GIÁO TRÌNH
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
PHẦN CÁC TỘI PHẠM
Quyển 1
1
394-2018/CXBIPH/41-188/CAND
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Giáo trình
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
PHẦN CÁC TỘI PHẠM
Quyển 1
(In lần thứ 21 có sửa đổi, bổ sung)
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
HÀ NỘI - 2018
3
Chủ biên
GS.TS. NGUYỄN NGỌC HOÀ
Tập thể tác giả
GS.TS. NGUYỄN NGỌC HOÀ
Chương II, Chương IV
ThS. PHẠM BÍCH HỌC
Chương V
PGS.TS. DƯƠNG TUYẾT MIÊN
Chương VI
GS.TS. LÊ THỊ SƠN
Chương I
PGS.TS. TRƯƠNG QUANG VINH
Chương III, Chương VII
4
LỜI NÓI ĐẦU
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (toàn tập) được biên soạn
lần đầu năm 2000 trên cơ sở kế thừa, phát triển các giáo trình
luật hình sự của Nhà trường được ấn hành từ năm 1992 do
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hoà làm chủ biên. Giáo trình này đã được
in lại nhiều lần.
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 được Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá XIII, kì họp thứ 10
thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, được sửa đổi, bổ sung
năm 2017 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018.
Trước tình hình đó, tập thể tác giả đã tổng rà soát lại toàn
bộ Giáo trình về nội dung khoa học cũng như về hình thức thể
hiện. Trên cơ sở rà soát này, các tác giả đã chỉnh lí, bổ sung và
hoàn thiện Giáo trình luật hình sự Việt Nam cho phù hợp với
nội dung của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2017, kịp thời phục vụ nhu cầu học tập,
nghiên cứu, giảng dạy của giảng viên, sinh viên và các đối
tượng khác.
Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật
Hà Nội được tái bản có chỉnh lí lần này gồm 3 quyển: Quyển 1
về Phần chung; Quyển 2 và Quyển 3 về Phần các tội phạm.
Các chương của Giáo trình về cơ bản vẫn giữ kết cấu như các
lần in trước đây, cụ thể:
5
- Về nội dung, ở các chương về phần chung, Giáo trình
được kết cấu theo các vấn đề và ở các chương về phần các tội
phạm, giáo trình được kết cấu theo nhóm các tội phạm (các
chương trong Phần các tội phạm của BLHS).
- Về sự giải thích, Giáo trình đảm bảo kết hợp giữa tính
khoa học với tính có căn cứ theo luật định. Tuy nhiên, với yêu
cầu của chương trình đào tạo luật ở bậc đại học, sự giải thích
trong Giáo trình cũng có mức độ nhất định; mặt khác, nhiều
vấn đề trong Bộ luật cần phải được sự giải thích chính thức
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Về cách trình bày, các tác giả lưu ý bạn đọc về các định
nghĩa khái niệm dưới hình thức in nghiêng. Các chữ viết tắt,
các thuật ngữ được sử dụng thống nhất ở tất cả các chương,
mục của Giáo trình.
Với sự tham gia biên soạn của các giảng viên có kinh
nghiệm, hi vọng rằng Giáo trình này sẽ đáp ứng được sự
mong đợi của bạn đọc. Trường Đại học Luật Hà Nội xin
trân trọng giới thiệu Giáo trình luật hình sự Việt Nam và rất
mong nhận được những ý kiến góp ý, phê bình của bạn đọc
để Giáo trình này ngày càng hoàn thiện.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
6
7
BẢNG TỪ VIẾT TẮT
8
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CAND
Công an nhân dân
CTTP
Cấu thành tội phạm
QHNQ
Quan hệ nhân quả
TANDTC
Toà án nhân dân tối cao
TNHS
Trách nhiệm hình sự
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
CHƯƠNG I
CÁC TỘI XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA
A. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
AN NINH QUỐC GIA
I. CÁC TỘI XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA - KHÁI
NIỆM VÀ CHÍNH SÁCH XỬ LÍ
1. Khái niệm các tội xâm phạm an ninh quốc gia
Các tội xâm phạm an ninh quốc gia là nhóm tội phạm được
quy định tại chương đầu tiên trong Phần các tội phạm của
BLHS. Nhóm tội phạm này có tính chất nguy hiểm cho xã hội
rất đặc biệt vì có khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội
giữ vị trí quan trọng, có tính quyết định trong hệ thống các
quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Đó là an
ninh quốc gia. Đảm bảo an ninh quốc gia là điều kiện cần thiết
cho sự đảm bảo các quan hệ xã hội khác. Trong đó, an ninh
quốc gia được hiểu “là sự ổn định, phát triển bền vững của
chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”.(1)
(1). Điều 3 Luật an ninh quốc gia.
9
Như vậy, các tội xâm phạm an ninh quốc gia là những
hành vi cố ý xâm hại sự ổn định, phát triển bền vững của chế
độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, xâm hại sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.
An ninh quốc gia là tổng thể các an ninh trên các lĩnh vực
khác nhau như an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư
tưởng - văn hoá, an ninh xã hội, an ninh quốc phòng, an ninh
đối ngoại v.v.. Trong đó, an ninh chính trị là trung tâm, giữ vai
trò quyết định của an ninh quốc gia. Trong các tội xâm phạm
an ninh quốc gia có tội có thể xâm phạm an ninh quốc gia
trong tổng thể nhưng cũng có tội chỉ có thể xâm phạm an ninh
quốc gia thuộc lĩnh vực cụ thể nhất định. Tuy nhiên, tội xâm
phạm an ninh quốc gia thuộc lĩnh vực chính trị cũng được coi
là xâm phạm an ninh quốc gia trong tổng thể do ý nghĩa quyết
định của lĩnh vực an ninh này.
Căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam và quốc tế; dựa
trên kinh nghiệm đấu tranh chống các hoạt động xâm phạm an
ninh quốc gia cũng như kinh nghiệm lập pháp hình sự trong
lĩnh vực này, BLHS (năm 2015) đã quy định từ Điều 108 đến
Điều 121 mười bốn tội danh khác nhau thuộc chương Các tội
xâm phạm an ninh quốc gia. Đó là các tội danh sau:
- Tội phản bội Tổ quốc (Điều 108);
- Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân
(Điều 109);
- Tội gián điệp (Điều 110);
- Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ (Điều 111);
10
- Tội bạo loạn (Điều 112);
- Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân (Điều 113);
- Tội phá hoại cơ sở vật chất - kĩ thuật của nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam (Điều 114);
- Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã
hội (Điều 115);
- Tội phá hoại chính sách đoàn kết (Điều 116);
- Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài
liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt
Nam (Điều 117);
- Tội phá rối an ninh (Điều 118);
- Tội chống phá cơ sở giam giữ (Điều 119);
- Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước
ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền
nhân dân (Điều 120);
- Tội trốn đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm
chống chính quyền nhân dân (Điều 121).
Các tội phạm nói trên có chung một số đặc điểm sau:
- Các tội xâm phạm an ninh quốc gia đều xâm phạm một
hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau của an ninh quốc gia. Các quan
hệ xã hội bị các tội xâm phạm an ninh quốc gia xâm phạm đều
thuộc nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất. Đó là nhóm quan
hệ xã hội về an ninh quốc gia với nội dung cụ thể đã được định
nghĩa trong Luật an ninh quốc gia.
- Lỗi của người phạm tội của các tội xâm phạm an ninh
quốc gia đều là lỗi cố ý.
11
- Mục đích của người phạm tội của các tội xâm phạm an
ninh quốc gia đều hướng tới mục đích chung là chống Nhà
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, chống chính quyền các cấp
của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
Trong các đặc điểm chung nói trên của các tội xâm phạm
an ninh quốc gia, đặc điểm chung về mục đích phạm tội là đặc
điểm để phân biệt giữa một số tội xâm phạm an ninh quốc gia
với các tội phạm thuộc các chương khác của BLHS có những
đặc điểm khác tương tự như ở các tội xâm phạm an ninh quốc
gia. Ví dụ: Giữa tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân
dân (Điều 113 BLHS) với tội khủng bố (Điều 299 BLHS);
giữa tội phá rối an ninh (Điều 118 BLHS) với tội gây rối trật
tự công cộng (Điều 318 BLHS); giữa tội chống phá cơ sở giam
giữ (Điều 119 BLHS) với tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm
giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án
phạt tù (Điều 387 BLHS)...
Bên cạnh các đặc điểm chung như vậy, giữa các tội xâm
phạm an ninh quốc gia còn có những điểm khác nhau về quan
hệ xã hội cụ thể bị trực tiếp xâm phạm và chủ thể của tội
phạm. Cụ thể: Về khách thể trực tiếp, có tội xâm phạm an ninh
quốc gia trong tổng thể như tội phản bội Tổ quốc, có tội chỉ
xâm phạm đến an ninh quốc gia thuộc lĩnh vực cụ thể như tội
xâm phạm an ninh lãnh thổ; về chủ thể của tội phạm, có tội
phạm chỉ có thể do người Việt Nam thực hiện như tội trốn đi
nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính
quyền nhân dân, có tội có thể do cả người nước ngoài và cả
người Việt Nam thực hiện như tội gián điệp v.v.. Trong nội
dung trình bày về dấu hiệu pháp lý của các tội cụ thể, dấu hiệu
12
chủ thể của tội phạm chỉ được trình bày khi chủ thể của tội
phạm có dấu hiệu đặc biệt.
Từ sự khác nhau giữa các tội xâm phạm an ninh quốc gia
có thể phân loại chương tội phạm này thành các nhóm khác
nhau theo tiêu chí chủ thể của tội phạm hoặc theo tiêu chí
phạm vi quan hệ xã hội bị trực tiếp xâm phạm. Theo tiêu chí
chủ thể của tội phạm có thể phân các tội xâm phạm an ninh
quốc gia thành ba nhóm: Nhóm tội phạm có thể do bất cứ ai
thực hiện không phụ thuộc vào quốc tịch, nhóm tội phạm chỉ
có thể do người có quốc tịch Việt Nam thực hiện và nhóm tội
phạm chỉ có thể do người không có quốc tịch Việt Nam thực
hiện. Theo tiêu chí phạm vi quan hệ xã hội bị trực tiếp xâm
phạm có thể phân các tội xâm phạm an ninh quốc gia thành
hai nhóm: Nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia trong
tổng thể (có tính nguy hại tổng thể) và nhóm các tội xâm
phạm an ninh quốc gia thuộc từng lĩnh vực (có tính nguy hại
cho từng lĩnh vực). Thuộc nhóm thứ nhất có 3 tội danh là tội
phản bội Tổ quốc, tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền
nhân dân và tội gián điệp. Trong đó, tội phản bội Tổ quốc và
tội gián điệp có phạm vi xâm phạm an ninh quốc gia ở diện
rộng có tính tổng thể còn tội hoạt động nhằm lật đổ chính
quyền nhân dân tuy chỉ xâm phạm một lĩnh vực an ninh
nhưng là lĩnh vực chính trị nên cũng bị coi là xâm phạm an
ninh quốc gia có tính tổng thể. Thuộc nhóm thứ hai là các tội
danh còn lại. Các tội phạm này xâm phạm an ninh quốc gia
thuộc các lĩnh vực khác nhau: An ninh lãnh thổ, an ninh trật
13
tự, an ninh kinh tế-xã hội, an ninh tư tưởng.(1)
2. Chính sách xử lí các tội xâm phạm an ninh quốc gia
Điều 12 Luật an ninh quốc gia đã xác định rõ chính sách
xử lí các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia. Theo đó, việc xử
lí các hành vi này cần tuân thủ các nguyên tắc xử lí được áp
dụng chung cho tất cả các tội phạm sau:
- Nguyên tắc xử lí kịp thời và nghiêm minh;
- Nguyên tắc xử lí nghiêm trị kết hợp với khoan hồng.
Theo nguyên tắc thứ nhất, tất cả các tội xâm phạm an ninh
quốc gia đều phải được xử lí kịp thời. Tuân thủ nguyên tắc này
là điều kiện cần thiết đảm bảo tính hiệu quả của đấu tranh
chống các tội xâm phạm an ninh quốc gia, phát huy được tối
đa tác dụng phòng ngừa của các biện pháp xử lí. Khi thực hiện
việc xử lí kịp thời vẫn phải đảm bảo tính nghiêm minh. Theo
đó, các tội xâm phạm an ninh quốc gia tuy là loại tội có tính
chất nguy hiểm cho xã hội rất đặc biệt nhưng việc xử lí về hình
sự các tội phạm này vẫn đòi hỏi phải tuân thủ tuyệt đối và đầy
đủ các quy định của pháp luật Việt Nam, trước hết là luật tố
tụng hình sự và luật hình sự cũng như pháp luật quốc tế. Việc
xử lí về hình sự các tội xâm phạm an ninh quốc gia đòi hỏi
phải có sự rõ ràng, công khai, đảm bảo tính bình đẳng trước
pháp luật của tất cả những người phạm tội, không có sự phân
biệt đối xử giữa công dân Việt Nam và công dân nước ngoài;
(1). Trong Giáo trình luật hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản
trước lần xuất bản thứ 18, các tội xâm phạm an ninh quốc gia được phân thành
2 nhóm: Nhóm các tội trực tiếp uy hiếp sự tồn tại của chính quyền nhân dân
(Điều 78 và Điều 79 BLHS năm 1999) và nhóm các tội trực tiếp uy hiếp sự
vững mạnh của chính quyền nhân dân (các điều còn lại).
14
giữa những người có đặc điểm nhân thân khác nhau v.v..
Theo nguyên tắc thứ hai, việc xử lí về hình sự các tội xâm
phạm an ninh quốc gia cần có sự phân hoá cao về TNHS theo
hướng nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, người
ngoan cố chống đối đồng thời cũng khoan hồng đối với người
bị ép buộc, bị lừa gạt, bị lôi kéo mà phạm tội nhưng đã tự thú,
thành khẩn khai báo. Thể hiện nguyên tắc này, trong các điều
luật cụ thể quy định về các tội xâm phạm an ninh quốc gia đều
có ít nhất hai khung hình phạt khác nhau. Trong đó có nhiều
điều luật xác định rõ hai loại khung hình phạt cho trường hợp
nghiêm trị và cho trường hợp khoan hồng. Ngoài ra, Điều 110
BLHS còn cụ thể hoá nguyên tắc khoan hồng qua việc quy
định về trường hợp được miễn TNHS đối với người phạm tội
gián điệp. Đây là một trong số ít các điều luật thuộc Phần các
tội phạm đã cụ thể hoá điểm c khoản 2 Điều 29 BLHS là điều
quy định về căn cứ miễn TNHS nói chung.(1)
Nguyên tắc thứ hai này không chỉ được thể hiện trong sự
phân hoá TNHS trong BLHS mà còn đòi hỏi phải được thể
hiện trong sự cá thể hoá TNHS trong áp dụng luật.
Từ nguyên tắc xử lí chung như trên, BLHS Việt Nam quy
định hình phạt có thể được áp dụng cho người phạm tội xâm
(1). Khoản 2 Điều 29 BLHS quy định: “Người phạm tội có thể được miễn TNHS
khi có một trong các căn cứ sau đây: a)..; b)..; c) Trước khi hành vi phạm tội bị
phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc
phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của
tội phạm và lập công lớn …”
Khoản 4 Điều 110 BLHS quy định: “Người đã nhận làm gián điệp, nhưng
không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thì được miễn TNHS về tội phạm này”.
15
phạm an ninh quốc gia như sau:
- Hình phạt chính có thể được áp dụng là hình phạt tù có
thời hạn, hình phạt tù chung thân hoặc hình phạt tử hình.
- Hình phạt bổ sung có thể được áp dụng là hình phạt tước
một số quyền công dân, hình phạt quản chế, hình phạt cấm cư
trú, hình phạt tịch thu tài sản.
II. SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ THAY ĐỔI
CỦA KHÁI NIỆM “CÁC TỘI XÂM PHẠM AN NINH
QUỐC GIA”
Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, BLHS Việt Nam
năm 1985 là văn bản quy phạm pháp luật hình sự đầu tiên sử
dụng khái niệm “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”. Tuy
nhiên, khái niệm này được sử dụng khi đó với nghĩa rộng hơn
so với hiện nay. Theo BLHS năm 1985, các tội xâm phạm an
ninh quốc gia gồm hai nhóm tội phạm: Nhóm các tội đặc biệt
nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia và nhóm các tội phạm
khác xâm phạm an ninh quốc gia. Hai nhóm tội phạm này khác
nhau trước hết ở mục đích phạm tội. Nhóm tội phạm thứ nhất
có mục đích chống Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và
nhóm tội phạm thứ hai không có mục đích phạm tội này.
Nhóm tội thứ nhất gồm: Tội phản bội Tổ quốc; Tội hoạt động
nhằm lật đổ chính quyền nhân dân; Tội gián điệp; Tội xâm
phạm an ninh lãnh thổ; Tội bạo loạn; Tội hoạt động phỉ; Tội
khủng bố; Tội phá hoại cơ sở vật chất-kĩ thuật của CNXH; Tội
phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế-xã hội; Tội phá
hoại chính sách đoàn kết; Tội tuyên truyền chống chế độ
XHCN; Tội phá rối an ninh; Tội chống phá trại giam; Tội trốn
16
đi nước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính
quyền nhân dân. Nhóm tội thứ hai gồm: Tội chiếm đoạt máy
bay, tàu thủy; Tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước
ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài trái phép; Tội xuất, nhập cảnh
trái phép hoặc ở lại nước ngoài trái phép; Tội vi phạm các quy
định về hàng không; Tội vi phạm các quy định về hàng hải;
Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước, tội chiếm đoạt, mua bán hoặc
tiêu huỷ tài liệu bí mật nhà nước; Tội vô ý làm lộ bí mật nhà
nước, tội làm mất tài liệu bí mật nhà nước; Tội phá huỷ các
công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; Tội
chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vũ khí quân dụng, phương tiện kĩ thuật quân sự; Tội chế tạo,
tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt các chất
nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ; Tội buôn lậu hoặc vận
chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới; Tội làm tiền
giả, tội tàng trữ, lưu hành tiền giả, tội phá hủy tiền tệ; Tội
truyền bá văn hoá đồi trụy.
Trong BLHS năm 1999, khái niệm “Các tội xâm phạm an
ninh quốc gia” được sử dụng theo nghĩa như hiện nay và tương
ứng với khái niệm “Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an
ninh quốc gia” đã được sử dụng trong BLHS năm 1985. Kể từ
đây, khái niệm “Các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh
quốc gia” và khái niệm “Các tội khác xâm phạm an ninh quốc
gia” không còn được sử dụng. Các tội danh cụ thể thuộc “Các
tội phạm khác xâm phạm an ninh quốc gia” đã được đưa về
các chương tội phạm tương ứng. Ví dụ: Tội chiếm đoạt máy
bay, tàu thuỷ; Tội phá hủy các công trình, phương tiện quan
17
trọng về an ninh quốc gia được đưa về chương Các tội xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng; Tội buôn lậu hoặc
vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới được đưa
về chương Các tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế; v.v..(1)
Trong BLHS năm 2015, khái niệm “Các tội xâm phạm an
ninh quốc gia” được sử dụng theo nghĩa như đã được sử dụng
trong BLHS năm 1999.
Trước khi có khái niệm “Các tội xâm phạm an ninh quốc
gia”, luật hình sự Việt Nam sử dụng khái niệm “Các tội phản
cách mạng” để chỉ nhóm tội phạm mà hiện nay gọi là “Các tội
xâm phạm an ninh quốc gia”. Khái niệm “Các tội phản cách
mạng” được sử dụng chính thức lần đầu trong Pháp lệnh trừng
trị các tội phản cách mạng năm 1967. Theo Pháp lệnh này, các
tội phản cách mạng bao gồm: Tội phản quốc; Tội âm mưu lật
đổ chính quyền dân chủ nhân dân; Tội gián điệp; Tội xâm
phạm an ninh lãnh thổ; Tội bạo loạn; Tội hoạt động phỉ; Tội
trốn theo địch hoặc vì mục đích phản cách mạng mà trốn ra
nước ngoài; Tội giết người, gây thương tích, bắt giữ người,
doạ giết người vì mục đích phản cách mạng; Tội phá hoại; Tội
phá hoại khối đoàn kết toàn dân; Tội chống lại hoặc phá hoại
việc thực hiện các chính sách và pháp luật của Nhà nước; Tội
phá rối trật tự, an ninh; Tội tuyên truyền phản cách mạng; Tội
phá trại giam, đánh cướp can phạm, tổ chức vượt trại giam,
trốn tù; Tội che giấu phần tử phản cách mạng.
Khái niệm “Tội phản cách mạng” cũng được sử dụng trong
(1).Xem: Mục B Chương I Phần các tội phạm BLHS năm 1985 và so sánh với
Phần các tội phạm của các BLHS năm 1999, 2015.
18
văn bản quy phạm pháp luật hình sự của Chính phủ cách mạng
lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam là Sắc luật số 03-SL/76
năm 1976. Điều 3 của Sắc luật này xác định tội phản cách
mạng bao gồm: Tội phản quốc; Tội âm mưu lật đổ chánh
quyền; Tội gián điệp; Tội vì mục đích phản cách mạng mà
phá hoại khối đoàn kết và thống nhất dân tộc, phá hoại quốc
phòng, phá hoại trật tự an ninh, phá hoại kinh tế, tài chánh,
văn hoá và xã hội; Tội cố ý tuyên truyền, xuyên tạc nhằm
lung lạc tinh thần, gây hoang mang rối loạn, chống chánh
quyền cách mạng, phá hoại chế độ; Tội biết rõ là phần tử
phản cách mạng mà che giấu.
Tóm lại, khái niệm “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia”
có quá trình bắt đầu từ khái niệm “Các tội phản cách mạng”
(năm 1967), tiếp đến được thay thế bằng khái niệm “Các tội
đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia” (năm 1985)
và từ năm 1999, khái niệm “Các tội xâm phạm an ninh quốc
gia” đã được thống nhất sử dụng trong luật hình sự Việt Nam.
B. CÁC TỘI PHẠM CỤ THỂ
I. CÁC TỘI XÂM PHẠM AN NINH QUỐC GIA CÓ
TÍNH NGUY HẠI TỔNG THỂ
1. Tội phản bội Tổ quốc (Điều 108 BLHS)
Tội phản bội Tổ quốc được quy định là hành vi của “ công
dân Việt Nam câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, lực lượng quốc phòng, chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiềm lực quốc
phòng, an ninh”.
19
a. Dấu hiệu pháp lí
* Dấu hiệu chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phản bội Tổ quốc được quy định là công
dân Việt Nam - người có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt
là đang cư trú tại Việt Nam hoặc đang định cư ở nước ngoài.
* Dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm
CTTP của tội phản bội Tổ quốc đòi hỏi chủ thể có hành vi
câu kết với nước ngoài. Theo Từ điển tiếng Việt, câu kết được
hiểu là sự “hợp thành phe cánh để cùng thực hiện âm mưu xấu
xa”.(1) Từ đó, có thể hiểu câu kết với nước ngoài là hành vi
liên kết, hợp sức với nước ngoài, có thể là cá nhân hay nhóm
người không phải là công dân Việt Nam hay có thể là một tổ
chức nước ngoài hay cũng có thể là nước ngoài với tính chất là
một nhà nước. Sự câu kết giữa người phạm tội với nước ngoài
có thể được thể hiện qua các hành vi cụ thể như: Cùng bàn bạc
về ý đồ và kế hoạch gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, cho lực lượng
quốc phòng, chế độ XHCN và Nhà nước Cộng hoà XHCN
Việt Nam, tiềm lực quốc phòng, an ninh hoặc cùng bàn bạc,
thống nhất về sự tài trợ của nước ngoài cho người phạm tội
trong việc chuẩn bị, trong việc thực hiện kế hoạch gây nguy
hại nói trên; v.v.. Sự câu kết cũng có thể được thể hiện qua
chính hành vi nhận sự tài trợ nói trên trên thực tế như nhận tài
trợ tài chính, nhận tài trợ vũ khí, phương tiện kĩ thuật v.v..
* Dấu hiệu mặt chủ quan của tội phạm
(1). Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr. 121.
20
- Xem thêm -