GIÁO TRÌNH
XÃ HỘI HỌC
PHÁP LUẬT
1
Giáo trình này đã được Hội đồng nghiệm thu giáo trình
Trường Đại học Luật Hà Nội (thành lập theo Quyết định số
1200/QĐ-ĐHLHN ngày 11 tháng 4 năm 2017 của Hiệu trưởng
Trường Đại học Luật Hà Nội) đồng ý thông qua ngày 26 tháng 5
năm 2017 và được Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội
cho phép xuất bản theo Quyết định số 1191/QĐ-ĐHLHN ngày 30
tháng 3 năm 2018.
MÃ SỐ: TPG/K - 18 - 03
1064-2018/CXBIPH/01-71/TP
2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH
XÃ HỘI HỌC
PHÁP LUẬT
NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP
HÀ NỘI - 2018
3
Chủ biên
TS. NGỌ VĂN NHÂN
Tập thể tác giả
1. TS. NGỌ VĂN NHÂN
Chương 2, 4, 5 và 7
2. TS. PHAN THỊ LUYỆN
Chương 1, 3 và 6
4
LỜI GIỚI THIỆU
Xã hội học pháp luật là ngành xã hội học chuyên
biệt nghiên cứu các quy luật xã hội, các quá trình xã
hội của sự phát sinh, tồn tại, hoạt động của pháp luật
trong xã hội, trong mối liên hệ với cơ cấu xã hội, với
các loại chuẩn mực xã hội khác; nguồn gốc, bản chất
xã hội, các chức năng xã hội của pháp luật; các khía
cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật, thực
hiện pháp luật; các sự kiện, hiện tượng pháp lí thể
hiện trong hoạt động của các chủ thể pháp luật.
Xã hội học pháp luật là một lĩnh vực khoa học lí
thú, bổ ích, nhưng còn khá mới ở nước ta; được chú
trọng tìm hiểu, nghiên cứu trong khoảng vài chục năm
trở lại đây với những công trình, bài viết phản ánh
những mặt, khía cạnh khác nhau của khoa học này,
đăng rải rác trên các sách, báo, tạp chí khoa học.
Ngoài số lượng ít các sách, tài liệu dịch từ tiếng nước
ngoài, hiện có rất ít cuốn sách chuyên về xã hội học
pháp luật được biên soạn một cách công phu, nghiêm
túc và có hệ thống bởi các tác giả trong nước.
Ở nước ta hiện nay, công cuộc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu
học tập, nghiên cứu xã hội học pháp luật cũng như
ứng dụng của nó vào việc giải quyết những vấn đề lí
luận và thực tiễn mà đời sống pháp luật đang đặt ra.
Xã hội học pháp luật đã trở thành môn học quan trọng
trong chương trình đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ tại
5
các cơ sở đào tạo chuyên ngành về xã hội học và luật
học ở nước ngoài cũng như ở trong nước.
Đối với Trường Đại học Luật Hà Nội, Xã hội học
pháp luật là môn học bắt buộc trong chương trình đào
tạo cử nhân chuyên ngành Luật học; bởi vậy, nhu cầu
về tài liệu học tập, nghiên cứu xã hội học pháp luật trở
nên cấp thiết. Với mục đích cung cấp tài liệu học tập
cho sinh viên cũng như bạn đọc có nhu cầu tìm hiểu
môn khoa học này, Trường Đại học Luật Hà Nội tổ
chức biên soạn, nghiệm thu, phối hợp xuất bản cuốn
Giáo trình Xã hội học pháp luật nhằm đáp ứng phần
nào nhu cầu nói trên. Bên cạnh việc kế thừa, tiếp thu
các thành tựu, kết quả nghiên cứu xã hội học pháp
luật trên thế giới, các tác giả cố gắng đặt các vấn đề
nghiên cứu của khoa học này trong sự liên hệ với thực
tiễn đời sống pháp luật của Việt Nam. Các tác giả hi
vọng rằng, cuốn giáo trình sẽ là tài liệu hữu ích, cần
thiết cho việc học tập, nghiên cứu xã hội học pháp luật
của sinh viên và bạn đọc dành sự quan tâm, tìm hiểu
môn khoa học này.
