Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở việt nam...

Tài liệu Pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở việt nam

.PDF
97
442
90

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT -----o0o----- BÙI THỊ PHƢƠNG THẢO PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ ĐÒI NỢ Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2014 [ ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT -----o0o----- BÙI THỊ PHƢƠNG THẢO PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ ĐÒI NỢ Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến Hà Nội – 2014 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Học viên Bùi Thị Phƣơng Thảo MỤC LỤC Danh mục từ ngữ viết tắt Mục lục Lời cam đoan LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÕI NỢ, KINH DOANH DỊCH VỤ ĐÕI NỢ VÀ PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ ĐÕI NỢ Ở VIỆT NAM ...................................................................................... 6 1.1. Tổng quan về đòi nợ và kinh doanh dịch vụ đòi nợ .................................. 6 1.1.1. Khái niệm nợ, chủ nợ và con nợ ....................................................... 6 1.1.2. Bản chất pháp lý của hoạt động đòi nợ và các phương thức đòi nợ . 12 1.1.3. Khái niệm kinh doanh dịch vụ đòi nợ ............................................. 15 1.2. Tổng quan pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ................................. 22 1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ bằng pháp luật .......................................................................................... 22 1.2.2. Khái niệm pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ......................... 26 1.2.3. Nội dung cơ bản của pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ......... 27 1.2.4. Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ..... 28 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ ĐÕI NỢ Ở VIỆT NAM ............................................................................ 30 2.1. Thực trạng các quy định của pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam hiện nay .......................................................................................... 30 2.1.1. Nội dung quy định về hình thức pháp lý của chủ thể kinh doanh dịch vụ đòi nợ .................................................................................................. 30 2.1.2. Nội dung các quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đòi nợ ...... 33 2.1.3. Phạm vi hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ ................................ 46 2.1.4 Nguyên tắc hoạt động của dịch vụ đòi nợ ........................................ 49 2.1.5. Nội dung và các biện pháp sử dụng trong kinh doanh dịch vụ đòi nợ ....52 2.1.6. Nội dung quy định về các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động dịch vụ đòi nợ .......................................................................................... 56 2.1.7. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật kinh doanh dịch vụ đòi nợ ................................................................................ 60 2.1.8. Nội dung quy định về quản lý nhà nước và xử lý vi phạm trong hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ ............................................................... 62 2.2. Thực trạng thực thi pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam ..... 63 Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ ĐÕI NỢ Ở VIỆT NAM ........................................................... 72 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam ............................................................................................................. 72 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam ... 75 3.2.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định tại Nghị định số 104/2007/NĐ-CP về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ........................................................................ 75 3.2.2. Cần sửa đổi, bổ sung các quy định khác của pháp luật để tạo sự đồng bộ, thống nhất trong quá trình thực thi ..................................................... 85 KẾT LUẬN .............................................................................................. 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 89 Danh mục từ ngữ viết tắt Nghị định :Nghị định số 104/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban 104/2007/NĐ-CP hành ngày 14/06/2007 về kinh doanh dịch vụ đòi nợ Nghị định số :Nghị định số 72/2009/NĐ-CP của Chính phủ ban 72/2009/NĐ-CP hành ngày 03/09/2009 quy định về điều kiện an ninh, trật tự đối với một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện Nghị định số :Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 do 59/2006/NĐ-CP Chính phủ ban hành quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh; hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện và điều kiện để được kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó Quyết định :Quyết định 109/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính 109/2003/QĐ-TTg phủ ban hành ngày 05/06/2003 về việc thành lập Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp Thông tư số :Thông tư 33/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính ban 33/2010/TT-BTC hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp. BLDS năm 2005 :Bộ luật dân sự năm 2005 BLHS năm 2009 : Bộ luật hình sự năm sửa đổi, bổ sung năm 2009 DATC :Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp Công ty TNHH :Công ty trách nhiệm hữu hạn LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Vốn là một trong những nhu cầu thiết yếu không thể thiếu được trong đời sống xã hội và trong hoạt động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ của người dân. Quan hệ vay và cho vay vốn ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn của xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào bên vay vốn cũng có thể trả được vốn và lãi vay đúng thời hạn cam kết cho bên cho vay. Điều này có nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do bên vay vốn làm ăn thua lỗ, phá sản hoặc sử dụng vốn vay không hiệu quả, sai mục đích v.v dẫn đến mất khả năng thanh toán. Nguyên nhân chủ quan có thể do bên vay vốn chây ỳ, tìm mọi cách trốn tránh nghĩa vụ trả nợ hoặc đau ốm. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì việc chủ nợ đòi nợ số vốn cho vay là điều hiển nhiên. Song thực tế cho thấy việc làm này gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp; bởi lẽ không phải lúc nào bên cho vay cũng có thể nhận được khoản vốn và lãi vay một cách suôn sẻ, trôi chảy. Đối với những trường hợp con nợ cố tình chây ỳ hoặc không có thái độ hợp tác trong việc trả nợ thì việc đòi nợ thường rơi vào tình trạng bế tắc và không đạt được mục đích. Hậu quả là chủ nợ thường phải nhờ dịch vụ đòi nợ thay vì tự mình tiến hành đòi nợ. Kinh doanh dịch vụ đòi nợ là một ngành nghề kinh doanh nhạy cảm và mới ra đời kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Các quy định điều chỉnh loại hình kinh doanh dịch vụ này đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nên không tránh khỏi những điểm bất hợp lý, chưa hoàn chỉnh, thống nhất và đồng bộ khi triển khai thi hành trên thực tế. Hơn nữa, các quy định về kinh doanh dịch vụ đòi nợ được ban hành ở những văn bản pháp luật khác nhau nên khó tránh khỏi một số nội dung mâu thuẫn, chồng chéo. Đây cũng là một nguyên nhân nữa gây thách thức cho quá trình triển khai thi hành. Trong khi đó, hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ xuất 1 hiện tình trạng đòi nợ thuê sử dụng các hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để khống chế, đe dọa về thể xác và tinh thần đối với con nợ và gia đình họ do những tổ chức “xã hội đen” thực hiện; gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong dư luận xã hội và thể hiện thái độ coi thường pháp luật … Điều này có nguyên nhân do pháp luật về lĩnh vực này còn chưa hoàn thiện, đồng bộ. Để khắc phục những hạn chế, tồn tại này, cần thiết phải có sự đánh giá có hệ thống, toàn diện về lý luận và thực tiễn pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ; trên cơ sở đó đề xuất giải pháp hoàn thiện. Với lý do như vậy, tôi lựa chọn đề tài “Pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này, Luận văn mong muốn đạt được các mục đích nghiên cứu cơ bản sau đây: - Tìm hiểu những vấn đề lý luận, cơ sở khoa học và nội dung của chế định pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam. - Đưa ra vấn đề hoàn thiện chế định pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được các mục đích nghiên cứu cơ bản trên, Luận văn xác định những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: - Phân tích các khái niệm và đặc điểm của nợ, con nợ, chủ nợ, kinh doanh dịch vụ đòi nợ. - Phân tích khái niệm và bản chất của đòi nợ và các phương thức đòi nợ. - Lý giải cơ sở của việc hình thành chế định pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ; phân tích khái niệm, đặc điểm và những nội dung cơ bản của chế định pháp luật này. 2 - Đánh giá thực trạng pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ nhằm nhận diện những mặt tích cực, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó. - Đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện chế định pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu bao gồm: - Các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành về kinh doanh dịch vụ đòi nợ. - Cơ sở chính trị việc nghiên cứu là quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về loại hình kinh doanh dịch vụ đòi nợ. - Báo cáo tổng kết việc thực thi pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu, Luận văn dựa trên cơ sở chính trị và sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: - Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin. - Quan điểm, đường lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước và Pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: i) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê…được sử dụng tại Chương 1. Tổng quan một số vấn đề lý luận về đòi nợ, kinh doanh dịch vụ đòi nợ và pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam. ii) Phương pháp bình luận, phương pháp đánh giá, phương pháp tổng hợp…được sử dụng tại Chương 2. Thực trạng pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam. iii) Phương pháp diễn giải, phương pháp quy nạp…được sử dụng tại Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam. 3 6. Tình hình nghiên cứu Đề tài nghiên cứu ở phạm vi hẹp, liên quan đến các quy định về kinh doanh dịch vụ đòi nợ cho nên ở nước ta chưa có công trình hay nghiên cứu nào một cách đầy đủ và tổng quan nhất. Chỉ xuất hiện một số bài tạp chí, bài báo phân tích các quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực trạng dịch vụ đòi nợ đang diễn ra với những bất cập như thế nào. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu các vấn đề có liên quan như đại diện, hợp đồng ủy quyền có thể kể đến như “Một số ý kiến về vấn đề đại diện trong ký kết hợp đồng kinh tế” của Th.S Lê Thị Bích Thọ, “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - nhìn từ góc độ luật so sánh” của TS Ngô Huy Cương, luận án tiến sĩ “Đại diện cho thương nhân theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay” của Hồ Ngọc Hiển. Các công trình khoa học liên quan chỉ dừng lại ở nghiên cứu khái quát, nghiên cứu vấn đề này trong cái tổng thể, lớn hơn là quan hệ hợp đồng, chế định đại diện chung hay trong phạm vi hẹp hơn về chế định đại diện cho thương nhân trong Luật thương mại. Ở nước ngoài, các tài liệu nghiên cứu về pháp luật kinh doanh dịch vụ đòi nợ cũng khá ít, chưa được dịch sang tiếng Việt. Đề tài là sự tiếp tục nghiên cứu trước đây của khóa luận tốt nghiệp của học viên với phạm vi rộng hơn liên quan đến vấn đề ủy quyền cho tổ chức, các số liệu thực tiễn được tổng kết từ các báo cáo qua 5 năm thực thi pháp luật kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam và kiến nghị sửa đổi, bổ sung sát thực tế hơn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần Mục lục, Danh mục các từ viết tắt, Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung của luận văn được kết cấu thành 03 chương: 4 - Chương 1. Tổng quan một số vấn đề lý luận về đòi nợ, kinh doanh dịch vụ đòi nợ và pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam. - Chương 2. Thực trạng pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam. - Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kinh doanh dịch vụ đòi nợ ở Việt Nam. 5 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÒI NỢ, KINH DOANH DỊCH VỤ ĐÒI NỢ VÀ PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ ĐÒI NỢ Ở VIỆT NAM 1.1. Tổng quan về đòi nợ và kinh doanh dịch vụ đòi nợ 1.1.1. Khái niệm nợ, chủ nợ và con nợ 1.1.1.1. Khái niệm nợ Nợ là nghĩa vụ tài sản của một chủ thể này phải trả cho một chủ thể khác. Nợ có thể xuất hiện trong các quan hệ dân sự khác nhau như: quan hệ mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, quan hệ cho thuê tài sản, cho thuê tài chính…Quan hệ xã hội là những quan hệ giữa người với người được hình thành trong quá trình hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật, tư tưởng, đạo đức, văn hóa…Nợ có thể phát sinh trong bất kỳ mối quan hệ xã hội nào, quan hệ xã hội càng phức tạp thì những nguồn gốc phát sinh nợ nần càng đa dạng, phức tạp. Có nhiều cách phân loại nợ, tùy thuộc vào tiêu chí, mục đích phân loại, có thể phân thành nợ thường (là những khoản nợ mà chủ thể có quyền đòi nợ có thể tự mình thu hồi nợ) và nợ xấu (là nợ mà chủ thể có quyền đòi nợ không thể tự mình thu hồi nợ vì nhiều lý do khách quan); hoặc có thể phân thành nợ trong dân sự và nợ trong kinh doanh; hoặc có thể phân thành nợ công và nợ dân doanh… Theo định nghĩa tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 104/2007/NĐ-CP ngày 14/06/2007 của Chính phủ quy định chi tiết về kinh doanh dịch vụ đòi nợ (sau đây gọi là Nghị định số 104/2007/NĐ-CP) thì “Nợ là nghĩa vụ của các tổ chức kinh tế, cá nhân này phải trả tài sản cho tổ chức kinh tế, cá nhân khác”. .Nó không chỉ xuất hiện trong các quan hệ hợp đồng vay tài sản mà có thể xuất hiện ở nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Các khoản nợ mà các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đòi nợ được phép tham gia cung cấp dịch 6 vụ đòi nợ đó là các khoản nợ phát sinh từ các quan hệ xã hội khác nhau. Tuy nhiên, giới hạn của nó chính là nghĩa vụ giữa các tổ chức kinh tế, cá nhân chứ không phát sinh giữa các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp với nhau hay giữa các tổ chức này với tổ chức kinh tế, cá nhân. Nợ được xem là “tài sản” mà một tổ chức kinh tế, cá nhân phải trả cho một tổ chức kinh tế, cá nhân khác, và nó là một nghĩa vụ dân sự. Tài sản là một khái niệm cơ bản, quen thuộc với bất kỳ ai, nó là công cụ của đời sống con người. Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS năm 2005) quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Tuy nhiên cách định nghĩa tài sản của BLDS năm 2005 hiện tại nhiều luật gia cho rằng đây là cách định nghĩa ra theo kiểu liệt kê các loại tài sản, chứ không xác định phạm vi dứt khoản của tài sản, các quy định tiếp đó tại “ Chương XI – Phân loại tài sản lại diễn giải cụ thể các loại tài sản được nêu ra trong giải nghĩa này không đề cập gì tới tiền và giấy tờ có giá. Mặc khác tại Điều 173 và Điều 181 và toàn bộ các quy định của BLDS 2005 không diễn giải một cách có thể hiểu được phạm vi của quyền tài sản và quyền sở hữu được quy định dường như tách biệt với tài sản tại Điều 164 và Điều 174 BLDS 2005 dẫn đến khái niệm tài sản dường như không bao trùm hết quyền sở hữu trong khi vẫn quy định các vấn đề chuyển dịch tài sản gắn với quyền sở hữu tại rất nhiều các quy định [15]. Ngày nay, với sự xuất hiện của nhiều loại tài sản mới như chứng khoản, sở hữu trí tuệ thì việc định nghĩa tài sản, phân loại tài sản như thế nào cho phù hợp cũng là cơ sở để chúng ta xác định chính xác đối tượng của dịch vụ kinh doanh dịch vụ đòi nợ là những loại tài sản nào. Trong giới hạn nghiên cứu, đề tài chỉ để cập đến khái niệm nợ theo quy định của pháp luật hiện hành, tức nợ là các nghĩa vụ về tài sản mà tổ chức kinh tế, cá nhân này phải trả cho tổ chức kinh tế, cá nhân khác mà thôi. 7 1.1.1.2. Khái niệm chủ nợ Gắn liền với tài sản là quyền sở hữu, do đó khi nói tới tài sản không thể không nói về quyền sở hữu. Quyền sở hữu là vật quyền thống trị và làm cơ sở cho việc phân chia và xác định các vật quyền khác mà các vật quyền này thường được gọi là các chi phần của quyền sở hữu. Khi một vật quyền được tạo lập thì lập tức xuất hiện hai loại quyền cùng tồn tại trên một vật – đó là quyền sở hữu của chủ sở hữu và quyền của người khác trên vật đó. Khi phát sinh một khoản nợ sẽ xuất hiện quyền đòi nợ của chủ sở hữu, vật quyền được xác lập. Nếu chủ sở hữu chuyển giao quyền đòi nợ cho người khác làm phát sinh dịch quyền. Quyền đòi nợ bao gồm cả quyền trreen tài sản của mình và quyền trên tài sản của người khác.Do đó khái niệm chủ nợ cũng là một khái niệm khá rộng. Theo Từ điển Kinh tế học hiện đại: Các chủ nợ (creditors) là “các cá nhân hay tổ chức cho vay tiền để được người hay tổ chức vay hứa trả một khoản tiền nhất định hàng năm theo lãi suất và hoàn trả gốc vào một ngày nào đó trong tương lai” [19]. Khái niệm trên về chủ nợ chỉ bó hẹp trong phạm vi hợp đồng vay tài sản, chủ nợ chỉ được hiểu là người cho vay nợ. Hiểu như vậy là chưa đầy đủ vì nợ không chỉ phát sinh từ hợp đồng vay tài sản mà còn có thể phát sinh từ các hợp đồng khác. Vậy nên đương nhiên tư cách chủ nợ cũng có thể phát sinh không chỉ bởi hành vi cho vay nợ của chủ thể đó. Nên hiểu chủ nợ là người tham gia quan hệ pháp luật làm phát sinh khoản nợ và có quyền thụ hưởng giá trị tài sản từ khoản nợ đó. Ngoài ra, tư cách chủ nợ cũng có thể được chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác bởi hành vi chuyển quyền thụ hưởng giá trị tài sản được xác định trong khoản nợ cho người thứ ba của chủ nợ. Khi đó, khoản nợ có được xác định là nợ với chủ nợ mới hay không, phụ thuộc vào tư cách chủ thể và tính chất của hợp đồng chuyển giao đó. Ví dụ, nếu người nhận sự chuyển giao quyền thụ hưởng là 8 chủ thể kinh doanh và sự chuyển quyền đó cũng xuất phát từ hoạt động kinh doanh thì đối với họ, khoản nợ đó cũng được coi là nợ trong kinh doanh (ví dụ: quyền thụ hưởng do thanh toán bù trừ trong kinh doanh). Theo Từ điển Luật học do Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp biên soạn thì khái niệm chủ nợ được định nghĩa với nội hàm rộng hơn. Theo đó, chủ nợ là người cho một cá nhân, tổ chức khác vay một món nợ bằng tiền hay hiện vật. Khi đến hạn, chủ nợ có quyền đòi con nợ phải hoàn trả khoản tiền vay hoặc hiện vật, kèm theo lãi. Chủ nợ là người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ dân sự, cụ thể là hợp đồng vay. [31] Khái niệm chủ nợ cùng với hợp đồng vay tài sản là một trong những khái niệm pháp lý ra đời sớm nhất trước khi xuất hiện đồng tiền. Pháp luật dân sự La Mã đã có những điểm rất chi tiết về hợp đồng vay chủ nợ. Trong dân luật thi hành tại các tòa Nam án Bắc kỳ trước đây, những quy định pháp lý về chủ nợ được quy định từ Điều 730 đến Điều 861. Trong Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật được duyệt y vào ngày 24/4/1936 những quy định pháp lý về chủ nợ được quy định từ Điều 811 đến Điều 878. Theo BLDS năm 2005 thì chủ nợ (người cho vay) là người có quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng vay tài sản. Trong hợp đồng này, chủ nợ là bên cho vay, là người có tiền hoặc tài sản chuyển cho bên kia vay. Khi hết hạn của hợp đồng, bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi như thỏa thuận. Nếu hợp đồng cho vay có áp dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhưng bên vay không thực hiện đúng thời hạn thì bên cho vay có quyền xử lý tài sản để bảo đảm thực hiện đúng nghĩa vụ như thỏa thuận hoặc yêu cầu bán đấu giá để thực hiện nghĩa vụ. Bên cho vay có nghĩa vụ giao tài sản đầy đủ, đúng số lượng, chất lượng, chủng loại như thỏa thuận cho bên vay. Nếu bên cho vay lừa dối bên vay, chuyển giao tài sản không đảm bảo chất lượng mà gây thiệt hại cho bên vay thì phải bồi thường. 9 Tuy nhiên, định nghĩa này lại chỉ đề cập đến chủ nợ là một cá nhân mà quên mất rằng trong quan hệ nợ nần thì chủ nợ có thể là tổ chức, đây là một điểm thiếu sót rất lớn, bởi lẽ khi các quan hệ dân sự phát triển không ngừng thì tư cách chủ nợ trong quan hệ nợ cũng không ngừng biến đổi với nhiều dạng chủ thể khác nhau. Mặt khác, món nợ mà định nghĩa trên nêu ra cũng khá hẹp, chỉ là “tiền” hoặc “hiện vật”, hẹp hơn rất nhiều so với quy định của BLDS năm 2005 về tài sản và khái niệm chủ nợ ở đây cũng chỉ bó hẹp trong quan hệ hợp đồng vay tài sản. Với một cái nhìn khác hơn ở một góc độ rộng hơn, bao quát hơn, Nghị định số 104/2007/NĐ-CP định nghĩa: “Chủ nợ là tổ chức kinh tế, cá nhân có quyền đòi nợ”. Đây là một quy định mở và mang tính bao quát cao, chủ nợ không chỉ xuất hiện trong quan hệ vay tài sản mà có thể xuất hiện trong bất kỳ một giao dịch dân sự nào… Tổ chức kinh tế ở đây được hiểu bao gồm doanh nghiệp được thành lập hoạt động theo Luật Doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty hợp danh); hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã được thành lập theo Luật hợp tác xã; các tổ chức kinh tế thành lập theo luật đầu tư và các tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật). Chủ nợ không chỉ là những cá nhân, tổ chức kinh tế có quyền sở hữu đối với nợ mà cả những cá nhân, tổ chức kinh tế không có quyền sở hữu đối với nợ nhưng được chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu ủy quyền thông qua hợp đồng ủy quyền đòi nợ cũng được coi là chủ nợ và họ cũng được nhân danh chủ nợ hoặc các chủ nợ ký kết hợp đồng dịch vụ với doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đòi nợ để thu hồi nợ. Khái niệm này của Nghị định số 104/2007/NĐ-CP đã loại bỏ các tổ chức khác là chủ nợ trong quan hệ nợ, đó là tổ chức chính trị, tổ chức xã hội, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp và ngay cả các tổ chức 10 quốc tế cũng không phải là một bên trong quan hệ nợ thuộc đối tượng điều chỉnh của Nghị định này. Khái niệm chủ nợ cũng được đề cập tại Thông tư số 33/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính; theo đó : “chủ nợ là các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có nợ phải trả”(Khoản 1 Điều 7). 1.1.1.3. Khái niệm con nợ Khi xuất hiện một khoản nợ thì luôn tồn tại song song hai chủ thể với hai tư cách là: “chủ nợ” và “con nợ” hay nói cách khác, hai khái niệm này không thể tách rời trong một quan hệ vay nợ. Con nợ là người có hành vi làm phát sinh khoản nợ và có nghĩa vụ phải thanh toán lượng giá trị tài sản trong khoản nợ đó. Tương tự như tư cách chủ nợ, tư cách con nợ cũng có thể được chuyển từ người này sang người khác thông qua hành vi chuyển giao nghĩa vụ của con nợ cho người thứ ba trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên. Cũng theo hướng như vậy, BLDS năm 2005 mặc dù không có định nghĩa về con nợ nhưng cũng có quy định về nghĩa vụ trả nợ của con nợ trong hợp đồng vay tài sản. Tuy nhiên Nghị định số 104/2007/NĐ-CP lại đưa ra một tên gọi có phần khác so với Từ điển Tiếng Việt cũng như BLDS năm 2005, mặc dù xét về bản chất thì những khái niệm này đều đề cập về bên có nghĩa vụ trả nợ trong quan hệ nợ nần. Khoản 3 Điều 3 của Nghị định này quy định “khách nợ là tổ chức kinh tế, cá nhân có nghĩa vụ trả nợ”. Nghị định số 104/2007/NĐ-CP chỉ đích danh khách nợ là tổ chức kinh tế hoặc cá nhân và những đối tượng đó có “nghĩa vụ trả nợ” trong một quan hệ nợ nần nhất định. Như vậy tương ứng với quyền đòi nợ của chủ nợ là nghĩa vụ trả nợ của khách nợ. Mặc dù vậy, cách dùng từ “khách nợ” để chỉ bên có nghĩa vụ trả nợ ở đây chưa thực sự phản ánh hết bản chất của quan hệ nợ, quan hệ giữa người có quyền và người có nghĩa vụ trong quan hệ nợ. Theo từ ngữ đời thường, thì 11 chữ “khách” là để chỉ đối tượng được “chủ” sẵn sàng và mong muốn đón tiếp, giao dịch. Do vậy, người có nghĩa vụ trả nợ được gọi là con nợ. Trong quan hệ giao dịch, thì các bên vẫn là “khách hàng”, “bạn hàng”, nhưng trong quan hệ tranh chấp, đòi nợ đến mức phải nhờ cậy người khác đòi nợ mà gọi là “khách” của nhau thì không hợp lý. Từ điển Tiếng Việt cũng chỉ ghi nhận từ “con nợ” chứ không ghi nhận chữ “khách” nào theo nghĩa đã được sử dụng trong Nghị định số 104/2007/NĐ-CP. Thông tư số 33/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính cũng sử dụng “cụm từ khách nợ” của Nghị định số 104/2007/NĐCP khi đưa ra khái niệm “khách nợ là các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có nợ phải trả”. Tóm lại, nợ, chủ nợ và con nợ trong quan hệ đòi nợ có quan hệ biện chứng, chặt chẽ với nhau, thiếu một trong 3 yếu tố trên thì sẽ không thể hình thành quan hệ nợ. Để xác định tư cách chủ nợ và con nợ trong một khoản nợ thì điều cốt yếu chúng ta cần dựa vào chính là “tính đích danh”. Tức là phải xác định trong từng khoản nợ cụ thể, bên có quyền chỉ có tư cách là chủ nợ trong quan hệ với chính bên có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ đó mà thôi. Sở dĩ phải xác định cụ thể như vậy vì trong thực tế một chủ thể có thể tham gia vào rất nhiều quan hệ, nhiều khoản nợ khác nhau và trong khoản nợ này thì họ có thể là chủ nợ nhưng trong một khoản nợ khác họ lại có thể là con nợ. 1.1.2. Bản chất pháp lý của hoạt động đòi nợ và các phương thức đòi nợ 1.1.2.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của đòi nợ Một khoản nợ hình thành giữa các bên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và con nợ, trong đó con nợ có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ cho chủ nợ khi đến hạn (nghĩa vụ trả nợ) và chủ nợ có quyền yêu cầu con nợ phải thực hiện nghĩa vụ đó nếu đến hạn mà con nợ không tự giác thực hiện (quyền đòi nợ). Như vậy, đòi nợ là quyền của chủ nợ và có thể được thực hiện bởi chính chủ nợ hay một bên thứ ba trung gian. 12 Nói một cách khái quát nhất, đòi nợ là việc bên có quyền đòi nợ yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ phải thanh toán khoản tài sản liên quan đến khoản nợ mà các bên đã thỏa thuận.Vậy quyền đòi nợ của chủ nợ xuất hiện khi nào? Vấn đề này chưa được ghi nhận cụ thể nhưng có thể hiểu quyền đòi nợ của chủ nợ xuất hiện khi khoản nợ đến hạn thanh toán, điều này phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên khi thiết lập quan hệ nợ. Theo cuốn Từ điển luật học thì: Khoản nợ đến hạn là nghĩa vụ tài sản (khoản tiền, tài sản) mà người có nghĩa vụ phải thực hiện đối với người có quyền khi đến thời điểm phải thực hiện. Thời hạn thực hiện nghĩa vụ do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật không có quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ thì các bên có thể thực hiện nghĩa vụ bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho nhau biết trước vào một thời gian hợp lý. [31] Nghị định số 104/2007/NĐ-CP cũng chỉ rõ: Nợ quá hạn thanh toán là nợ chưa được khách nợ thanh toán cho chủ nợ khi đã quá thời hạn phải thanh toán theo thỏa thuận giữa chủ nợ và khách nợ hoặc đã quá thời hạn phải thanh toán theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” (Khoản 4 Điều 3). Quy định này tỏ ra chưa chặt chẽ khi mà theo Khoản 3 Điều 324 BLDS năm 2005 đề cập về trường hợp: một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự thì trong trường hợp phải xử lý tài sản để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn thì các nghĩa vụ khác tuy chưa đến hạn đều được coi là đến hạn và tất cả các bên cùng nhận bảo đảm đều được tham gia xử lý tài sản”. Như vậy, cách định nghĩa của Nghị định số 104/2007/NĐ-CP về thời hạn đòi nợ chỉ giải quyết được trường hợp phổ biến là đến một thời hạn cụ thể mà các bên đã xác định trong văn bản mà chưa đề cập được trường hợp, tuy nợ 13 chưa đến hạn theo ngày tháng đã ấn định, nhưng đã phát sinh tình huống, mà theo đó chủ nợ được quyền thu hồi nợ trước hạn, trong khi đó quy định “quá hạn phải thanh toán theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” lại quá chung chung và chưa tính được hết các trường hợp. Thông tư số 33/2010/TT-BTC quy định rõ: “Nợ tồn đọng là các khoản nợ phải thu, nợ phải trả đã quá hạn thanh toán nhưng chưa thu được, chưa trả được” (Khoản 4 Điều 7). Như vậy, ta thấy về khái niệm nợ đến hạn thanh toán và nợ quá hạn thanh toán thì các văn bản pháp luật có quy định tương tự nhau. Về bản chất thì đòi nợ là quyền dân sự. Điều 13 BLDS năm 2005 chỉ rõ 9 căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ dân sự luôn gắn liền với nhau, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia, cho nên căn cứ xác lập quyền dân sự cũng là căn cứ xác lập nghĩa vụ dân sự. Xuất phát từ định nghĩa về quyền dân sự ta có thể khái quát đòi nợ là quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ cho mình. 1.1.2.2. Các phương thức đòi nợ Các khoản nợ phát sinh hết sức phong phú đa dạng do vậy mà các phương thức đòi nợ cũng vô cùng phong phú, đa dạng. Nói một cách nôm na thì phương thức đòi nợ là tất cả những cách thức mà chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ. Chủ nợ có thể lựa chọn những phương thức khác nhau tương ứng với cách thực hiện quyền đòi nợ hoặc thông qua một cá nhân, tổ chức bất kỳ không phải qua Tòa án hay Trọng tài kinh tế làm trung gian giải quyết việc nợ thì họ có thể tự mình quyết định về phương thức đòi nợ miễn sao không vi phạm các quy định của pháp luật. Trước khi Nghị định số 104/2007/NĐ-CP ra đời thì chủ nợ có thể lựa chọn nhiều phương thức đòi nợ khác nhau. Chủ nợ có thể tự mình bằng những biện pháp, cách thức khác nhau đến đòi nợ hoặc thông qua dịch vụ đòi nợ thuê hoặc thông qua con đường tài phán (trọng tài hay Tòa án), dịch vụ đòi nợ thuê 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan