Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự việt nam - trên cơ sở nghiên c...

Tài liệu Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự việt nam - trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh nam định

.PDF
101
758
77

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM – TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT THỰC TIẾN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH HÌNH SỰ VIỆT NAM – TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU THỰC TIẾN TẠI ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH Chuyên ngành:Luật Hình sự và Luật Tố tụng Hình sự Mã số: 60380104 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN DŨNG HÀ NỘI - 2014 HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Nội dungcủa luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong công trình khoa học nào. Tác giả luận văn Nguyễn Tiến Dũng MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... MỤC LỤC ........................................................................................................... DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TĂT ........................................................... DANH MỤC CÁC BẢNG.................................................................................. MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chƣơng 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............................................ 9 1.1. LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .......................................... 9 1.1.1. Từ năm 1945 đến trước khi ra đời Bộ luật hình sự 1985................................. 9 1.1.2. Từ năm 1986 đến trước khi sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự vào năm 1999 .....................................................................................................................12 1.1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lần sửa đổi toàn diện vào năm 1999 ....................................................................................................................18 1.1.4. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong lần sửa đổi, bổ sung năm 2009...........21 1.2. KHÁI NIỆM, CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH ..... 22 1.2.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ........................................................22 1.2.2. Dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ......................................24 1.3. PHÂN BIỆT TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VỚI MỘT SỐ TỘI PHẠM KHÁC CÓ LIÊN QUAN ............................................................ 36 1.3.1. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 Bộ luật hình sự) ......................................................................37 1.3.2. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng (Điều 162 Bộ luật hình sự) .....................................................................................................38 1.3.3. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội đánh bạc (Điều 248 Bộ luật hình sự)..........................................................................................................................39 1.3.4. Phân biệt tội lừa đảo với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226b) .40 Chƣơng 2:TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TÌNH NAM ĐỊNH ......................................... 42 2.1. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG BLHS 1999 (SỬA ĐỔI NĂM 2009) ...................................... 42 2.1.1. Khung cơ bản (Khoản 1 Điều 139)..................................................................43 2.1.2. Khung tăng nặng thứ nhất (Khoản 2 Điều 139) .............................................43 2.1.3. Khung tăng nặng thứ hai (Khoản 3 Điều 139)................................................47 2.1.4. Khung tăng nặng thứ ba (Khoản 4 Điều 139).................................................48 2.1.5. Hình phạt bổ sung..............................................................................................50 2.1.6. Các biện pháp tư pháp .......................................................................................50 2.1.7. Trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong những trường hợp đặc biệt ......................................................................................................51 2.2. THỰC TIỄN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH ................................ 54 2.2.1. Những đặc điểm về địa lý, kinh tế, xã hội của tỉnh Nam định có ảnh hưởng đến tình hình tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản ....................................................54 2.2.2. Kết quả điều tra, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2008 đến năm 2012 ..............................................................58 2.2.3. Một số đặc điểm của loại tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định ..............................................................................................................61 2.2.4. Một số đặc điểm liên quan đến chủ thể tội phạm ...........................................65 2.2.5. Địa bàn hoạt động ..............................................................................................67 Chƣơng 3:MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH .............................................................................................................. 