Vì được biên soạn lần đầu nên cuốn giáo trình khó
tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định. Các tác
giả mong được bạn đọc góp ý, phê bình để có thể sửa
chữa, bổ sung, hoàn chỉnh hơn cho lần xuất bản sau.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
Hà Nội, tháng 7 năm 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
6
Chương 1
NHẬP MÔN XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
I. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN CỦA XÃ HỘI HỌC PHÁP LUẬT
1. Điều kiện xuất hiện xã hội học pháp luật
Vào cuối thế kỉ XVIII, ở Tây Âu biến đổi xã hội diễn ra
mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực khoa học, kinh tế, chính trị, xã
hội... Khoa học tự nhiên đạt được những thành tựu lớn trong
việc khám phá ra cấu trúc, thành phần của thế giới vật chất và
phát triển các phương pháp nghiên cứu thế giới vật chất một
cách hệ thống. Điều đó đã tác động đến các ngành khoa học xã
hội. Phát minh của nhà vật lí học Newton khiến các nhà khoa
học xã hội hi vọng sẽ tìm ra được một nguyên lí về một trật tự
cân bằng, những cơ chế về lực hấp dẫn tương tự trong xã hội.
Nhà khai sáng Montesquieu trong cuốn “Tinh thần pháp luật”
đưa ra các thuật ngữ có tính cơ học để lí giải về các hình thức
nhà nước phụ thuộc vào các cơ chế vận hành và xem các hình
thức đó có hoạt động theo đúng bản chất của nó không. Tinh
thần pháp luật của một quốc gia có thể tạo ra một sự phục
hưng và làm cho bộ máy nhà nước hoạt động trở lại để có thể
tiếp tục sự vận động đều đặn. Như vậy, tính chất khách quan
của các quy luật nảy sinh từ bản chất của sự vật.
7
Đồng thời với sự phát triển mạnh của khoa học, những biến
đổi về chính trị ảnh hưởng mạnh mẽ đến xã hội. Cuộc cách
mạng tư sản đã làm thay đổi trật tự xã hội phong kiến đã tồn tại
hàng trăm năm trước đó, thay thế vào đó là một trật tự xã hội
mới. Dưới tác động của tự do hóa thương mại, thị trường mở
rộng, hàng loạt các tập đoàn kinh tế, nhà máy, xí nghiệp ra đời
thu hút lao động từ nông thôn ra các đô thị. Nền sản xuất công
nghiệp với quy mô lớn đòi hỏi mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm và hàng hóa công nghiệp. Quá trình đô thị hóa đẩy mạnh
cùng với sự tích tụ dân cư. Những biến đổi về kinh tế kéo theo
những thay đổi sâu sắc trong đời sống xã hội. Gia đình bị chia
rẽ do các cá nhân rời bỏ cộng đồng ra khu vực đô thị làm việc
và sinh sống. Các giá trị văn hóa truyền thống thay đổi các cá
nhân bị cuốn hút vào các hoạt động kinh tế với lối sống mang
tính cạnh tranh, tình trạng thất nghiệp, tệ nạn xã hội và tội
phạm gia tăng. Sự chuyển hóa cơ cấu kinh tế dựa trên cạnh
tranh tự do thành độc quyền diễn ra nhanh, các quan hệ xã hội
mới hình thành. Trong khi đó, pháp luật lại thay đổi một cách
chậm chạp và vẫn còn phản ánh các quan hệ xã hội cũ không
còn thích hợp để giải quyết các vấn đề xã hội mới nảy sinh.
Sự khủng hoảng bao trùm tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội: kinh tế, chính trị, hệ tư tưởng, văn hóa. Nảy sinh nhu
cầu làm cho cơ chế pháp luật thích nghi với những điều kiện xã
hội mới. Điều này đã tác động mạnh mẽ đến toàn bộ hệ thống
pháp luật cũng như tư duy pháp lí truyền thống. Trường phái
pháp luật thực chứng (legal positivism) hiện thời không thể lí
giải được hết nội dung cũng như chức năng của pháp luật. Bởi
pháp luật không chỉ là hệ thống quy tắc xử sự do nhà nước ban
8
hành hoặc thừa nhận đảm bảo bằng cưỡng chế nhà nước. Điều
đó không có nghĩa là phủ nhận tính quy phạm hình thức của
pháp luật, tuy nhiên, nếu chỉ hiểu pháp luật như vậy sẽ không
phù hợp và khó có câu trả lời chính xác cho nhiều vấn đề hóc
búa đang hình thành trong xã hội như: những mâu thuẫn và
xung đột xuất hiện ngày càng nhiều trong xã hội, về mối quan
hệ giữa nhà nước và xã hội, làm thế nào để bảo đảm pháp chế,
trật tự pháp luật, bằng phương pháp luận hình thức của pháp luật
thực chứng thì khó có thể đưa ra những luận cứ cho sự xuất hiện,
tồn tại và phát triển của nhà nước pháp quyền... Pháp luật theo
quan điểm thực chứng là pháp luật “chết”, “pháp luật trên giấy
tờ”, tách rời khỏi xã hội, trừu tượng khó hiểu, không phản ánh
được nhu cầu, ý nguyện và lợi ích của xã hội và như vậy pháp
luật không thể hiện đúng chức năng vốn có của nó. Pháp luật
phải được xem xét là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan
mà con người có thể quan sát, nhận thức và mô tả được.
Như vậy, sự xuất hiện và phát triển hệ thống kinh tế tư bản
đã làm xáo trộn đời sống kinh tế - xã hội của các giai cấp, tầng
lớp và các nhóm xã hội. Từ đó nảy sinh nhu cầu thực tiễn phải
thiết lập lại trật tự xã hội và nhu cầu nhận thức để giải quyết
những vấn đề pháp lí nảy sinh. Xã hội học pháp luật ra đời vào
cuối thế kỉ XIX đã góp phần giải quyết những vấn đề của thực
tiễn pháp lí và phát triển mạnh vào đầu thế kỉ XX.
Xã hội học pháp luật là lĩnh vực nghiên cứu giáp ranh liên
ngành giữa xã hội học và luật học. Ngay từ khi ra đời, đã có
những tranh luận về nguồn gốc của xã hội học pháp luật, đó là
môn khoa học pháp lí hay khoa học xã hội học? Có sự tranh
9
luận vì các nghiên cứu về xã hội học pháp luật đầu tiên gắn với
tên tuổi của các nhà luật học như Eugen Ehrlich, Leon Petrazycki,
Roscoe Pound... Tuy nhiên, không thể nghiên cứu xã hội học
pháp luật mà chỉ dựa trên nền tảng tri thức của một lĩnh vực xã
hội học hay luật học vì xã hội học pháp luật nghiên cứu các
khía cạnh xã hội của pháp luật. Pháp luật ở đây được xem xét
là một hiện tượng xã hội, có quá trình phát sinh, tồn tại và phát
triển cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội, chịu sự tác
động của xã hội. Xã hội học pháp luật tiếp cận nghiên cứu
pháp luật trên nền tảng tri thức và phương pháp xã hội học,
trên cơ sở đó phát triển các lí thuyết tổng quát giải thích quá
trình xã hội liên quan đến pháp luật và tiến hành nghiên cứu
thực nghiệm, phân tích mối tương quan giữa các sự kiện, hiện
tượng pháp lí và xã hội. Từ đó tìm ra những nguyên nhân và
tác động của các hiện tượng xã hội khác đến pháp luật. Mặt
khác, pháp luật ra đời là để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội
do đó pháp luật tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Với cách tiếp cận trên, theo quan điểm của chúng tôi, xã hội
học pháp luật được định nghĩa như sau:
Xã hội học pháp luật là ngành xã hội học chuyên biệt
nghiên cứu các quy luật xã hội, các quá trình xã hội của quá
trình phát sinh, tồn tại, hoạt động của pháp luật trong xã hội,
trong mối liên hệ với các loại chuẩn mực xã hội khác, nguồn
gốc, bản chất, các chức năng xã hội của pháp luật; các khía
cạnh xã hội của hoạt động xây dựng pháp luật, thực hiện pháp
luật và các sự kiện, hiện tượng pháp lí thể hiện trong hoạt
động của các chủ thể pháp luật.
10
2. Quan điểm của một số trường phái xã hội học pháp
luật tiêu biểu
2.1. Trường phái Xã hội học pháp luật châu Âu
Mặc dù các nhà nghiên cứu đều khẳng định rằng xã hội học
pháp luật ra đời ở châu Âu vào cuối thế kỉ XIX, nhưng những
tiền đề về tư tưởng cho sự hình thành xã hội học pháp luật
được bắt đầu từ thế kỉ trước.
De La Brède - Montesquieu (1689 - 1755) là nhà tư tưởng
người Pháp. Tác phẩm “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu
xuất bản năm 1748 là cơ sở cho các nghiên cứu xã hội học
pháp luật. Theo ông, các luật lệ phải được xem xét như là các
sự kiện. Từ việc nghiên cứu các sự kiện giúp chúng ta khám
phá ra nguyên nhân của các sự kiện đó. Ông muốn nghiên cứu
hệ thống pháp luật một cách khách quan như sự tồn tại của các
sự kiện xã hội khác. Ông cho rằng “trước khi luật pháp được
cấu thành, đã có những mối tương quan có thể được về công
lí”.1 “Luật, theo nghĩa rộng nhất, là những quan hệ tất yếu từ
trong bản chất của sự vật. Với nghĩa này thì mọi vật đều có
quy luật của nó”.2 Như vậy, trong phạm vi luật pháp cũng có
một định luật giống như định luật chi phối “bản chất của các sự
vật”. Phương pháp thực nghiệm là phương pháp duy nhất đem
lại kết quả chính xác.
Ông nghiên cứu pháp luật trong mối liên hệ với các hiện
1
Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục, Trường Đại học khoa học
xã hội và nhân văn - Khoa Luật, Hà Nội, 1996, tr. 2.
2
Montesquieu, Tinh thần pháp luật, Nxb. Giáo dục, Trường Đại học khoa học
xã hội và nhân văn - Khoa Luật, Hà Nội, 1996, tr. 39.
11
tượng xã hội khác như: chính trị, đạo đức, tôn giáo, phong tục,
tập quán, truyền thống dân tộc, dân số, tiền tệ và ngay cả các
yếu tố vật chất như khí hậu, đất đai… cũng tham gia vào sự hình
thành pháp luật, trong đó chính trị là yếu tố quyết định đến pháp
luật. Ông phân chia xã hội Pháp thành ba tầng lớp: vua chúa,
quý tộc và dân thường, quyền lực nhà nước chia thành hai loại
là chuyên chế và hành chính. Quyền lực hành chính được chia
thành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này được phân
lập, phụ thuộc vào nhau để ảnh hưởng sao cho không một
quyền nào có thể vượt quá hai quyền còn lại và ba quyền này
được giao cho ba cơ quan khác nhau nắm giữ. Đây là quan
điểm cấp tiến vì đã hoàn toàn loại bỏ ba đẳng cấp thời bấy giờ
là tăng lữ, quý tộc và những người dân còn lại được gọi là
đẳng cấp thứ ba, tức là đã loại bỏ tàn tích của chế độ phong
kiến. Ông chỉ ra có ba dạng nhà nước tồn tại dựa trên ba
“nguyên tắc” xã hội là quân chủ (chính quyền được tự do do
một người đứng đầu được thừa kế tức là vua hay nữ hoàng)
dựa trên nguyên tắc danh dự; cộng hòa (chính quyền được tự
do do người đứng đầu được bầu ra lãnh đạo) dựa trên nguyên
tắc đức hạnh; và độc tài (chính quyền bị kiểm soát bởi các nhà
độc tài) dựa trên nỗi sợ hãi. Ông cũng phân tích những luật lệ
nào là cần thiết trong ba loại chính thể để khiến cho quốc gia
bảo tồn được sức mạnh trước các quốc gia khác. Theo ông,
pháp luật là phương tiện hữu hiệu duy trì trật tự xã hội và chế
ước quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, nền dân chủ pháp trị ấy
chỉ mang ý nghĩa tích cực và phát huy tác dụng của nó phải
dựa trên nguyên tắc đạo đức và lòng khoan dung, của tinh thần
trách nhiệm và sự hi sinh quyền lợi riêng tư cho mục đích
12
chung.
Đánh giá về giá trị của tác phẩm Tinh thần pháp luật:
“Aron cho rằng chủ đề của Tinh thần pháp luật là mục đích
chính của xã hội học nó làm cho lịch sử có thể hiểu được...
Aron coi Montesquieu là một nhà xã hội học còn hơn cả Comte
và là một trong những nhà lí luận lớn nhất của bộ môn.
Durkheim nhận xét: trong khi xây dựng xã hội học, những thế
hệ tiếp sau đã không làm gì nhiều hơn ngoài việc đặt tên cho
lĩnh vực nghiên cứu mà Montesquieu đã mở đầu”.1
Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778) sinh tại Geneva, là
nhà nghiên cứu thuộc trào lưu Khai sáng. Tác phẩm “Bàn về
khế ước xã hội” ra đời năm 1762 lí giải về quá trình hình thành
xã hội và nhà nước trên quan điểm của thuyết quyền tự nhiên
và thỏa thuận xã hội.
Theo ông, trật tự xã hội là một thứ quyền thiêng liêng làm
nền tảng cho mọi thứ quyền khác. Trật tự xã hội không phải tự
nhiên mà có, nó được xác lập trên cơ sở các công ước. Công
ước hình thành dựa trên nhu cầu tồn tại của con người. Để bảo
vệ mình trước nguy cơ tha hóa của trạng thái tự nhiên thành
trạng thái không còn luật pháp hay đạo đức, các cá nhân không
còn cách nào khác là kết hợp lại với nhau tạo thành một lực
chung, điều khiển bằng một động cơ chung, khiến cho mọi
người đều hành động một cách hài hòa. “Mỗi người chúng ta
đặt mình và quyền lực của mình dưới sự điều khiển tối cao của
1
Bùi Quang Dũng, Lê Ngọc Hùng, Lịch sử xã hội học, Nxb. Lí luận chính trị,
Hà Nội, 2005, tr. 18.
13
ý chí chung, và chúng ta tiếp nhận mọi thành viên như một bộ
phận không thể tách rời của toàn thể”.1 Trật tự xã hội do các
quyết định của cá nhân tạo ra, cá nhân lại tự đặt mình dưới
quyền của ý chí chung thể hiện trong khế ước.
Trật tự xã hội không thể phục tùng cái gì khác ngoài sự tự
do của con người. Trên cơ sở đó hình thành nên con người
công cộng và đó chính là “Nhà nước”. Các cá nhân riêng lẻ
được gọi là “công dân” khi phục tùng luật pháp. Nhà nước
được tạo ra do sự đoàn kết của các thành viên trong xã hội.
Nhà nước tồn tại thì phải có một lực lượng chung mang tính
cưỡng chế để động viên, xếp đặt cho mỗi bộ phận đều được
thỏa đáng với toàn bộ. Thiên nhiên đã ban cho con người cái
quyền tuyệt đối sử dụng tứ chi, thì công ước xã hội cũng phải
trao cho cơ thể chính trị cái quyền tuyệt đối với các thành viên
của nó. Chính cái quyền tuyệt đối ấy được điều hành bằng ý
chí chung, mang tên quyền lực tối cao. Các cá nhân trao quyền
lực cho chính quyền - những người đại diện cho nguyện vọng
và ý chí chung của quảng đại quần chúng. Tuy chính quyền chỉ
là một phần nhỏ trong dân chúng nhưng là người nắm pháp
luật, họ chính là các quan tòa - những người áp đặt việc thực
hiện ý chí, nguyện vọng chung của nhân dân.
Trong xã hội, pháp luật không những có vai trò quan trọng
đối với việc xác lập quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi người, mà
còn là cơ sở để đo lường sự phải trái trong quan hệ giữa các
thành viên xã hội và giữ cho xã hội trong vòng trật tự. Theo
1
J.J. Rousseau, Bàn về khế ước xã hội, Nxb. Lí luận chính trị, Hà Nội, 2006,
tr. 68.
