạm cơ bản (theo Perovic 2004). 3 Xem Explanatory Note by the UNCITRAL Secretariat on the United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods, đoạn 29, có tại http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/text/p23.html 10 • Trường hợp bên vi phạm không thể khắc phục thiệt hại trong thời hạn gia hạn thêm Các nguồn luật cho phép khi xảy ra vi phạm, bên vi phạm được phép thực hiện các biện pháp nhằm khắc phục các thiệt hại đã gây ra. Hay nói cách khác đây là việc buộc bên vi phạm phải thực hiện đúng hợp đồng nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích nhận được của các bên từ việc thực hiện hợp đồng thành công. Các biện pháp này không làm mất đi quyền đòi bồi thường thiệt hại của bên bị vi phạm. Đặc biệt, bên vi phạm sẽ được gia hạn thêm thời gian để tiến hành các biện pháp này. Công ước Viên năm 1980 đã quy định về gia hạn thêm thời gian loại trừ các thiếu sót trong thực hiện nghĩa vụ tại điều 47 khoản 1 (gia hạn cho người bán) và điều 63 khoản 1 (gia hạn cho người mua). Bộ nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng cũng đưa ra quy định tương tự tại điều 8:106 khoản 1. Tuy nhiên, việc khắc phục các tổn thất gây trong thời gian được gia hạn thêm gây ra phí tổn quá lớn hoặc những chậm trễ không đáng có cho các bên, chế tài hủy hợp đồng sẽ bị áp dụng. Tương tự, nếu vượt qua thời hạn đó mà bên vi phạm vẫn chưa tiến hành thành công biện pháp nào, hợp đồng cũng sẽ tự động bị hủy. 1.2.1.2. Điều kiện về hình thức Ngoài các điều kiện về nội dung, việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng cũng yêu cầu việc đáp ứng điều kiện về hình thức. Trước khi áp dụng chế tài hủy hợp đồng các bên cần tuyên bố hủy hợp đồng. Cả Công ước Viên năm 1980 lẫn Luật Thương mại Việt Nam 2005 đều có quan điểm chung về việc bên bị vi phạm phải thông báo về tuyên bố hủy hợp đồng của mình đến các bên liên quan. Theo đó, Luật Thương mại Việt Nam đã quy định tại điều 315: “Bên tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng phải thông báo cho bên kia biết về việc tạm ngừng hợp đồng...” Tương tự điều 26 CISG cũng nêu rõ: “Một lời tuyên bố về việc hủy hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu được thông báo cho bên kia biết.” Bên cạnh đó, CISG cũng đưa ra thời hạn tuyên bố, nếu người mua không tiến hành thông báo 11 cho người bán biết trong thời hạn này, người mua sẽ bị mất quyền hủy hợp đồng (điều 49 khoản 2). Có một điểm đáng chú ý là tuyên bố hủy hợp đồng ngay cả khi chưa có hành vi vi phạm hợp đồng. Công ước Viên năm 1980 cho phép áp dụng chế tài hủy hợp đồng bất kể lúc nào từ sau khi ký hợp đồng mà không cần chờ việc thực hiện hợp đồng hoặc hành vi vi phạm và tổn thất đã có hay chưa.4 Hay nói cách khác cơ sở của việc hủy hợp đồng là dựa trên năng lực thực tế để xét xem bên kia có thể thực hiện được hợp đồng hay không; hoặc có thể dựa trên tuyên bố của họ về việc không thi hành các nghĩa vụ hợp đồng. Do đó, trong trường hợp chưa có các chứng cứ chứng minh vi phạm và tổn thất, tính hợp pháp của việc tuyên bố hủy hợp đồng sẽ không được đảm bảo. Chính vì vậy, bên tuyên bố hủy hợp đồng phải làm động tác “thông báo” về quyết định của họ. Nếu trong trường hợp bên đối tác không thể chứng minh được khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình, bên có ý định tuyên bố hủy hợp đồng có thể tuyên bố hủy mà không sợ bị khiếu nại. Về vấn đề này, Luật Thương mại Việt Nam 2005 không có quy định về trường hợp cho phép áp dụng chế tài trước khi xảy ra tổn thất. 1.2.2. Hậu quả pháp lý của việc huỷ hợp đồng Hủy hợp đồng được xem là chế tài nặng nhất trong các chế tài vì nó dẫn đến hậu quả pháp lý rất nặng nề cho các bên. Tuy rằng các nguồn luật quy định về các trường hợp áp dụng chế tài hủy hợp đồng không giống nhau, hầu hết các nguồn luật có quan điểm giống nhau về các hậu quả pháp lý. Đó là: Thứ nhất, khi áp dụng chế tài hủy hợp đồng, hai bên sẽ giải thoát cho nhau tất cả mọi nghĩa vụ của hợp đồng (trừ những nghĩa vụ phát sinh sau khi hủy hợp đồng và từ giải quyết tranh chấp). Điều 314 khoản 1 Luật Thương mại 2005 của Việt Nam quy định: “… sau khi hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.” Công ước Viên 1980 cũng thống nhất quan điểm này. 4 Xem điều 72 khoản 1 Công ước Viên. 12 Hậu quả pháp lý thứ hai là việc các bên phải hoàn trả những gì đã nhận được từ bên kia trong quá trình thực hiện hợp đồng hay các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả đồng thời. Trường hợp không thể hoàn trả lợi ích đã nhận được thì phải hoàn trả bằng tiền. Hậu quả pháp lý tiếp theo là việc bên bị vi phạm được bồi thường thiệt hại gây ra do bên vi phạm hoặc nộp phạt nếu hợp đồng có quy định. Mặc dù còn nhiều mâu thuẫn về việc áp dụng hình thức phạt vi phạm, các nguồn luật đều có chung quan điểm về việc chấp nhận hình thức bồi thường thiệt hại. Ý nghĩa của những quy định này là nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên bị vi phạm đặc biệt là các lợi ích về tài sản và loại trừ khả năng bên vi phạm lợi dụng hủy hợp đồng để trốn tránh các trách nhiệm của mình. 1.3. Khái quát chung về tính phù hợp với hợp đồng của hàng hoá 1.3.1. Tính phù hợp của hàng hoá Pháp luật các nước quy định tương đối giống nhau về khái niệm “tính phù hợp với hợp đồng của hàng hóa” (conformity of goods). Theo đó, các nước đều có quan điểm hàng hóa “phù hợp với hợp đồng” không chỉ giới hạn về những quy định trong hợp đồng mà còn phải phù hợp với những quy định của pháp luật. Chỉ thị 44/99/EC của Nghị viện châu Âu đưa ra những tiêu chí tạo nên tính phù hợp của hàng hóa tại điều 2 khoản 2: “Hàng hóa được coi là phù hợp với hợp đồng nếu: a. đáp ứng các mô tả của người bán và có các tính chất của hàng mẫu mà người bán cung cấp cho người mua trước đó; b. phù hợp cho bất kỳ mục đích cụ thể nào mà người mua mong muốn đạt được hoặc người bán đã cho biết vào thời điểm giao kết hợp đồng hoặc người bán đã chấp nhận; c. phù hợp với mục đích sử dụng thông thường của các hàng hóa cùng chủng loại; d. Các phẩm chất và đặc tính thể hiện như hàng hóa cùng loại thường có và đáp ứng yêu cầu hợp lý của người mua, dựa trên tính chất cơ bản của hàng hóa và tính đến bất cứ thông báo công khai nào về các đặc điểm cụ thể của hàng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan