ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
Đỗ Thị Thu Hằng
PH¸p luËt vÒ hîp ®ång ®iÖn tö ë viÖt nam
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Như Phát.
Hà Nội - 2009
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4
Chƣơng 1 - LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ ............. 11
1.1. Khái niệm thương mại điện tử ........................................................... 11
1.2. Đặc điểm của thương mại điện tử ...................................................... 16
1.3. Lợi ích của thương mại điện tử: ......................................................... 19
a) Lợi ích đối với nền kinh tế ................................................................ 19
b) Lợi ích đối với doanh nghiệp ............................................................ 20
c) Lợi ích đối với người tiêu dùng ......................................................... 21
1.4. Nhận thức và sự chuẩn bị của doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào
Thương mại điện tử .................................................................................. 21
1.5. Những khó khăn và thách thức về phương diện pháp lý đặt ra cho
Thương mại điện tử ở Việt Nam ............................................................... 23
a) Khung pháp luật thương mại thống nhất cho Thương mại điện tử .... 23
b) Bảo vệ sở hữu trí tuệ ........................................................................ 24
c) Bảo vệ bí mật cá nhân: ..................................................................... 24
d) An ninh: ........................................................................................... 25
đ) Bảo vệ người tiêu dùng: ................................................................... 25
e) Tội phạm trong lĩnh vực thương mại điện tử ..................................... 26
Chƣơng 2 - THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ Ở
VIỆT NAM ................................................................................................. 27
2.1. Hợp đồng điện tử ............................................................................... 27
2.2. Giao kết hợp đồng điện tử ................................................................. 40
2.2.1. Đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng điện tử ........................ 41
1
2.2.2. Xác định thời điểm giao kết hợp đồng: ....................................... 43
2.2.3. Địa điểm giao kết hợp đồng điện tử. ........................................... 47
2.2.4. Năng lực pháp lý của chủ thể tham gia giao kết hợp đồng điện tử ...... 48
2.2.5. Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử ............................................... 52
2.3. Các vấn đề pháp lý trong quá trình thực hiện hợp đồng điện tử ......... 58
2.3.1. Thanh toán điện tử ...................................................................... 58
2.3.2. Vấn đề thuế ................................................................................. 63
2.3.3. Vấn đề hải quan .......................................................................... 65
2.3.4. Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng điện tử ............................ 67
2.3.5. Đảm bảo bí mật và bảo vệ người tiêu dùng ................................. 72
2.3.6. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ........................................................ 75
Chƣơng 3 - ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM .................................... 80
3.1. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng điện tử ở Việt
Nam.......................................................................................................... 80
3.2. Kinh nghiệm nước ngoài về xây dựng khung pháp luật cho hợp đồng
thương mại điện tử ................................................................................... 81
3.2.1 Kinh nghiệm của các tổ chức quốc tế và một số quốc gia ............ 81
a) Uỷ ban Pháp luật thương mại của Liên Hợp quốc (UNCITRAL) : 81
b) Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): ............................ 82
c) Hoa Kỳ ......................................................................................... 83
d) Singapore ..................................................................................... 85
3.2.2 Một số nhận xét .......................................................................... 87
3.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử ở Việt
Nam.......................................................................................................... 88
2
3.3.1. Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý cho hợp
đồng điện tử ở Việt Nam. ...................................................................... 90
3.3.2. Nhóm các biện pháp khác ........................................................... 96
KẾT LUẬN ................................................................................................. 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 101
3
MỞ ĐẦU
1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đã mở ra một kỷ
nguyên mới, làm thay đổi căn bản nhiều thói quen trong đời sống kinh tế, xã
hội. Trong lĩnh vực thương mại, việc ứng dụng công nghệ thông tin cũng đã
được thực hiện mạnh mẽ, từng bước làm thay đổi các thương mại truyền
thống, thúc đẩy sự phát triển của các giao lưu thương mại, vượt qua nhiều rào
cản về biên gới quốc gia, hướng tới thương mại toàn cầu. Có thể nói, trong
thời đại ngày nay, thương mại điện tử đóng vai trò rất quan trọng trong việc
giao lưu thương mại không những chỉ trong nội địa quốc gia mà cả trên phạm
vi toàn cầu.
Cùng với những tiện ích to lớn mà việc ứng dụng công nghệ tin học
vào các hoạt động thương mại, cũng đặt ra nhiều vấn đề ở cả phạm vi các
quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế về việc hình thành cơ sở pháp lý, tạo
môi trường thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động
thương mại điện tử hướng tới mục tiêu vì con người, đồng thời, hạn chế, khắc
phục những mặt trái của nó mang lại hoặc giải quyết những tranh chấp trong
quá trình ứng dụng và phát triển. Điều đó đặt ra cho các quốc gia phải từng
bước hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh lĩnh vực
thương mại điện tử, đáp ứng sự phù hợp với những đặc trưng vốn có của loại
hình thwong mại luôn có xu hướng vượt qua những rào cản về không gian,
địa lý, thu hẹp toàn cầu thành một thị trường chung, phi biên giới.
Ở các nước phát triển, trước những yêu cầu đòi hỏi mạnh mẽ của việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thương mại, với bề dày truyền
thống trong lĩnh vực thương mại, không những chỉ giới hạn trong phạm vi
4
quốc gia mà còn hướng mạnh ra thị trường quốc tế, đã từng bước xây dựng
cho mình những quy định của pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh
trong lĩnh vực thương mại điện tử. Vì vậy, cho đến nay, những nước này đã
có một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh điều chỉnh các vấn đề về
thương mại nói chung và thương mại điện tử nói riêng. Ngoài ra, những nước
phát triển cũng đã đóng góp phần quan trọng cùng các quốc gia khác xây
dựng, hành thành các hệ thống pháp luật quốc tế có liên quan đến các lĩnh vực
thương mại điện tử, tạo ra khuôn khổ pháp lý thống nhất trên phạm vi quốc tế,
nhằm thúc đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển của thương mại toàn cầu.
Đối với nước ta, thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện đất nước,
trong những năm qua, Nhà nước ta đã thực hiện việc chuyển đổi mạnh mẽ nền
kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đó, nền kinh tế nước ta đã từng bước hội
nhập sâu rộng nền kinh tế quốc tế và khu vực, tham gia vào các thị trường
chung với những “luật chơi chung”. Các hoạt động thương mại được chú
trọng, thúc đẩy mạnh mẽ cả đổi với các giao lưu trong nước và quốc tế. Vì
vậy, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã nỗ lực sửa đổi, bổ sung, xây dựng,
hoàn thiện môi trường pháp lý đáp ứng yêu cầu quá trình chuyển đổi đó theo
hướng hội nhập, hợp tác, phát triển, cùng có lợi. Công tác xây dựng pháp luật
được ưu tiên cho công tác hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị trường, phát huy
nội lực, tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo thực hiện có
hiệu quả các thoả thuận, cam kết quốc tế.
Trong lĩnh vực thương mại điện tử, trong những năm gần đây, Nhà
nước ta đã tập trung xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật có giá trị
pháp lý cao, tạo cơ sở cho việc thúc đẩy sự phát triển của các giao lưu thương
mại, như: Luật Giao dịch điện tử được ban hành ngày 19 tháng 11 năm 2005,
Luật Công nghệ thông tin ngày 29/06/2006, Nghị định 57/2006/NĐ-CP ngày
5
09 tháng 6 năm 2006 của Chính phủ về thương mại điện tử và Nghị định số
71/2007/NĐ-CP ngày 03/05/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thực hiện một số điều của Luật Công nghệ thông tin về công nghiệp công
nghệ thông tin... Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện nay đã
từng bước đặt nền móng cơ sở pháp lý điều chỉnh các hoạt động thương mại
điện tử.
Tuy nhiên, tìm hiểu những quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành có thể thấy, các nội dung về hợp đồng điện tử - một trong những nội
dung cốt yếu của vấn đề thương mại điện tử - chưa được đề cập một cách đầy
đủ, cụ thể. Sự thiếu vắng những quy định này trong hệ thống pháp luật làm
cho hoạt động thương mại điện tử bị hạn chế rất lớn, không đáp ứng được yêu
cầu phát triển ngày càng mạnh mẽ của loại hình thương mại này. Một trong
các lý do được nêu ra là Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của quá trình tiếp cận
và phát triển thương mại điện tử, vấn đề hợp đồng điện tử còn khá mới mẻ đối
với Việt Nam; những vấn đề này còn đang trong quá trình nghiên cứu, thử
nghiệm. Do đó, các chế định pháp lý về vấn đề này còn hạn chế, cần phải
được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu
đòi hỏi khách quan của hoạt động thương mại khi chúng ta đang thực hiện lô
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong kế hoạch phát triển thương mại điện tử của nước ta giai đoạn
2006-2020 ở nước ta, một trong các mục tiêu được đặt ra là tiếp tục hoàn
thiện môi trường pháp lý về thương mại điện tử nhằm thúc đẩy các giao lưu
thương mại trong và ngoài nước, phục vụ đắc lực cho quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Điều đó cho thấy việc nghiên cứu, tìm hiểu cơ sở khoa học phục
vụ quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến thương
mại điện tử nói chung là hết sức cần thiết, cần được quan tâm hơn nữa của
giới khoa học trong và ngoài nước.
6
Trong những vấn đề nêu trên, chế định hợp đồng điện tử được xem là
một trong những nội dung quan trọng có tính chất nền tảng, then chốt để hình
thành nên các quy định khác có liên quan. Tuy nhiên, cho đến nay, còn thiếu
những chuyên đề nghiên cứu một cách đầy đủ, sâu sắc các khía cạnh của vấn
đề này. Chính vì vậy, đề tài “Pháp luật về hợp đồng điện tử ở Việt Nam”
được chọn làm đề tài tốt nghiệp chương trình Thạc sỹ Luật học chuyên ngành
Kinh tế, với mong muốn đóng góp một phần vào việc giải quyết cơ sở lý luận
và thực tiễn phục vụ cho công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
về thương mại điện tử ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thương mại điện tử nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng là một
trong các lĩnh vực mới, chưa được đề cập nhiều tại Việt Nam. Các nội dung
đang dần từng bước được nghiên cứu, tìm hiểu. Ở trong nước, đa phần các đề
tài nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề này đều tập trung vào góc độ
kinh tế, kỹ thuật thương mại điện tử, chưa có đề tài nào đề cập đến khía cạnh
pháp lý của vấn đề dưới góc độ xem xét tính chất đặc biệt của các giao dịch
thương mại điện tử. Vấn đề hợp đồng điện tử hầu như chưa được đề cập,
nghiên cứu đầy đủ, toàn diện, sâu sắc. Ở nước ngoài, vấn đề hợp đồng điện tử
đã được nghiên cứu nhiều hơn, đặc biệt ở những nước phát triển, có truyền
thống thưong mại và phát triển nhanh chóng công nghệ thông tin. Tuy nhiên,
do sự khác nhau về trình độ phát triển, đặc điểm văn hoá, truyền thống pháp
luật nên những kết quả nghiên cứu nói trên của các nước phát triển phải được
nghiên cứu, chọn lọc, tiếp thu cho phù hợp với điều kiện Việt Nam. Có thể
nói, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về hợp đồng điện tử ở nước ngoài
là nguồn tài liệu quý báu đối với công tác nghiên cứu cùng về nội dung này
đối với Việt Nam, song đòi hỏi cần có những phân tích, đối chiếu, so sánh
một cách đầy đủ nhằm đảm bảo phù hợp với điều kiện Việt Nam.