69 3.1. MỘT SỐ BẤT CẬP HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN Ở TỈNH NAM ĐỊNH.... 69 3.1.1. Một số bất cập của Bộ luật hình sự ..................................................................69 3.1.2 Những bất cập xuất phát từ hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật.....72 3.1.3. Những bất cập xuất phát từ việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật ...............74 3.2. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH. ................. 75 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của BLHS ................................................................75 3.2.2. Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nghiệp vụ của các cơ quan tố tụng trên địa bàn tỉnh Nam Định về xử lý tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản............................................................................................................... 84 KẾT LUẬN .................................................................................................... 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 91 DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TĂT BLHS : Bộ Luật Hình sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân HĐTP : Hội đồng thẩm phán TNHS : Trách nhiệm hình sự DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: So sánh thực trạng tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh Nam Định................................58 Bảng 2.2: Thực trạng khởi tố, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định.................................................................................................59 Bảng 2.3. Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ năm 2008 - 2012 trên địa bàn tỉnh Nam Định..............................................600 Bảng 2.4: Bảng thống kê đặc điểm chủ thể tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định .......................................................................................................66 Bảng 2.5: Cơ cấu độ tuổi người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản....................67 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan trọng, thân thiết nhất của con người và luôn chiếm được sự quan tâm đặc biệt của các nhà lập pháp của bất kỳ quốc gia nào. Trong các hình thái xã hội khác nhau, Nhà nước đều sử dụng các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của con người và hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của con người đều bị áp dụng những hình thức trách nhiệm pháp lý nhất định như: Trách nhiệm bồi thường, trách nhiệm hoàn trả vật, tài sản trong pháp luật dân sự hay điều tra, truy tố, xét xử một người khi họ có hành vi xâm phạm quyền sở hữu ở mức độ nghiêm trọng. Thông qua việc đánh giá coi hành vi xâm phạm quyền sở hữu của con người là tội phạm và áp dụng đối với người phạm tội một hình phạt, Nhà nước luôn thể hiện thái độ đấu tranh không khoan nhượng đối với loại hành vi này. Ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp và các đạo luật khác để ghi nhận, bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của công dân, trong đó các quy định của pháp luật hình sự giữ vai trò quan trọng. Theo cách hiểu hiện nay "Quyền sở hữu là một hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác theo quy định của pháp luật" [37]. Như vậy sau quyền được sống, quyền được tự do thì quyền sở hữu có một vai trò to lớn đối với đời sống con người. Tiếp theo các văn bản pháp lý trước đó, Hiến pháp 1992 - văn bản pháp lý có giá trị pháp lý cao nhất đều ghi nhận: Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ 1 cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng [14]. Thể chế hóa quy định của Hiến pháp, Bộ luật hình sự đã giành hẳn một chương quy định các tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV Bộ luật hình sự) gồm từ Điều 133 đến Điều 145 trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự. Trước đó, trong Bộ luật hình sự 1985, vì đề cao sở hữu tập thể, sở hữu Nhà nước nên các nhà lập pháp thời kỳ này đã tách thành hai chương riêng: Chương các tội xâm phạm tài sản sở hữu xã hội chủ nghĩa và chương các tội xâm phạm sở hữu của công dân với các đặc điểm pháp lý hành vi không có gì khác nhau, có chăng chỉ khác nhau về khách thể bảo vệ là quan hệ sở hữu XHCN hay quan hệ sở hữ tư nhân. Chính sách hình sự khác nhau dẫn đến mức hình phạt áp dụng khác nhau và có một vài tình tiết định khung tăng nặng khác nhau. Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định quyền sở hữu là một quyền thiêng liêng và được hiến định. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: 1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. 3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường [22]. Cụ thể hóa nội dung và tinh thần này của Hiến pháp, các quy định của Bộ luật hình sự về bảo vệ quyền sở hữu của con người được nghiên cứu, bổ sung, trong đó có tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. 2 Nghiên cứu diễn biến tội phạm trong những năm vừa qua, trên phạm vi toàn quốc, có thể thấy rằng nhóm các tội xâm phạm sở hữu thuộc loại tội phạm có diễn biến rất phức tạp. Tính chất phức tạp thể hiện ở hai điểm: số vụ liên tục tăng và mức độ nguy hiểm cũng ngày càng nghiêm trọng. Hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu đã gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản của Nhà nước, của tổ chức và tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã hội. Trong đó tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở hữu có mức độ xảy ra nhiều nhất, tội này diễn biến ngày một gia tăng, với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt. Trên địa bàn tỉnh Nam Định, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm xâm phạm đến sở hữu trong những năm vừa qua cho thấy loại tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản luôn chiếm một số lượng đáng kể trong tổng số các tội phạm hàng năm. Có nhiều nguyên nhân để giải thích cho tình trạng nghiêm trọng của tội phạm này, tuy nhiên việc nghiên cứu làm rõ các đặc điểm của tội phạm này trên phạm vi một địa bàn cụ thể được xác định (thông qua việc nghiên cứu đặc điểm kinh tế - xã hội, đặc điểm dân cư, tính chất địa bàn) sẽ giúp chúng ta lý giải phần nào tính đặc thù của loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Nam Định qua đó giúp chúng ta có thể đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Là một cán bộ công tác trong ngành bảo vệ pháp luật, tác giả lựa chọn đề tài này để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình. Việc nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và các biểu hiện cụ thể của nó tại Nam Định để từ đó đề ra những biện pháp hoàn thiện các quy định của BLHS cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là rất cần 3 thiết. Vì lý do đó tác giả đã chọn đề tài "Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam - Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại địa bàn tỉnh Nam Định"làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. Cũng cần nói thêm rằng, vì đặt trọng tâm nghiên cứu thực trạng tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên một địa bàn cụ thể, nên tác giả không có điều kiện nghiên cứu xuyên suốt quá trình lập pháp hình sự Việt Nam về loại tội phạm này trong suốt quá trình phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam, mà chỉ cố gắng tập trung nghiên cứu quá trình phát triển pháp luật hình sự Việt Nam từ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay. 2. Tình hình nghiên cứu Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được đề cập trong một số công trình nghiên cứu khoa học về luật hình sự, trong các tập bình luận khoa học về luật hình sự, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của nhiều tác giả nổi tiếng như TS Trịnh Hồng Dương, GS.TS Võ Khánh Vinh, Ths Trần Thị Phương Hiền và gần đây là khóa luận tốt nghiệp của Lê Thị Khánh Ly tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài ra, có thể kể đến các bài viết nghiên cứu của tiến sỹ Lê Đăng Doanh (Đại học Luật Hà Nội) bàn về các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS, trong đó tác giả đã so sánh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lừa dối khách hàng, cũng như phân tích sâu sắc tính chất pháp lý của hành vi dùng thủ đoạn lừa dối, lập hồ sơ khống để chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng… Qua nghiên cứu cho thấy, nhìn chung các tác giả đã đề cập khá sâu sắc và toàn diện về các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này; phân biệt rõ các trường hợp phạm tội này với một số tội phạm khác có chung đặc điểm là dấu hiệu lừa dối, tuy nhiên chưa có công trình khoa học nào đề cập đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong mối liên hệ với một địa bàn cụ thể là tỉnh Nam Định, nhất là trong bối cảnh là một tỉnh đan xen dân cư nông thôn và thành thị. Sự 4 đình đốn trong sản xuất công nghiệp, tình trạng thất nghiệp, tình trạng di dân tự do, tình trạng yếu kém trong việc quản lý kinh tế của các cơ quan nhà nước trong hoạt động tổ chức xuất khẩu lao động, trong hoạt động cho vay tín dụng, sự lơ là thiếu cảnh giác của một bộ phận không nhỏ người dân....luôn là vấn đề nổi cộm và là một trong những nguyên nhân làm cho loại tội phạm này gia tăng. Trên thực tế Nam Định tuy là một tỉnh nhỏ thuộc đồng bằng Bắc Bộ, song cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, tình hình tội phạm lừa đảo có những diễn biến phức tạp và xu hướng ngày càng gia tăng không chỉ về số vụ mà cả về tính chất, hậu quả thiệt hại về tài sản ngày càng trầm trọng, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của tỉnh Nam Định. Bởi vậy, luận văn nghiên cứu về: các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; so sánh sự khác biệt của tội phạm này và các tội phạm khác có cùng tính chất; nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số quốc gia có những nét tương đồng về truyền thống lập pháp với Việt Nam; nghiên cứu thực trạng và diễn biến của loại tội phạm này ở Nam Định. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự đồng thời đưa ra các biện pháp nâng cao nhận thức và hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhằm giảm bớt những thiệt hại xảy ra,đem lại sự tin tưởng vào pháp luật cho mọi người dân trên địa bàn tỉnh Nam Định. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Mục đích của đề tài: trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và thực trạng tình hình, các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định để đưa ra các các đề xuấthoàn thiện BLHS về loại tội phạm này, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự ViệtNam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 5 - Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đặt ra cho mình các nhiệm vụ sau đây: a) Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam từ khi Cách mạng tháng 8 thành công đến nay, qua đó để có một cách nhìn khái quát về quá trình phát triển của quy định này, phục vụ cho các đề xuất sửa đổi, bổ sung tội phạm này và các tội phạm khác có liên quan. b) Phân tích và làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 đồng thời phân tích và so sánh các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này với một số tội phạm khác có liên quan như: tội lừa dối khách hàng, tội đánh bạc…để làm rõ thêm cách nhận biết các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này. c) Phân tích thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử loại tội này tại tỉnh Nam Định trong thời gian vừa qua để thấy được các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác này trong thời gian vừa qua. d) Phân tích những đặc điểm đặc thù của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên cơ sở gắn với đặc điểm của tỉnh Nam Định đồng thời chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này tại tỉnh Nam Định. đ) Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, qua đó góp phần đấu tranh có hiệu quả hơn đối với loại hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng và cả nước nói chung. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phân tích thực trạng và diễn biến của tội phạm để rút ra những điểm thành công cũng như thiếu sót trong việc áp dụng các quy 6 định của BLHS và BLTTHS trên địa bàn tỉnh Nam Định, phân tích nguyên nhân, đưa ra các biện pháp nhằm hoàn thiện các quy định của BLHS và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự ViệtNam về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. - Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ luật hình sự trên địa bàn tỉnh Nam Định 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự và tội phạm học như: phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích và so sánh, phương pháp tổng hợp. Ngoài ra, còn một số phương pháp khác cũng được áp dụng như: phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp chuyên gia... 6. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp mới của đề tài Trong phạm vi của đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định. - Về mặt lý luận: đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự. - Về mặt thực tiễn: những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Ngoài ra, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các lực lượng tham gia phòng, chống loại tội phạm này không những ở tỉnh Nam Định mà còn có thể áp dụng trên địa bàn tỉnh, thành phố khác có điều kiện tương tự. - Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đồng thời đã đưa ra các 7 giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố và xét xử đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam Chương 2:Trách nhiệm hình sự của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong BLHS hiện hành và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định. Chương 3: Một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Nam Định. 8 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Bảo vệ quyền sở hữu của các nhân, tổ chức chống lại các hành vi xâm hại là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ Việt Nam kể từ khi giành được Chính quyền. Do đó, chỉ sau một thời gian ngắn, mặc dù bận nhiều công việc nhưng Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để nghiêm trị các hành vi này. 1.1. LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Từ năm 1945 đến trƣớc khi ra đời Bộ luật hình sự 1985 Sau thành công của Cách mạng tháng 8 năm 1945, nước ta đã ban hành những văn bản pháp luật hình sự quy định việc trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa như: Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/2/1946 về các tội phá hoại công sản; Sắc lệnh số 223-SL ngày 27/11/1946 về tội biển thủ công quỹ; Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1949 về tội trộm cắp tài sản quốc phòng trong thời chiến; Sắc lệnh số 68-SL ngày 18/6/1949 về bảo vệ các công trình thủy nông; Sắc lệnh 267-SL ngày 15/6/1956 về các âm mưu và hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở việc chính sách, kế hoạch Nhà nước… Bên cạnh đó, Nhà nước ta cũng quan tâm tới việc bảo vệ các tài sản riêng của công dân bằng việc ban hành Thông tư 442-TTg ngày 19/1/1955 của Thủ tướng Chính phủ về một số tội phạm. Trong đó có đề cập tới tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên mới nêu tội danh mà chưa mô tả được cụ thể hành vi phạm tội [31]. Do yêu cầu khách quan và nhằm tăng cường pháp chế 9 xã hội chủ nghĩa, đấu tranh bảo vệ có hiệu quả tài sản xã hội chủ nghĩa và công dân. Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có nhiều văn bản hướng dẫn việc vận dụng các quy phạm pháp luật vào công tác xét xử, ngày 21/10/1970 Nhà nước ta đã thông qua hai pháp lệnh mới. - Pháp lệnh thứ nhất là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa do Lệnh số 149-LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố. - Pháp lệnh thứ hai là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân do Lệnh số 150 - LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố. Hai pháp lệnh trên đã thay thế các luật lệ cũ về các tội phạm xâm phạm sở hữu. Trong cả hai pháp lệnh này hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng được quy định với hai tội danh cụ thể tương ứng với hai hình thức sở hữu được quy định lúc đó là sở hữu tài sản xã hội chủ nghĩa và sở hữu tài sản riêng của công dân. Về cơ bản hai tội trên đều có hành vi giống nhau đó là hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý. Thủ đoạn gian dối có thể bằng cách dùng mọi mánh khóe, bịp bợm, bằng lời nói, giả mạo giấy tờ, giả danh cán bộ, giả mạo tổ chức,... Làm cho người quản lý tài sản tin mà giao nhầm tài sản đó cho người phạm tội Với những hành vi có cùng tính chất nhưng lại tác động lên đối tượng là hai loại tài sản khác nhau đó là tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân nên được quy định thành hai tội khác nhau trong hai pháp lệnh. Tuy nhiên ở pháp lệnh thứ nhất, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa coi lừa đảo là một số hành vi gian dối cụ thể của những người trong khi giao dịch, mua bán với cơ quan nhà nước hay hợp tác xã đã cố ý dùng mánh khóe gian lận thông thường như cân, đo, đong, đếm, tính sai hoặc bằng cách khác để 10 chiếm đoạt tài sản của cơ quan nhà nước hoặc hợp tác xã mà mình giao dịch. Còn ở pháp lệnh thứ hai, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân chỉ quy định tôi phạm một cách chung chung: "kẻ nào dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân…" trong khi những hành vi gian lận bằng cách: cân, đo, đong, đếm, tính gian, không chấp hành chính sách giá cả đã quy định, đánh tráo hàng…" được tách ra khỏi tội lừa đảo để quy định thành một tội riêng tại Điều 10 Pháp lệnh là "Tội gian lận để chiếm đoạt tài sản riêng của khách hàng". Sau ngày 30/4/1975 thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã ban hành thêm một số văn bản pháp luật hình sự mới trừng trị các tội xâm phạm sở hữu. Cụ thể ở miền Nam, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời ban hành Sắc lệnh số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt. Tại Điểm b, Điều 4 Sắc luật số 03-SL/76 quy định như sau: Phạm các tội chiếm đoạt tài sản khác như trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì thì bị phạt tù đến 15 năm. Phạm tội trộm cắp, tham ô, lừa đảo mà số tài sản chiếm đoạt rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Điều 8 Sắc luật 03-Sl/76 quy định về tội xâm phạm đến tài sản riêng của công dân như sau: Phạm tội cướp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 2 năm đến 12 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm, từ chung thân hoặc tử hình. Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, lừa đảo, bội tín, cướp giật, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 10 năm. 11 Như vậy, ở thời điểm này trên hai miề n Nam , Bắc tồn tại hai loại văn bản pháp luật khác nhau cùng xử lý về một tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó là: Hai pháp lệnh ngày 21/10/1970 và Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976. Nội dung cơ bản của các văn bản này đều thống nhất về tội danh và đường lối xử lý. Tuy nhiên so với các pháp lệnh, thì các quy định của Sắc luật chỉ nêu tên tội danh mà không quy định cụ thể dấu hiệu pháp lý của tội phạm. Để áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật này, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Chỉ thị số 54/TATC ngày 6/7/1977 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất thì việc áp dụng pháp luật đối với hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thống nhất như sau: Ở miền Bắc vẫn áp dụng hai pháp lệnh ngày 21/10/1970. Ở miền Nam thì áp dụng Sắc luật số 03 là chính, có tham khảo điều khoản tương ứng của Pháp lệnh ngày 21/10/1970 để nắm rõ hơn dấu hiệu các tội phạm và áp dụng các hình phạt hợp lý hơn. Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực, pháp luật hình sự đã có quy định về loại tội phạm có hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên do có nhiều loại văn bản được ban hành và áp dụng ở hai miền Nam, Bắc khác nhau nên không tránh khỏi những bất cập nhất định, nguyên tắc pháp chế khó được thực hiện. Vì vậy cần phải pháp điển hóa các quy định trong các văn bản pháp luật này để đảm bảo tính thống nhất [24]. Bộ luật hình sự 1985, có hiệu lực từ ngày 01/1/1986 đã ra đời đáp ứng yêu cầu đó. 1.1.2. Từ năm 1986 đến trƣớc khi sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự vào năm 1999 Ngày 27/6/1985 Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khóa VI ban hành và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/1986 đã khắc phục được tình trạng các văn bản pháp luật chồng chéo, không thống nhất trước đó. Tăng cường được 12 tính pháp chế, đồng thời bảo vệ được quyền tài sản của công dân. Sự ra đời của Bộ luật hình sự là sự pháp điển hóa các quy định về tội phạm và hình phạt từ năm 1945 đến năm 1985. Qua nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự thời kỳ này về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chúng tôi nhận thấy, loại tội phạm này được phát triển theo hướng: tiếp tục có sự ghi nhận và có sự phân biệt giữa quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa và sở hữu riêng của công dân; mức hình phạt ngày càng được tăng nặng cho phù hợp với tình hình tội phạm và các dấu hiệu pháp lý và các tình tiết định khung tăng nặng ngày càng được hoàn thiện hơn. * Tiếp tục đề cao chính sách hình sự bảo vệ tốt hơn quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa Theo quy định của Bộ luật hình sự 1985 thì tội xâm phạm sở hữu có kế thừa và phát triển các văn bản pháp luật trước đó. Do đề cao sở hữu nhà Nước và tập thể, chưa thật sự coi trọng đến sở hữu tư nhân nên trong giai đoạn này hành vi xâm phạm tài sản Nhà nước luôn được coi là nghiêm trọng hơn xâm hại sở hữu tư nhân nên được các nhà lập pháp lúc bấy giờ quy định ở hai chương khác nhau. Cụ thể: Chương IV là các tội xâm phạm sở hữu xã hội chủ nghĩa và chương V là các tội xâm phạm sở hữu công dân. Có sự quy định như vậy là vì Bộ luật hình sự 1985 ra đời trong bối cảnh nền kinh tế nước ta lúc đó chỉ có hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Được quản lý và điều hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Trên cơ sở kế thừa quy định của hai pháp lệnh ngày 21/10/1970 thì vẫn được quy định là hai tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa" và tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân" cụ thể như sau: Điều 134: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa: 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan