giáo lý cơ bản của phật giáo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................1
1. Tam tạng kinh điển................................................................................................1
2. Pháp.......................................................................................................................2
3. Vô thường – Vô ngã..............................................................................................3
4. Tứ diệu đế..............................................................................................................4
5. Nhân duyên............................................................................................................8
6. Nhân quả................................................................................................................8
7. Nghiệp.................................................................................................................11
8. Luân hồi...............................................................................................................13
9. Niết bàn...............................................................................................................16
KẾT LUẬN.............................................................................................................17
MỞ ĐẦU
Ấn Độ là một trong những quốc gia có nền văn hóa, văn minh lớn và sớm trên thế
giới. Văn minh Ấn Độ phát triển rực rỡ, huy hoàng trên nhiều lĩnh vực như chữ
viết, văn học, toán học, nghệ thuật,… với những đóng góp to lớn cho nền văn minh
nhân loại. Từ thiên niên kỉ thứ III TCN, người Ấn đã tạo được nền văn minh của
mình là nền văn minh Harrappa và Mohenjo Daro. Từ khoảng 1500 năm TCN, do
những biến động xã hội, Ấn Độ đã chuyển sang một nền văn minh mới là nền văn
minh Veda. Phật giáo đã được sinh ra trong nền văn minh này. Đất nước Ấn Độ là
nơi sản sinh ra rất nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất là Đạo Bà La Môn mà
về sau này là Hinđu Giáo và Đạo Phật. Ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như
đạo Jaina, đạo Sikh. Ngày nay, ở Ấn Độ chỉ có đạo Hinđu được coi là quốc giáo.
Đạo Phật tuy không còn phát triển mạnh ở cái nôi đã sinh ra nó nhưng lại lan tỏa
rộng rãi và có ảnh hưởng tại nhiều quốc gia trên thế giới. Hơn nữa, Phật giáo đã có
ảnh hưởng tỏa khắp chiều rộng lẫn chiều sâu ở Ấn Độ. Các tháp, tu viện, đền và
các thánh tượng của Phật giáo được xây dựng ở nhiều nơi Phật tích trên lục địa Ấn
Độ này. Trong nhiều thế kỷ, người dân Ấn đã kính trọng và tôn thờ các danh hiệu,
hình tượng, lời dạy của chư Phật và Bồ Tát. Phật giáo đã sản sinh một khối lượng
đồ sộ văn học Pali, Sanskrit và các ngôn ngữ bản xứ; các bài học, cao đẳng và tu
viện Phật giáo với những thư viện và giáo lý phong phú vĩ đại đã hướng dẫn người
dân Ấn trong nhiều thế kỷ qua; vô số trung tâm nghệ thuật và chiêm bái của Phật
giáo khắp Ấn Độ đã trở thành một nguồn giáo dục và rèn luyện cho vô số người
Ấn từ thời cổ đại. Tôn giáo, đạo đức và triết học của Phật giáo đã phát triển như là
một đỉnh cao đã tạo ra sự ảnh hưởng lâu dài đến nền văn hóa và văn minh của Ấn
Độ. Vì sao mà Đạo Phật lại có sức ảnh hưởng mạnh mẽ, rộng rãi tới như vậy? Đó
là bởi những tư tưởng giáo lí mang đậm tính nhân đạo, nhân văn hướng con người
tới những giá trị chân, thiện, mĩ đích thực phù hợp với rất nhiều nền văn hóa của
nhiều quốc gia trên thế giới. Trong bài tiểu luận này, chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu
những giáo lí cơ bản trong đạo Phật để hiểu rõ hơn lí do tại sao Phật giáo lại trở
nên phổ biến rộng rãi đến như vậy.
NỘI DUNG
1. Tam tạng kinh điển
Những nguyên lý cơ bản của Phật giáo được thể hiện trong giáo lý. Hệ thống giáo
lý của Phật giáo là một hệ thống rất đồ sộ nằm chủ yếu trong Tam tạng kinh điển,
gồm Kinh tạng (ghi lời Phật dạy), Luật tạng (các giới luật), và Luận tạng (các bài
kinh, tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng và học giả sau
này).
Nguyên bản kinh điển của Phật giáo được chép bằng chữ Sanscrit (Phạn) và chữ
Pali, là hai thứ tiếng của Ấn Độ thời kỳ Phật giáo ra đời. Sau này kinh điển của
Phật giáo được dịch ra nhiều thứ tiếng như: Hán, Mông Cổ, Nhật Bản, Triều Tiên,
Anh, Pháp, Nga, Đức, … và phổ biến khá rộng rãi trên thế giới.
Kinh tạng (Sutra pitaka) là những sách ghi những lời Phật Thích Ca giảng về giáo
lý, được đại đệ tử A Nan Đa tập hợp lại ngay từ lần kết tập đầu tiên. Kinh tạng của
Phật giáo gồm 5 bộ lớn: Trường bộ kinh (Digha Nikay) bao gồm những bộ thuyết
pháp dài của Phật Thích Ca; Trung bộ kinh (Majjiima Nikaya) bao gồm những bài
thuyết dài trung bình; Tương ưng bộ kinh (Samyutta Nikaya) bao gồm những bài
thuyết pháp được sắp xếp theo từng đề tài; Tăng bộ kinh (Auguttara Nikaya) bao
gồm những bài thuyết pháp sắp xếp theo từng pháp; Tiểu bộ kinh (Khudaka
Nikaya) bao gồm 15 tập kinh xưa nhất.
Luật tạng (Vinaya pikata) là sách ghi những giới luật do Phật chế định làm khuôn
phép cho việc sinh hoạt, tu học của đệ tử, nhất là đối với những người xuất gia tu
hành. Ưu Bà Ly, một đại đệ tử của Phật Thích Ca có công lao trong việc tập hợp
hình thành Luật tạng từ lần Đại hội kết tập đầu tiên.
Luận tạng (Abhidhamma pitaka) là những sách được các vị Bồ - tát biên soạn sau
khi Phật Thích Ca nhập diệt, nhằm mục đích giới thiệu những giáo lý Phật giáo
một các có hệ thống, đồng thời phê bình, uốn nắn những nhận thức sai trái và
chống lại những quan điểm đả kích xuyên tạc về giáo thuyết Phật giáo.
2. Pháp
Pháp được coi là lý thuyết đầu tiên của Phật giáo, nhằm chỉ ra các dạng tồn tại của
thế giới. Đó chính là các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất.
Phật giáo cho rằng thế giới luôn luôn tồn tại “vạn pháp” hay “hằng hà sa số” các
pháp. Tất nhiên, Pháp ở đây không phải là luật (theo nghĩa luật pháp) – hay rộng
hơn là toàn bộ học thuyết Phật giáo trong “Tam bảo” (Phật, Pháp, Tăng). Pháp là
danh từ gốc tiếng Phạn – Dharma nguyên nghĩa là vật mang, được dùng để chỉ tất
cả các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất từ cái “bé như hạt bụi” đến cái “lớn
như quả núi”.
Theo từng văn cảnh, Phật giáo chia làm các loại pháp, như: pháp hữu vi là các sự
vật hiện tượng mà các giác quan có thể nhận thức, cảm giác được; pháp vô vi là
những sự vật hiện tượng mà các giác quan không nhận thức, cảm giác được; pháp
hữu tình là những sinh vật có sự sống; pháp vô tình là những sinh vật vô tri, vô
giác; pháp thiện là những pháp thúc đẩy sự giải thoát; pháp ác là những pháp cản
trở sự giải thoát, …
Phật giáo cho rằng thế giới là thế giới vật chất. Các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ
hay nói các khác là “vạn pháp” không phải do một Đấng thiêng liêng nào tạo tác
bằng những phép màu nhiệm, mà được tạo nên bởi những phần vật chất nhỏ bé
nhất. Phần nhỏ bé đó chính là cội gốc, là “bản thể”, của sự vật, hiện tượng, và rộng
ra là thực tướng của thế giới vạn pháp.
Sách Phật cho rằng các pháp luôn sinh diệt, mất còn nhưng bản thể bất biến, không
sinh không diệt. Sách Phật ví bản thế là nước, vạn pháp là sóng; sóng liên tiếp hết
lớp này đến lớp khác, bản thể của sóng là nước thì không bao giờ thay đổi; sóng
thay đổi tùy thuộc vào gió, còn nước bao giờ cũng vẫn là nước.
3. Vô thường – Vô ngã
• Vô thường (vận động biến đổi không ngừng)
Vạn pháp trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn chuyển động, biến đổi, sách
Phật gọi là “Vô thường” (Anicca). Thường là đứng yên, vô thường là không đứng
yên, không đứng yên có nghĩa là chuyển động. Sự vận động đó đi theo một chu
trình: thành – trụ – hoại – không (đối với các pháp vô tình), hay sinh – trụ – dị –
diệt (đối với các pháp hữu tình) tức là sinh ra, tồn tại, biến dạng và mất đi. Vì vậy
mọi sự vật không mãi ở yên trong một trạng thái nhất định, luôn luôn thay đổi hình
dạng, đi từ trạng thái hình thành đến biến dị rồi tan rã. Với quan niệm này, Phật
giáo cho rằng không phải là sự vật, hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất (hay
chết đi) mới gọi là diệt, mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết, không
phải là hết khổ mà chết là điều kiện của một sinh thành mới. Sinh và diệt là hai quá
trình xảy ra đồng thời trong một sự vật, hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ
rộng lớn. Hay nói cách khác là, sự thành – trụ của pháp này là sự hoại – không của
pháp khác. Cứ như vậy mà vạn pháp sinh, diệt tiếp diễn không ngừng, không dứt.
Sách Phật nêu lên hai hình thức vận động biến đổi của các pháp:
Một là Sat–na vô thường (Sat–na – Kshana là đơn vị thời gian, một Sat–na là một
niệm): là một sự chuyển biến rất nhanh, trong một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn
cả một nháy mắt, một hơi thở, một niệm, một sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm
dứt. Phật dùng danh từ Satna để chỉ một khoảng thời gian hết sức ngắn
Hai là Nhất kỳ vô thường: là sự chuyển động chậm mà theo từng giai đoạn mà con
người nhận thức được. Sự vô thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh
chóng, liên tiếp, ngắn ngủi, thường là ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô
thường thứ hai. Nhất kỳ vô thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một
trạng thái cũ, chuyển sang một trạng thái mới.
• Vô ngã (không có cái tôi chân thật)
Trái với quan điểm của kinh Vêđa, đạo Bàlamôn và đa số các môn phái triết học
tôn giáo đương thời thừa nhận sự tồn tại của một thực thể siêu nhiên tối cao, sáng
tạo và chi phối vũ trụ, Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con người
không phải do một vị thần nào sáng tạo ra mà được cấu thành bởi sự kết hợp của 2
yếu tố là “Sắc” và “Danh”. Trong đó, Sắc là yếu tố vật chất, là cái có thể cảm nhận
được, nó bao gồm đất, nước, lửa và không khí; Danh là yếu tố tinh thần, không có
hình chất mà chỉ có tên gọi. Nó bao gồm: thụ (cảm thụ), tưởng (suy nghĩ), hành (ý
muốn để hành động) và thức (sự nhận thức).
Danh và sắc kết hợp lại tạo thành 5 yếu tố gọi là “Ngũ uẩn”. Ngũ uẩn bao gồm sắc
(vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức), chúng
tác động qua lại với nhau tạo nên vạn vật và con người. Nhưng sự tồn tại của sự
vật chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại mãi mãi. Do
đó, không có “Bản ngã” hay cái tôi chân thực.
4. Tứ diệu đế
Nội dung triết lý nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ
Diệu Đế” (Tứ thánh đế – Catvary Arya Satya) tức là 4 chân lý tuyệt diệu đòi hỏi
mọi người phải nhận thức được. Tứ diệu đế là:
• Khổ đế:
Chân lí về sự khổ, cho rằng mọi dạng tồn tại đều mang tính chất khổ não, không
trọn vẹn, cuộc đời con người là một bể khổ. Phật xác nhận đặc tướng của cuộc đời
là vô thường, vô ngã và vì vậy mà con người phải chịu khổ. Có 8 nỗi khổ là : sinh
khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau phải xa nhau), oán
tăng hội (ghét nhau phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không đạt
được) và ngũ thụ uẩn (do 5 yếu tố tạo nên con người).
Như vậy, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức xúc của
hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý về bản chất. Về phương diện triết học,
khổ đau là một thực tại như thực đối với con người. Khổ đế là một chân lý khách
quan của hiện thực. Khổ hay hình thái bất an là kết quả hàng loạt nhân duyên được
tạo tác từ tâm thức. Như vậy tri nhân thực tại là một cách trực tiếp đi vào soi sáng
mọi hình thái khổ đau của con người. Để thấu hiểu triệt để cái căn nguyên của khổ
đau, con người không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay quay mặt chạy trốn,
mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó.
Đạo Phật cho rằng đời là bể khổ, nỗi đau khổ là vô tận, là tuyệt đối. Do đó, con
người ở đâu, làm gì cũng khổ. Cuộc đời là đau khổ không còn tồn tại nào khác.
Ngay cả cái chết cũng không chấm dứt sự khổ mà là tiếp tục sự khổ mới. Phật ví sự
khổ của con người bằng hình ảnh: “Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước
biển”.
• Nhân đế (hay Tập đế):
Là triết lý về sự phát sinh, nguyên nhân gây ra sự khổ. “Tập” là tụ hợp, kết tập lại.
Nguyên nhân của khổ là sự ham muốn, tìm sự thoả mãn dục vọng, thoả mãn được
trở thành, thoả mãn được hoại diệt… Các loại ham muốn này là gốc của luân hồi.
Đạo Phật cho rằng nguyên nhân sâu xa của sự khổ, phiền não là do “thập nhị nhân
duyên”, tức 12 nhân duyên tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con người. 12 nhân
duyên này gồm:
1. Vô minh (không sáng suốt): đồng nghĩa với mê tối, ít hiểu biết, không sáng suốt.
Không hiểu được đời là bể khổ, không tìm ra nguyên nhân và con đường thoát khổ.
Trong mười hai nhân duyên, vô minh là căn bản. Nếu không thấu hiểu Tứ diệu đế
cũng được gọi là Vô minh.
2. Duyên hành: là ý muốn thúc đẩy hành động.
3. Duyên thức: tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4. Duyên danh sắc: sự hội tụ các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ quan
cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5. Duyên lục nhập: là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác
quan cảm giác, lúc đó thân sẽ sinh ra sáu cửa là: nhãn, nhĩ, tỳ, thiệt, thân để thiêu
hủy, đón nhận.
6. Duyên xúc: là sự tiếp xúc của thế giới xung quanh sinh ra cảm giác. Đó là sắc,
thinh, hương vị, xúc và pháp khi tiếp xúc, đụng chạm vào.
7. Duyên thụ: là sự cảm thụ, sự nhận thức khi thế giới bên ngoài tiếp xúc với lục
căn sinh ra cảm giác.
8. Duyên ái: là yêu thích mà nảy sinh ham muốn, dục vọng trước sự tác động của
thế giới bên ngoài.
9. Duyên thủ: do yêu thích quyến luyến, không chịu xa lìa, rồi muốn chiếm lấy, giữ
lấy không chịu buông ra.
10. Duyên hữu: cố để dành, tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11. Duyên sinh: sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Duyên lão tử: khi đã sinh thì xác thân phải tiêu hoại mỏi mòn, trẻ rồi già, ốm
đau rồi chết.
Thập nhị nhân duyên có nhiều cách giải thích khác nhau nhưng nhìn chung đều
cho rằng chúng có quan hệ mật thiết với nhau, cái này là nhân, làm duyên cho cái
kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời là nhân cho cái sau. Cũng có lời giải
thích là 12 yếu tố tích luỹ đưa đến cái khổ sinh tử hiện tại mà yếu tố căn đế là ái và
thủ, nghĩa là tham lam, ích kỷ, còn gọi là ngã chấp. Mười hai nguyên nhân và kết
quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nổi khổ đau nhân loại.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy rõ
bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường
và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Chúng
ta có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lòng mình. Hay nói cách
khác, tùy theo cách nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay không.
Nếu không bị sự chấp ngã và dục vọng, vị kỹ hay phiền não khuấy động, chi phối,
ngự trị trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc hạnh phúc.
• Diệt đế:
là chân lý về diệt khổ. Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ điều có thể tiêu diệt được để
đạt tới trạng thái “niết bàn”. Một khi gốc của mọi tham ái được tận diệt thì sự khổ
cũng được tận diệt. muốn diệt khổ phải đi ngược lại 12 nhân duyên, bắt đầu từ diệt
trừ vô minh.
Vô minh bị diệt, trí tuệ được bừng sáng, hiểu rõ được bản chất tồn tại, thực tướng
của vũ trụ là con người, không còn tham dục và kéo theo những hành động tạo
nghiệp nữa, tức là thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nói cách khác diệt trừ được vô
minh, tham dục thì hoạt động ngũ uẩn dừng lại, tu đến niết bàn, tịch diệt khi ấy
mới hết luân hồi sinh tử.
Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, thì
những nỗi lo âu, sợi hải, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu
óc tĩnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn, rộng lượng hơn. Đó
là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không bị chi phối bởi những tư
tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung núng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng sợ
hải mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện
tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của
bạn với mọi người xung quanh rộng lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả năng
giảm thiểu lòng tham, vô minh đến mức độ nào thì đời sống của bạn sẽ tăng phần
hạnh phúc đến mức độ ấy.
• Ðạo đế:
là chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ. Đây là con đường tu đạo để hoàn thiện
đạo đức cá nhân. Khổ được giải thích là xuất phát Thập nhị nhân duyên, và một khi
dứt được những nguyên nhân đó thì ta có thể thoát khỏi vòng sinh tử. Chấm dứt
luân hồi, vòng sinh tử đồng nghĩa với việc chứng ngộ niết bàn. Có 8 con đường
chân chính để đạt sự diệt khổ dẫn đến niết bàn gọi là “Bát chính đạo”. Bát chính
đạo bao gồm:
1.Chính kiến: hiểu biết đúng đắn và gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ diệu đế
và giáo lí vô ngã.
2.Chính tư duy: suy nghĩ luôn có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của
bốn chân lí một cách không sai lầm.
3.Chính ngữ: nói năng phải đúng đắn, không nói dối hay nói phù phiếm.
4.Chính nghiệp: giữ nghiệp đúng đắn, tránh phạm giới luật, không làm việc xấu,
nên làm việc thiện.
5.Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng đúng đắn, tránh các nghề nghiệp liên quan đến
sát sinh.
6.Chính tinh tiến: cố gắng nổ lực đúng hướng không biết mệt mỏi để phát triển
nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu.
7.Chính niệm: tâm niệm luôn tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát, luôn tỉnh giác
trên ba phương diện Thân, Khẩu, Ý.
8.Chính định: kiên định, tập trung tư tưởng cao độ suy nghĩ về tứ điệu đế, vô ngã,
vô thường, tâm ý đạt bốn định xuất thế gian .
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ vô minh, đạt tới
sự giải thoát, nhập vào niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt, chấm
dứt sinh tử luân hồi.
Ngoài ra Phật giáo còn đưa ra 5 đều nhằm răn đe đem lại lợi ích cho con người và
xã hội. Chúng bao gồm: bất sát (không sát sinh), bất dâm (không dâm dục), bất
vọng ngữ (không nói năng thô tục, bậy bạ), bất âm tửu (không rượu trà) và bất đạo
(không trộm cướp).
5. Nhân duyên
Các sự vật hiện tượng trong vũ trụ chuyển động, biến đổi đều bị chi phối bởi quy
luật nhân duyên (Hetu – paccaya). Sách Phật cho rằng nhân là mầm tạo quả, duyên
là phương tiện điều kiện giúp cho nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại
nhờ có duyên mà trở thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết
quả mới. Cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật, tuân theo
quy luật “Nhân – Quả”, nhân là cái hạt, quả là cái trái, cái trái do mầm ấy phát
sinh. Nhân và quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nương vào nhau mà có. Nếu
không có nhân thì không thể có quả, nếu không có quả thì không thể có nhân, nhân
thế nào thì quả thế ấy.
Hạt lúa được gọi là “nhân” khi gặp “duyên” là điều kiện thuận lợi về không khí,
nước, ánh sáng, nhiệt độ…thì nhân sẽ phát triển thành “quả” là cây lúa.
Phật giáo cho rằng thế giới đầy rẫy những nhân và những duyên. Mỗi pháp từ khi
sinh ra đến khi diệt đều tạo ra những nhân, duyên mới bổ sung vào thế giới mới.
Trong quá trình vận động, nhân duyên liên tục kết hợp, liên tục tan rã nên các pháp
cũng liên tục sinh, liên tục diệt. Sách Phật gọi đó là tính “trùng trùng duyên khởi”
của thế giới.
6. Nhân quả
Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Nhân là cái hạt, quả là cái trái do hạt ấy phát
sinh. Nhân là năng lực phát động, quả là sự thành hình của năng lực phát động ấy.
Nhân quả là một định luật tất nhiên, có tương quan mật thiết với nhau và chi phối
tất cả mọi sự mọi vật.
Những đặc tính của luật nhân quả:
1.Nhân quả là một định luật nằm trong lý nhân duyên:
Nhân quả là một định luật, mới ngó thì rất giản dị, nhưng nếu càng đi sâu vào sự
vật để nghiên cứu thì lại càng thấy phức tạp, khó khăn. Trong vũ trụ mọi sự vật
không phải đơn thuần tách rời từng món, mà có liên quan mật thiết với nhau, xoắn
lấy nhau, đan lấy nhau ảnh hưởng lẫn nhau, tương phản nhau, thừa tiếp nhau. Để
nói đúng trạng thái chằng chịt giữa sự vật, đạo Phật thường dùng danh từ "Nhân
duyên", nghĩa là mọi sự, mọi vật có ra là nhờ duyên với nhau, nương vào nhau, hay
tương phản nhau mà thành, chứ không có một cái nào đứng biệt lập được. Trong sự
phức tạp của sự vật ấy, tìm ra được cái nhân chánh của quả, hay cái quả chính của
nhân, không phải là việc dễ. Do đó mà nhiều người không quen suy nghĩ tìm tòi
sâu xa, sanh ra nghi ngờ thuyết "Nhân quả". Thí dụ: hạt lúa có thể làm nhân cho
những chẹn lúa vàng là quả trong mùa gặt sau, nếu người ta đem gieo nó xuống
đất; nhưng nó cũng có thể làm cho người ta no bụng, biến thành máu thành thịt
trong cơ thể và thành phân bón cho cây cỏ, nếu chúng ta đem nấu nó để mà ăn.
Như thế một nhân chính có thể thành ra quả này hay quả khác, nếu những nhân
phụ khác nhau: muốn hạt lúa ở mùa này thành chẹn luá ở mùa sau, thì phải có đất,
có nước, có ánh sáng, có không khí, có thời gian, có nhân công; muốn nó thành
máu huyết thì phải nấu, phải ăn, phải có bộ máy tiêu hóa. Cho nên, khi nói nhân
quả là tách riêng sự vật ra khỏi cái chung cùng toàn thể của vũ trụ, lấy một khía
cạnh nào đó, để dễ quan sát, nghiên cứu, chứ muốn nói cho đúng thì phải dùng hai
chữ "Nhân Duyên". Cũng như một nhà khoa học, khi muốn nghiên cứu một bộ
phận nào trong cơ thể, khu biệt, cắt xén bộ phận ấy ra khỏi cơ thể, để nghiên cứu
cho dễ, chứ thật ra bộ phận ấy không phái biệt lập, mà trái lại có liên quan mật
thiết đến toàn cả cơ thể.
2. Một nhân không thể sinh ra quả:
Như chúng ta đã thấy ở đoạn trên, sự vật trong vũ trụ này đều là sự tổ hợp của
nhiều nhân duyên. Cho nên không có một nhân nào có thề tự tác thành kết quả
được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều nhân khác. Nói rằng hạt lúa sinh ra cây
lúa, là nói một cách giản đị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sinh ra gì
được cả; nếu để nó một mình giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng,
đất, nước, nhân công.
Cho nên, khi nghe ai tuyên bố rằng mọi vật do một nhân sinh ra, hay một nhân có
thể sinh ra vạn vật; ta có thể chắc chắn rằng người ấy nói sai.
3.Nhân thế nào thì quả thế ấy:
Nếu ta muốn có quả cam thì ta phải ương hạt giống cam; nếu ta muốn có hạt đậu
thì ta phải gieo giống đậu. Không bao giờ ta trong cam mà lại thấy đậu, hay trồng
đậu mà lại được cam. Người học đàn thì biết đàn, người học chữ thì biết chữ. Nói
một cách khác nhân với quả bao giờ cũng đồng một loại với nhau. Hễ nhân đổi thì
quả cũng đổi. Nếu nhân đổi ít thì quả cũng đổi ít, nếu nhân đổi nhiều thì quả cũng
đổi nhiều.
Quả còn tùy thuộc ở những duyên phụ, mà trong đạo Phật gọi là tăng thượng
duyên hay trợ duyên. Thí dụ: Hạt lúa là nhân; đất, nước, không khí, ánh sáng, nhân
công, là trợ duyên. Nếu trồng lúa mà thiếu nước thì hạt lúa bị lép. Khi chúng ta
muốn có những trái cam thật to, chúng ta hãy ghép cái mụt cây cam vào gốc cây
bưởi. Vậy cái kết quả tốt đẹp là những trái cam to lớn, nhiều nước ấy, không phải
chỉ do cái mụt cam, mà còn do gốc bưởi nữa. Cho nên khi chúng ta muốn có cái
kết quả như thế nào đó, thì phải hội cho đủ điểu kiện, nghĩa là cho đủ nhân duyên,
thì kết quả mới được như ý ta mong muốn. Có nhiều người muốn được kết quả như
thế này, nhưng lại không hội đủ nhân duyên như thế ấy, nên kết quả đã sai khác với
ý mong muốn của mình, và do đó, họ đâm ra nghi ngờ sự đúng đắn của luật "Nhân
quả".
4.Trong nhân có quả, trong quả có nhân:
Chính trong nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong quả hiện
tại đã có hình bóng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta gọi là nhân, là khi nó chưa
biến chuyển, hình thành ra cái quả mà ta quan niệm; một sự vật mà ta gọi là quả là
khi nó biến chuyển hình thành ra trạng thái mà ta đã quan niệm. Một vật đều có
nhân và quả: đối với quá khứ thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân.
Nhân và quả đắp đổi nhau, tiếp nối nhau không bao giờ dứt. Nhờ sự liên tục ấy, mà
trong một hoàn cảnh nào, người ta cũng có thể đoán biết quá khứ và tương lai của
một sự vật hay một người. Trong kinh thường nói: "Dục tri tiền thế nhân, kim sanh
thọ giả thị; yếu tri hậu thế quả, kim sanh tác giả thị" (muốn biết cái nhân đời trước,
thì cứ xem quả đời nay đương thọ; muốn biết cái quả về sau thế nào thì cứ xét cái
nhân đang tác động trong hiện tại). Cũng như thấy trong kho lẫm, năm nay có chứa
lúa (quả) thì biết năm vừa qua có làm ruộng (nhân). Còn muốn biết sang năm trong
lẫm có lúa không (quả) thì cứ xem năm nay có làm ruộng hay không (nhân) (trừ
trường hợp bỏ tiền ra mua lúa non, thì không kể).
5.Sự phát triển mau và chậm từ nhân đến quả:
Sự biến chuyền từ nhân đến quả có khi mau khi chậm, chứ không phải bao giờ
cũng diễn tiến trong một thời gian đồng đều.
Có những nhân và quả xảy ra kế tiếp nhau, theo liền nhau, nhân vừa phát khởi thì
quả đã xuất hiện. Như khi ta vừa đánh xuống mặt trống (nhân) thì tiếng trống liền
phát ra (quả), hay khi hai luồng điện âm và dương vừa gặp nhau, thì ánh sáng liền
bừng lên.
Có khi nhân đã gây rồi, nhưng phải đợi một thời gian, quả mới hình thành, như từ
khi gieo hạt giống cho đến lúc gặt lúa, cần phải có một thời gian ít nhất là bốn
tháng.
Có khi từ nhân đến quả cách nhau từng chục năm, như đứa bé mới cắp sách đi học
cho đến ngày thành tài, phải qua một thời gian ít nhất là mười năm.
Có khi cần đến một vài trăm năm, hay nhiều hơn nữa, quả mới xuất hiện, chẳng
hạn như từ ý niệm giành độc lập của một quốc gia đến khi thực hiện được nền độc
lập ấy, cần phải trải qua bao thế kỷ.
Vì lý do mau chậm trong sự phát hiện của các quả, chúng ta không nên nóng nảy
hấp tấp mà cho rằng cái luật nhân quả khônghoàn toàn đúng, khi thấy có những cái
nhân chưa phát sinh ra quả.
7. Nghiệp
Chữ nghiệp là do dịch nghĩa chữ Karma trong tiếng Phạn hay chữ Kamma trong
tiếng Pali ra. Dịch âm là Kiết ma. Nghiệp nghĩa là hành động, việc làm của thân,
khẩu, ý. Khi chúng ta nghĩ một điều gì, nói một câu gì, làm một việc gì, lành hay
dữ, xấu hay tốt, nhỏ nhặt hay to lớn, mà có ý thức, đều gọi là nghiệp. Những việc
làm vô ý thức không phải là nghiệp. Đức Phật dạy: "Này các thầy Tỳ kheo, Như
Lai nói rằng tác ý là nghiệp". Tác ý bắt nguồn sâu xa trong vô minh và ái dục, còn
vô minh, còn ái dục, còn ham muốn, thì mọi hành động, lời nói, tư tưởng đều là
nghiệp.
Trong đoạn nói về luật Nhân quả, chúng ta đã thấy về phương diện vật chất cũng
như tinh thần, hễ có nhân thì thế nào cũng có quả, và quả lại làm nhân để tạo thành
quả khác. Nhân quả đấp đổi cho nhau và tiếp nối mãi không dứt. Trong phạm vi
con người khi mới tạo ra hành động nào bất luận bằng thân, khẩu, hay ý thì hành
động ấy gọi là nghiệp nhân. Vang bóng ảnh hưởng của nghiệp nhân ấy, được gieo
vào trong ruộng tiềm thức, và trưởng thành dần. Khi nó có đủ cơ duyên, vang
bóng, ảnh hưởng ấy kết thành quả (nghĩa là phát lộ ra bằng hành động thân, khẩu,
ý khác), thì gọi là nghiệp quả. Vang bóng ảnh hưởng của nghiệp quả này, được gieo
vào tiềm thức để làm nghiệp nhân cho nghiệp quả về sau. Ruộng tiềm thức chất
chứa, nuôi dưỡng tất cả những hạt nhân và quả ấy, và trở thành ruộng thiện, nếu
những nghiệp nhân và quả của người hành động đều thiện; trở thành ruộng ác, nếu
nghiệp nhân và quả của người ấy đều ác; hay trở thành ruộng nửa thiện nửa ác, nếu
những nghiệp nhân và quả của người ấy có thiện có ác.
Nghiệp lực không có hình tướng, không ai có thể trông thấy được, nhưng nó có
một tác dụng vô cùng mãnh liệt. Nó là nòng cốt của mọi tư tưởng lời nói, mọi việc
làm. Nghiệp không phải chỉ có sức mạnh mà còn tồn tại dai dẳng, không bao giờ
chấm dứt, nếu chưa giác ngộ. Nghiệp cũng nằm trong luật nhân quả và bị chi phối
của luật nhân quả. Chúng ta đã biết thời gian từ khi nhân phát sinh đến khi quả
hình thành, có khi nhanh, khi chậm, thì thời gian từ nghiệp nhân đến nghiệp quả
cũng có khi mau khi chậm, có khi chỉ trong một đời, cũng có khi hai đời, có khi
nhiều đời. Nhưng dù chậm hay mau, đã gây nghiệp thì thế nào cũng chịu quả báo.
Đứng về phương diện thời gian, kinh "Nhân quả" có chia các nghiệp như sau:
- Thuận hiện nghiệp: Đời nay tạo nghiệp, đời sau thọ quả.
- Thuận sinh nghiệp: Đời nay tạo nghiệp, đời sau chịu quả.
- Thuận hậu nghiệp: Đời nay tạo nghiệp, cách mấy đời sau mới chịu quả.
- Thuận bát định nghiệp: Nghiệp quả xảy đến không nhất định thời nào, có khi
trong đời này, có khi đời sau, có khi nhiều đời sau.
Đứng về phương tiện tính chất, trong các kinh thường phân loại các nghiệp như
sau:
- Tích lũy nghiệp:
Là những nghiệp tạo tác trong nhiều đời trước chất chứa lại.
- Tập quán nghiệp:
Là những nghiệp tạo trong đời hiện tại, luôn luôn tiếp diễn, nên thành thói quen,
thành tập quán, thành nếp sống riêng biệt.
- Cực trọng nghiệp:
Là những nghiệp quan trọng có năng lực tác động mãnh liệt hơn cả các nghiệp
khác và chi phối tất cả. Nó phát hiện nghiệp quả ngay trong đời hiện tại, hay trong
đời kế tiếp. Nó có thể là kết quả của những hành vi tốt đẹp nhất như hành vi của kẻ
tu hành chân chính, nó cũng có thể là kết quả của những hành vi xấu xa, vô đạo
nhất như tội ngũ nghịch: giết cha, giết mẹ, giết A la hán, làm hại Phật và chia rẽ
Tăng chúng.
- Cận tử nghiệp:
Là những nghiệp lực gần lúc lâm chung, cũng rất mãnh liệt và chi phối rất nhiều
trong sự đi đầu thai.
Đứng về phương diện nặng nhẹ, lớn nhỏ của các nghiệp, thì trong các kinh cũng
chia chẻ một cách rất khoa học và hợp lý. Không phải rằng hành động nào có hình
thức giống nhau thì nghiệp nhân và nghiệp quả đều giống nhau. Sự khinh trọng,
lớn nhỏ của quả báo đều có căn cứ nơi ý để thành lập. Kinh Ưu Bà Tắc, trong khi
nói về sự nặng, nhẹ, lớn nhỏ của nghiệp nhân và nghiệp quả, có phân chia làm bốn
trường hợp:
- Việc nặng mà ý nhẹ
- Việc nhẹ mà ý nặng
- Việc và ý đều nhẹ
- Việc và ý đều nặng
8. Luân hồi
Vấn đề mất còn, sống chết là một vấn đề vô cùng quan trọng, từ xưa đến nay đã
làm băn khoăn, thắc mắc không biết bao nhiêu người, đã làm hao tổn không biết
bao nhiêu giấy mực. Nhưng, có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều nhất:
Một thuyết cho rằng, loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không
còn gì tồn tại sau đó nữa: "Cát bụi, con người trở về với cát bụi"
Một thuyết chủ trương trái lại: loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn
còn lại, để lên thiên đàng, thọ hưởng mãi mãi những sự khoái lạc, an vui, hay
xuống địa ngục chịu cực hình mãi mãi. Hai thyết trên nầy đều không đúng với sự
thật:
Chết rồi, không thể là hoàn toàn mất hẳn được, vì như chúng ta ở đời nầy, không
có vật gì là mất hẳn. Cho đến một hạt cát, một mảy lông cũng không thể mất hẳn,
huống là cái thân hay biết nơi con người.
Nhưng bảo rằng linh hồn thường còn, ở mãi trên thiên đàng hay dưới địa ngục
cũng không đúng. Sự nhận xét thông thường cũng đủ cho người ta nhận thấy rằng:
trong vũ trụ không có một cái gì có thể vĩnh viễn ở yên một chỗ, mà trái lại, luôn
luôn biến đổi và xê dịch. Vả lại, có gì bất công hơn là chỉ vì những cái nhân đã
gieo trong một đời hiện tại ngắn ngũi, mà phải chịu cái quả vĩnh viễn tốt hay xấu
trong tương lai?
Hai thuyết "chấp đoạn"và "chấp thường" trên nầy đều bị đạo Phật bác bỏ. Theo
giáo lý đạo Phật thì chúng sanh không phải đoạn diệt, cũng không phải thường còn,
mà là quay lộn trong cảnh sanh tử Luân hồi.
Luân hồi dịch ở chữ Samsera trong tiếng Phạn. Theo chữ Hán thì Luân là bánh xe;
Hồi là xoay tròn. Hình ảnh bánh xe quay tròn là một hình ảnh rất rõ ràng mà Phật
đã dùng để hình dung sự xoay chuyển, lên xuống, xuất hiện của mỗi chúng sanh
trong sáu cõi (lục đạo) khi đầu thay ở cõi nầy, khi ở cõi khác, luôn luôn tiếp nối tử
sanh, sanh tử không ngừng, như bánh xe lăn. Luân hồi là một thuyết có thể chứng
nghiệm được, chứ không phải hoang đường.
Khi chúng ta đã công nhận luật nhân quả, thì chúng ta cũng không thể từ chối,
không công nhận sự Luân hồi, vì Luân hồi chẳng qua là nhân quả liên tục, nhưng
vì nó khi biến, khi hiện, khi lên, khi xuống, khi mất, khi còn, khi thay hình đổi
dạng, nên chúng ta tưởng như gián đoạn và không ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau đó
thôi.
Trong vũ trụ tất cả sự vật, từ vật nhỏ như hạt bụi, đến lớn như quả địa cầu, không
vật nào chẳng Luân hồi.
Thân người, hay thân thú vật cũng thế, xét cho cùng thì cũng do tứ đại mà có là
đất, nước, gió, lửa. Những chất cứng dẽo như da thịt gân xương là thuộc về Ðất;
những chất đượm ướt như máu, mỡ, mồ hôi, nước mắt, là thuộc về Nước; hơi thở
ra vào, trái tim nhảy, phổi hô hấp, tay chân cử động là thuộc về Gió; hơi nóng trong
người là thuộc về Lửa.
Như trên chúng ta đã thấy, tứ đại đều Luân hồi, thì thân người do tứ đại mà có,
cũng phải Luân hồi theo. Khi thân nầy chết và đến lúc tan rã, thì chất cứng dẽo trả
về cho Ðất; chất đượm ướt trả về cho nước; hơi nóng trả về cho Lửa; hơi thở và sự
cử động trả về cho Gió.
Rồi bốn chất nầy tùy theo duyên chung hợp lại, làm thành cây cỏ hay thân người
khác. Người khác đến khi chết rồi, bốn chất đó trở về bản thể cũ của chúng. Khi
thành thân người, lúc làm thân súc, năm nay tụ hợp ở đây, sang năm đã dời đi nơi
khác, không phải thường còn, cũng không phải mất hẳn, mà là Luân hồi.
Con người không phải chỉ gồm có tứ đại. Ngoài tứ đại, còn có phần tâm lý nữa,
hay nói một cách tổng quát hơn, còn có tinh thần. Ðó là gồm tất cả những thứ mà
đạo Phật gọi là: Thọ, tưởng, hành, Thức.
Phần thể xác gồm tứ đại chỉ là phần mà đạo Phật gọi là Sắc. Sắc đã không tiêu diệt
mà chỉ biến hóa Luân hồi, thì Tâm hay Tinh thần, cũng không tiêu diệt mà chỉ biến
chuyển xoay vần mà thôi. Tất cả những hành động của thân tâm tạo thành cho mỗi
chúng ta một cái nghiệp.
Cái nghiệp ấy biến dịch, xoay vần mãi, khi đội lớp nầy khi mang hình dáng khác,
khi rời cảnh giới nầy, khi vào cảnh giới khác, quanh lộn trôi lăn trong lục đạo (sáu
đường) mãi mãi cho đến ngày nào được giác ngộ mới thôi.
Nhưng sự lên xuống, trôi lăn, xoay vần của nghiệp trong ba cõi sáu đường ấy,
không phải tình cờ, ngẫu nhiên, may rủi, vô lý, mà trái lại, nó theo một cái định
luật chung, đó là luật Nhân quả. Ðến đây, chúng ta thấy được sự tương quan mật
thiết giữa nhân quả và Luân hồi.
Ðã có Nhân quả, tức phải có Luân hồi (trừ trường hợp tu nhân giải thoát); đã có
Luân hồi phải tuân theo luật Nhân quả.
Có thể nói một cách chắc chắn rằng, chúng ta lúc sanh tiền tạo nhân gì, thì khi chết
rồi, nghiệp lực dắt dẫn tinh thần đến chỗ nó thọ báo không sai. nếu tạo nhân tốt, thì
Luân hồi đến cảnh giới giàu sanh, thân người tốt đẹp. Còn tạo nhân tội ác, thì Luân
hồi đến cảnh giới nghèo hèn, thân hình xấu xa, tàn tật, sự nghiệp khi thăng khi
giáng, lúc thạnh lúc suy. Sau đây là những cảnh giới mà một chúng sinh có thể bị
hay được nhập vào, tùy theo nghiệp nhân mà mình tạo:
1. Ðịa ngục: Tạo nhân sân hận, độc ác làm nhiều điều tội lỗi vừa hại mình vừa hại
người, phải Luân hồi vào địa ngục, chịu đủ điều khổ sở.
2. Ngạ quỷ: Nhân tạo tham lam, bỏn sẻn, không biết bố thí, giúp đỡ người, từ tiền
của đến giáo pháp. Trái lại, còn mưu sâu, kế độc, để cướp đoạt của người, sau khi
chết, Luân hồi làm ngạ quỷ.
3. Súc sanh: Tạo nhân si mê sa đọa theo thất tình, lục dục, tửu sắc, tài khí, không
xét hay dỡ, tốt xấu, chết rồi, Luân hồi làm súc sanh.
4. A Tu La: gặp việc nhân nghĩa thì làm, gặp việc sai quấy cũng không tránh, vừa
cang trực, mà cũng vừa độc ác. mặc dù có làm những điều phước thiện, nhưng tánh
tình hung hăng nóng nảy vẫn còn, lại thêm tà kiến, si mê, tin theo tà giáo. Tạo nhân
như vậy, kết quả sẽ Luân hồi làm A Tu La, gặp vui sướng cũng có, mà buồn khổ
cũng nhiều.
5. Loài người: Tu nhân Ngũ Giới: Không sát hại, không trộm cướp, không tà dâm,
không dối trá, không rượu trà say sưa, thì đời sau trở lại làm người, cao quý hơn
muôn vật.
6. Cõi trời: Bỏ mười điều ác tu nhơn Thập thiện (bài sau sẽ nói rõ) thì sau khi chết,
được sanh lên cõi trời. Nhưng nên nhớ cõi trời nầy cũng còn ở trong vòng phàm
tục, chịu cảnh sanh tử, Luân hồi.
Muốn thoát ra ngoài cảnh giới sanh tử Luân hồi, và đến bốn cõi Thánh là Thanh
văn, Duyên giác, Bồ Tát, và Phật, thì phải tu nhân giải thoát.
9. Niết bàn
Khát vọng về tự do là một khát vọng cao đẹp của nhân loại. Các học thuyết xã hội
về sự giải phóng con người đều hướng tới một thế giới tự do lý tưởng. Trong Thiên
Chúa giáo, thế giới lý tưởng đó là Thiên đường đầy hoa thơm trái ngọt, chỉ có hạnh
phúc, yêu thương, không thù hận. Trong Nho giáo, xã hội lý tưởng là một xã hội
đại đồng. Đích của giải thoát trong Phật giáo là Niết bàn.
Niết bàn, theo tiếng Sanscrit là Nirvana, tiếng Pali là Nibhana. Học giả Đoàn Trung
Còn giải thích: Niết bàn là “cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự
biết rằng mình chẳng còn luyến ái”, và theo lối triết tự thì: “Niết (Nir): ra khỏi, Bàn
hay Bànna (Vana): rừng, tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não”. Pháp sư
Huyền Trang triết tự Niết bàn - Nirvana như sau: 1, Nir: ra khỏi, ly khai; vana: con
đường vòng vèo, quanh quẩn, đổi thay. Nirvana là ly khai con đường quanh quẩn,
chuyển dịch (bứt vòng sinh tử luân hồi); 2, Nir: không; vana: hôi tanh, dơ bẩn,
Nirvana là không hôi tanh, dơ bẩn (thanh tịnh, trong sạch); 3, Nir: xa lìa, đào thải;
vana: rừng rậm, Nirvana là xa lìa rừng rậm (đào thải những phiền tạp của đời
sống). Mặc dù các cách hiểu này không đồng nhất song đều có chung một nghĩa
căn bản: Niết bàn là sự đoạn trừ dục vọng, dứt nghiệp báo luân hồi, thanh tịnh
tuyệt đối. Đó là sự ngưng đọng vĩnh cửu của không - thời gian trong cõi tâm linh
sâu thẳm của con người. Như vậy, Niết bàn trong Phật giáo không phải là một cõi
cực lạc có vị trí không - thời gian như thiên đường của Thiên Chúa giáo, mà là một
trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, yên tĩnh, sáng suốt, không vọng động,
diệt ái dục, xoá bỏ vô minh, chấm dứt mọi khổ đau, phiền não.
Khi nói tới vấn đề con người, phần lớn các tôn giáo đều thừa nhận con người có
hai phần: phần xác và phần hồn; phần xác thì tồn tại tạm thời còn phần hồn thì vĩnh
cửu nên sau khi thân xác bị huỷ hoại, linh hồn phải ở nơi nào đó để đầu thai vào
một thân xác mới, tiếp tục cuộc sống mới. Duy nhất có một tôn giáo - triết học
Phật giáo không thừa nhận có linh hồn bất tử, bởi thế cũng không cần có một
không gian địa lý cho linh hồn cư ngụ. Đích của giải thoát trong Phật giáo là sự tận
diệt cái cá thể đầy những ham muốn dục vọng với sự u tối của kiếp người để đạt
tới Niết bàn.
Trong giáo lý nguyên thuỷ, Phật đã sử dụng cách định nghĩa độc đáo, đó là đem
đối lập Niết bàn với thế giới thực tại. Nếu thế giới thực tại là khổ thì Niết bàn là
“khổ diệt”, nếu thế giới thực tại là “bờ bên này (bỉ ngạn) thì Niết bàn là “bờ bên
kia” (đáo bỉ ngạn), thế giới thực tại là mê lầm, không sáng suốt (“vô minh”) thì
Niết bàn là sáng suốt (“vô minh diệt”)...
Đôi khi, Phật nói tới Niết bàn như là cái không sinh, không tăng trưởng và không
giới hạn. Trong Kinh Trung bộ, Niết bàn được đồng nhất với chân lý tuyệt đối,
vượt khỏi những ý niệm nhị nguyên, tương đối. Về thực chất, Niết bàn trong Phật
giáo là một khái niệm phi thời gian, phi không gian, vô định về mọi mặt, không có
điểm khởi đầu và cũng không có hồi kết thúc.
Nhìn chung, Phật giáo thường đề cập tới hai hình thức cơ bản của Niết Bàn: Hữu
dư Niết bàn và Vô dư Niết bàn. Hữu dư Niết bàn là Niết bàn tương đối, Niết bàn
tại thế: nghĩa là, Niết bàn đạt được khi thể xác vẫn còn tồn tại nhưng tâm đã thoát
khỏi vòng luân hồi bất tận. Người đó tuy còn sống nhưng mọi phiền não đã được
diệt, ba nọc độc tham - sân - si đã tiêu trừ. Vô dư Niết bàn là Niết bàn tuyệt đối,
Niết bàn xuất thế hay còn gọi là Đại Niết bàn. Đó là trạng thái đã chứng được La
Hán, hết sạch các phiền não, phạm hạnh đã được thành lập, việc cần làm đã làm
đủ, đã vứt bỏ mọi gánh nặng, đã chứng tự nghĩa, đã khéo giải thoát, đã được biết
khắp. Vô dư Niết bàn chỉ đạt được khi đã chấm dứt sự tồn tại của thân xác. Xét về
mặt bản chất, Hữu dư Niết bàn và Vô dư Niết bàn đều chỉ về trạng thái tâm linh
thanh tịnh tuyệt đối, tự do tự tại của con người. Điểm khác biệt là ở chỗ, Niết bàn
đó đạt được khi thân thể còn sống hay đã chết mà thôi.
KẾT LUẬN
- Xem thêm -