7
Tình hình nghiên cứu dưới khía cạnh pháp lý của vấn đề hợp đồng
điện tử như đã nêu trên, một lần nữa, cho phép khẳng định tính cần thiết của
đề tài nhằm góp phần bù đăp sự thiếu hụt hiện tại về những công trình nghiên
cứu trong nước cũng như chuyển tải, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc
tế, hoàn thiện cơ sở khoa học và thực tiễn, phục vụ công tác xây dựng pháp
luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Do đó, việc tiếp tục tìm hiểu hợp đồng điện tử từ đó đề xuất mô hình
vận động cho pháp luật trong lĩnh vực thương mại điện tử phù hợp với xu
hướng phát triển của pháp luật quốc tế, phù hợp với sự vận động không ngừng
của các quan hệ xã hội trong môi trường kinh doanh mạng, cũng như đáp ứng
được sự thay đổi không ngừng của công nghệ thông tin và viễn thông là một
vấn đề cần thiết và có ý nghĩa to lớn.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
a) Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật hiện hành
của Việt Nam, so sánh với các quy định của pháp luật quốc tế về thương mại
điện tử và hợp đồng điện tử, quy luật phát triển khách quan của quá trình toàn
cầu hoá thương mại, xuất phát từ các điều kiện thực tiễn của Việt Nam, luận
văn tập trung đưa ra một số dự báo về xu thế phát triển của các giao dịch điện
tử, xu hướng vận động của các quy định pháp luật về thương mại điện tử và
hợp đồng điện tử ở Việt Nam; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khuôn
khổ pháp lý thúc đẩy sự phát triển ổn định và lành mạnh của các giao dịch
thương mại điện tử tại Việt Nam.
b) Phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích nêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu những
nội dung cụ thể sau: (i) một số vấn đề chung về thương mại điện tử và hợp
8
đồng điện tử; (ii) sự hình thành và phát triển các quan điểm của Việt Nam về
thương mại điện tử, (iii) các nội dung của hợp đồng điện tử, (iv) những thuận
lợi và thách thức trong quá trình phát triển thương mại điện tử. Trong quá
trình nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích, đối chiếu, so sánh
các quy định của pháp luật Việt Nam và các quy định pháp luật quốc tế về
thương mại điện tử, trên cơ sở đó, kiến nghị xây dựng, hoàn thiện chế định
hợp đồng điện tử trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đảm bảo sự phù hợp với
các điều kiện thực tế của nước ta, sự tương thích đối với các quy định chung
của pháp luật quốc tế.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: so sánh,
tổng hợp, phân tích,... nhằm làm rõ những vấn đề cần được nghiên cứu, sau
khi đã được nhìn nhận từ những góc độ khác nhau, góp phần đảm bảo tính
khách quan của những đề xuất, phù hợp với những điều kiện thực tiễn của
Việt Nam trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. Trong số các phương pháp
sử dụng, luận văn đặc biệt lưu ý tới phương pháp so sánh vì nó cho phép nhìn
nhận vấn đề một cách đầy đủ, cụ thể hơn trên cơ sở đối chiếu, tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm quốc tế. Điều này là hết sức cần thiết trong điều kiện
hiện nay đối với Việt Nam, đây là lĩnh vực còn khá mới mẻ trong khi đó
chúng ta cần thiết phải nỗ lực, nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật
thương mại đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế, đáp ứng
yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế như đã cam kết.
5. Kết cấu luận văn
Luận văn được trình bày gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
Mở đầu
9
Chương 1: Lý luận chung về thương mại điện tử
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng điện tử ở Việt Nam.
Chương 3: Đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
điện tử ở Việt Nam.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
10
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. Khái niệm thƣơng mại điện tử
Thương mại điện tử còn được sử dụng với nhiều tên gọi khác nhau như
thương mại trực tuyến (Online - Trade), thương mại điều khiển học (Cyber
Trade), kinh doanh điện tử (Electronic Business), thương mại không giấy tờ
(paperless trade), thương mại số hóa (digital commerce), thương mại internet
(internet commerce) nhưng phổ biến nhất vẫn là thuật ngữ thương mại điện tử
(e-commerce). Khi nói đến thương mại điện tử, người ta nghĩ ngay đến
Internet và cho rằng thương mại điện tử gắn liền với Internet. Trên thực tế, có
rất nhiều quan điểm đề cập đến vấn đề này, có nhiều định nghĩa và cách hiểu
khác nhau về thương mại điện tử. Tùy theo mục tiêu nghiên cứu mà người ta
hiểu thương mại điện tử theo những góc độ khác nhau.
Dưới góc độ công nghệ thông tin, thương mại điện tử được hiểu là
việc cung cấp, phân phối thông tin, các sản phẩm/dịch vụ, các phương tiện
thanh toán qua đường dây điện thoại, các mạng truyền thông hoặc qua các
phương tiện điện tử khác.
Dưới góc độ kinh doanh, thương mại điện tử là việc ứng dụng công
nghệ (chủ yếu là công nghệ thông tin) để tự động hóa các giao dịch kinh
doanh và các kênh thông tin kinh doanh.
Dưới góc độ dịch vụ, thương mại điện tử là công cụ để các doanh
nghiệp, người tiêu dùng, các nhà quản lý cắt giảm các chi phí dịch vụ, đồng
thời nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ và tăng tốc độ cung cấp dịch vụ
cho khách hàng.
11
Dưới góc độ trực tuyến, thương mại điện tử cung cấp khả năng tiến
hành các hoạt động mua bán hàng hóa, trao đổi thông tin trực tiếp trên
internet cùng nhiều dịch vụ trực tuyến khác.
Thương mại điện tử có thể được hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ các
giao dịch mang tính thương mại được các bên tham gia thực hiện thông qua
các phương tiện điện tử từ điện thoại, telex, facimile, hệ thống thanh toán và
chuyển tiền điện tử… tới các máy tính kết nối với nhau trong một mạng lưới
kín hay một mạng lưới mở như Internet.
Đạo luật về thương mại điện tử do Ủy ban Pháp luật Thương mại
Quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL - CNUDCI) được thông qua trong
phiên họp toàn thể thứ 85 Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 16-12-1996, quy
định phạm vi điều chỉnh của văn bản này như sau: "Đạo luật này có hiệu lực
áp dụng đối với mọi loại thông tin thể hiện dưới hình thức thông tin số hóa
được sử dụng trong khuôn khổ các hoạt động thương mại". Thông tin số hóa
là thông tin được tạo ra, chuyển đi, tiếp nhận, lưu trữ bằng phương tiện điện
tử, quang điện hoặc các phương tiện tương tự, đặc biệt là dưới hình thức trao
đổi số liệu được tin học hóa, thư điện tử, điện tín, telex và telefax.
Hoạt
động "thương mại" cũng được UNCITRAL khuyến nghị là cần phải được
hiểu theo nghĩa rộng, chỉ mối quan hệ mang tính thương mại bao hàm hầu hết
các hình thái của hoạt động kinh tế, không chỉ đơn thuần chỉ có mua bán hàng
hóa và dịch vụ. Theo Luật Mẫu về Thương mại điện tử của UNCITRAL thì
"thương mại" trong khái niệm thương mại điện tử được hiểu là mọi vấn đề
phát sinh từ các mối quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có
hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính chất thương mại bao gồm bất cứ giao
dịch thương mại nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa dịch vụ, thỏa thuận
về phân phối, đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng, cho thuê dài
hạn, xây dựng các công trình, tư vấn, thiết kế, chuyển nhượng quyền sử dụng
12
(li-xăng), đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc
chuyển nhượng, liên doanh hoặc các hình thức hợp tác kinh doanh hay sản
xuất, vận chuyển hành khách hay hàng hóa bằng đường biển, đường không,
đường sắt hay đường bộ… Như vậy, phạm vi của thương mại điện tử là rất
rộng, bao quát hầu như mọi hình thái hoạt động kinh tế mà không chỉ bao
gồm mua bán hàng hóa và dịch vụ, vì mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một
trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của thương mại điện tử.
Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa như sau: Thương mại điện tử được
hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó
dựa trên việc xử lý và truyền số liệu điện tử dưới dạng chữ, âm thanh và hình
ảnh. Thương mại điện tử gồm nhiều hành vi trong đó có hoạt động mua bán
hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật
số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử,
đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng,
tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng, và các dịch vụ sau bán hàng (hậu mãi).
Thương mại điện tử được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ
như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví
dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động
truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo dục) và các hoạt động mới (như
siêu thị ảo).
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra khái niệm về thương mại
điện tử, theo đó hiểu một cách đơn giản nhất: thương mại điện tử bao gồm việc
sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh
toán trên mạng Internet nhưng được giao nhận một cách hữu hình và cả các sản
phẩm được giao nhận như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet.
13
Theo Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế của Liên hợp quốc (OECD):
Thương mại điện tử được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa
trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet.
Từ các định nghĩa trên có thể thấy rằng, nếu hiểu theo nghĩa rộng,
thương mại điện tử gồm tất cả các hoạt động mang tính thương mại được thực
hiện thông qua các phương tiện thông tin liên lạc điện tử từ điện thoại, telex, fax,
hệ thống thanh toán và chuyển tiền điện tử, Internet… Còn hiểu theo nghĩa hẹp
nhất, hay nói một cách chặt chẽ hơn cả thì thương mại điện tử chỉ gồm các
hoạt động thương mại được tiến hành trên mạng máy tính mở như Internet.
Tại Việt Nam, khái niệm "thương mại điện tử" chưa được định nghĩa
cụ thể trong các văn bản pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, nội hàm của khái
niệm này được đề cập đến trong một số luật liên quan và được dùng dưới các
thuật ngữ như "giao dịch điện tử" hoặc "hoạt động thương mại trên môi
trường mạng".
Theo Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29 tháng 11
năm 2005, thương mại điện tử là quá trình mua, bán hoặc trao đổi sản phẩm,
dịch vụ và những dịch vụ hỗ trợ các quá trình trên có sử dụng các phương tiện
điện tử, các mạng máy tính, Internet, và có sử dụng các tiêu chuẩn truyền
thông chung: "Giao dịch điện tử là giao dịch được thực hiện bằng phương tiện
điện tử" [35, Điều 4.6]. Phương tiện điện tử là các phương tiện hoạt động dựa
trên công nghệ điện tử kỹ thuật số từ tính, truyền dẫn không dây, quang học,
điện từ hoặc công nghệ tương tự.
Luật Công nghệ thông tin số 67/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006
quy định nguyên tắc ứng dụng công nghệ thông tin trong thương mại là: (i) tổ
chức, cá nhân có quyền ứng dụng công nghệ thông tin trong thương mại; (ii) hoạt
14
động thương mại trên môi trường mạng phải tuân thủ quy định của luật này,
pháp luật về thương mại và pháp luật về giao dịch điện tử.
Từ các quy định trên, có thể hiểu nội hàm khái niệm thương mại điện
tử tại Việt Nam là các hoạt động (giao dịch) thương mại sử dụng phương tiện
điện tử. Theo đó khái niệm hoạt động thương mại cũng được hiểu theo nghĩa
rộng, đó là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác (Luật Thương mại năm 2005). Phương tiện điện tử được luật
quy định là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật
số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự
(Luật Giao dịch điện tử năm 2005). Luật Giao dịch điện tử năm 2005 cũng đưa
ra nguyên tắc: không một loại công nghệ nào được xem là duy nhất trong giao
dịch điện tử. Điều đó có nghĩa là thương mại điện tử không chỉ giới hạn là
thương mại thông qua mạng Internet mà còn là các loại hình thương mại sử
dụng các phương tiện khác như: điện thoại, hệ thống thiết bị thanh toán điện
tử, telex, facimile, các mạng nội bộ (intranet), mạng ngoại bộ (extranet) và các
ứng dụng khác như videotext, truyền thông (mua hàng từ xa) và môi trường
ngoài mạng (catolo bán hàng trên đĩa CD-ROM) cũng như các mạng lưới nội
bộ của các công ty (đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng)...
Cần phân biệt rõ hai khái niệm thương mại điện tử và kinh doanh điện
tử. Theo Andrew Bartel (E-commerce, e-business for manages, H.M. Deitel
and others.Prentice Hall, 2001. Tr8), thương mại điện tử (e-commerce) bao
gồm các trao đổi giữa các khách hàng , đối tác doanh nghiệp và người bán
hàng, ví dụ giữa nhà cung ứng vận tải và nhà phân phối hàng hoá. Kinh doanh
điện tử (e-business) bao hàm tất cả các yếu tố trên của thương mại điện tử,
ngoài ra, kinh doanh điện tử còn bao hàm cả hoạt động xảy ra bên trong
doanh nghiệp ví dụ : sản xuất, nghiên cứu phát triển, quản lý sản phẩm và cơ
15
sở hạ tầng doanh nghiệp . Như vậy, khái niệm kinh doạnh điện tử rộng hơn
khái niệm thương mại điện tử. Ở đây, luận văn chỉ đề cập đến thương mại
điện tử.
1.2. Đặc điểm của thƣơng mại điện tử
Từ định nghĩa trên có thể thấy rằng thương mại điện tử có các đặc
điểm sau:
- Thương mại điện tử là một phương thức thương mại sử dụng các
phương tiện điện tử để thực hiện hành vi thương mại. Nói chính xác hơn, thương
mại điện tử là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện
công nghệ điện tử, mà nói chung là không cần phải in ra giấy trong bất kỳ
công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch.
- Hoạt động thương mại điện tử được thực hiện trên cơ sở các nguồn
thông tin dưới dạng số hóa của các mạng điện tử. Đó là các thông điệp dữ
liệu. Nó cho phép hình thành những dạng thức kinh doanh mới và những cách
thức mới để tiến hành hoạt động kinh doanh.
- Các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không nhất
thiết phải gặp gỡ nhau trực tiếp và không phải biết nhau trước. Việc sử dụng
các phương tiện điện tử, các thông tin thương mại được số hóa cho phép giao
dịch Người - Máy - Máy - Người giữa các bên được tiến hành.
- Thương mại điện tử là một hệ thống bao gồm nhiều giao dịch thương
mại. Các giao dịch này không chỉ tập trung vào việc mua - bán hàng hóa và
dịch vụ để trực tiếp tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp, mà còn bao gồm nhiều
giao dịch hỗ trợ tạo ra lợi nhuận (ví dụ: hệ thống hỗ trợ việc chào bán, cung
cấp các dịch vụ khách hàng hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thông
tin, liên lạc giữa các đối tác kinh doanh…
16
Sơ đồ 1.1: Quy trình thương mại điện tử
So với hoạt động thương mại truyền thống, thương mại điện tử có một
số đặc điểm khác biệt như sau:
C¸c bªn tiÕn hµnh trong giao dÞch trong th-¬ng m¹i ®iÖn tö kh«ng tiÕp
xóc trùc tiÕp víi nhau vµ còng kh«ng ®ßi hái ph¶i biÕt nhau tõ tr-íc
Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp gỡ nhau trực tiếp
để tiến hành giao dịch. Các giao dịch được tiến hành chủ yếu theo nguyên tắc
vật lý như: Chuyển tiền, séc, hoá đơn...Các phương tiện viễn thông như: fax,
telex...chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử
dụng các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ được chuyển
tải thông tin một cách trực tiếp giữa hai đối tác của cùng một giao dịch. Từ khi
xuất hiện mạng máy tính mở toàn cầu Internet thì việc trao đổi thông tin
không chỉ giới hạn trong quan hệ giữa các công ty và doanh nghiệp mà các
hoạt động thương mại đa dạng đã mở rộng trên phạm vi toàn thế giới với số
17
lượng người tham gia ngày càng tăng. Những người tham gia là cá nhân hoặc
doanh nghiệp, có thể đã biết hoặc chưa biết nhau bao giờ.
Trong nền kinh tế số, thông tin được số hoá thành các byte, lưu giữ
trong các máy tính và truyền qua mạng với tốc độ ánh sáng. Điều này tạo ra
những khả năng hoàn toàn mới làm thay đổi thói quen người tiêu dùng. Trong
đó, người bán, người mua hàng có thể giao dịch với đối tác ở bất cứ đâu trên
thế giới mà không cần qua khâu trung gian hỗ trợ của bất cứ công ty thương
mại nào.
Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại
của khái niệm biên giới quốc gia, còn thương mại điện tử được thực hiện
trong một thị trường không có biên giới ( thị trường thống nhất toàn cầu).
Thương mại điện tử trực tiếp tác động tới môi trường cạnh tranh toàn cầu.
Thương mại điện tử càng phát triển thì máy tính cá nhân trở thành cửa
sổ cho doanh nghiệp hướng ra thị trường trên khắp thế giới. Không chỉ các
công ty hàng đầu thế giới mới có thể tiếp cận những thị trường mới, mà ngay
cả một công ty vừa mới thành lập cũng có thể có ngay một mạng lưới tiêu thụ
và phân phối không biên giới, có thể kinh doanh ở Pháp, Mỹ, hay Nhật Bản...
Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương
tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin
chính là thị trường.
Thông qua thương mại điện tử, nhiều loại hình kinh doanh mới được
hình thành. Ví dụ: Các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình thành
nên các nhà trung gian ảo làm các dịch vụ môi giới, trọng tài cho giới kinh
doanh hoặc người tiêu dùng, các siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng
hoá và dịch vụ trên mạng máy tính. Theo một số chuyên gia về kinh doanh
trên mạng, chính những tính năng dễ sử dụng và hình thức phong phú, vui
18
mắt, dễ hiểu của các trang web dành cho thương mại điện tử là yếu tố quyết
định trong việc thu hút khách hàng.
Tóm lại, trong thương mại điện tử bản chất của thông tin không thay
đổi, thương mại điện tử chỉ biến đổi cách thức khởi tạo, trao đổi, bảo quản và
xử lý thông tin, hoàn toàn không thay đổi những chức năng cơ bản của thông
tin đối với các bên tham gia hợp đồng truyền thống.
Việc mã hoá, số hoá nội dung của các thông tin chứng từ , tài liệu giao
dịch làm cho thương mại điện tử dù cho hoạt động trong quốc gia hay quốc tế,
có sự khác biệt so với thương mại truyền thống chủ yếu dựa trên chứng từ
bằng giấy tờ. Trong thương mại truyền thống nếu có nhiều bên tham gia thì sẽ
phải tốn một khối lượng lớn chi phí về giấy tờ giao dịch hợp đồng. Trong khi
đó nếu giao dịch được thực hiện thông qua thương mại điện tử thì tiết kiệm
được thời gian và các chi phí đó.
1.3. Lợi ích của thƣơng mại điện tử:
Với đặc tính của một thị trường toàn cầu, thương mại điện tử mang đến
những cơ hội to lớn cho nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế cho mỗi
quốc gia nói riêng. Lợi ích của thương mại điện là rất to lớn và tiềm tàng có
thể khái quát trên các mặt sau:
a) Lợi ích đối với nền kinh tế:
Sự phát triển của thương mại điện tử sẽ dẫn tới những thay đổi cơ bản
cơ cấu nền kinh tế theo hướng tích cực, rút ngắn khoảng cách giữa nhà sản
xuất và người tiêu dùng, giảm bớt các khâu trung gian trong các hoạt động
thương mại truyền thống. Thương mại điện tử có thể cải tiến cách thức quản lý
các hoạt động thương mại cũng như sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế. Thương mại
điện tử tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp mọi nơi tham gia vào thị
trường giao dịch toàn cầu. Hay nói cách khác: Thương mại điện tử không giới
19
- Xem thêm -