14
ông, luật bao giờ cũng là tổng quát chung cho mọi người và tất
cả thần dân là một cơ thể, mà trừu tượng hóa các hành động. Ý
chí chung phản ánh lợi ích chung của cộng đồng và chính lợi
ích chung của cộng đồng phải trở thành nền tảng của luật pháp.
Thế nhưng muốn thật sự là ý chí chung thì phải là ý chí
chung từ trong đối tượng và trong bản chất của nó, phải từ tất
cả và ứng dụng cho tất cả. Ý chí chung sẽ mất đi sự đúng đắn
tự nhiên khi nó thiên về một đối tượng riêng lẻ nhất định. Dân
chúng là những người phải tuân theo luật và là những người
làm ra luật. Luật bao gồm ba loại: Luật cơ bản (luật chính trị),
luật dân sự và luật hình sự, ngoài ba loại đó còn một thứ quan
trọng hơn cả là phong tục, tập quán và dư luận xã hội, thứ luật
này không khắc vào bảng đồng, bia đá mà khắc vào lòng dân
tạo nên hiến pháp chân chính của quốc gia.
Rousseau muốn xây dựng một thiết chế chính trị dựa trên
quyết định tự do của các cá nhân đó chính là khế ước xã hội.
Theo ông, cơ thể chính trị có quyền lực tối cao phải là một
“con người tập thể” và “con người tập thể” này có quyền tuyệt
đối đối với các thành viên của nó. Tuy nhiên, quyền lực tối cao
không thể vượt qua giới hạn của công ước tổng quát, tức là
không thể vi phạm những thoả thuận mà con người đã xác lập.
Quyền lực tối cao là thống nhất không thể phân chia. Thống
nhất vì nó là ý chí chung của nhân dân, đại diện và bảo vệ lợi
ích chung của nhân dân. Mặc dù ông phủ nhận quan điểm
của Montesquieu về việc phân chia quyền lực thành các nhánh
độc lập, nhưng Rousseau vẫn chủ trương phân chia chức năng
của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
15
pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó quyền lập pháp luôn
được thực hiện một cách trực tiếp bởi toàn thể nhân dân và
không tách rời khỏi nhân dân.
Karl Marx (1818 - 1883). Khác với các nhà tư tưởng của
trường phái pháp quyền tự nhiên, Marx cho rằng pháp luật ra
đời gắn liền với sự ra đời của nhà nước. Pháp luật không tồn
tại vào thời kì nguyên thủy, vì trong thời kì này trình độ phát
triển kinh tế còn thấp kém, chỉ có các tập quán, tôn giáo và quy
phạm đạo đức là phương tiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Nhưng khi chế độ tư hữu xuất hiện, xã hội phân chia thành giai
cấp, giữa các giai cấp có sự mâu thuẫn gay gắt không điều hòa
được, các chuẩn mực xã hội cũ không còn khả năng duy trì
được trật tự xã hội, cần có một loại chuẩn mực xã hội mới có
tính cưỡng chế mạnh mẽ hơn, thể hiện ý chí giai cấp đó là pháp
luật. Theo Marx, pháp luật là một thành phần của kiến trúc
thượng tầng của xã hội cùng với văn hóa, hệ tư tưởng... và
được quyết định bởi điều kiện vật chất của xã hội. Pháp luật là
những quy tắc phản ánh phương thức sản xuất của xã hội.
Trong các xã hội có giai cấp, pháp luật luôn là công cụ thực
hiện quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền, thể hiện trực
tiếp ý chí của giai cấp thống trị. Luật pháp trong xã hội tư bản
là không công bằng, do bản chất của xã hội là xung đột, vì xã
hội được cấu thành bởi các giai cấp mâu thuẫn, đối lập với
nhau về lợi ích. Xung đột sẽ dẫn đến các cuộc cách mạng, giai
cấp vô sản sẽ đứng lên đấu tranh chiếm giữ tư liệu sản xuất và
thiết lập nền chuyên chính của giai cấp mình và cuối cùng
được thay thế bằng xã hội cộng sản - xã hội không có giai cấp,
pháp luật cũng không còn cần thiết bởi nó là phương tiện của
16
sự áp bức giai cấp và được sinh ra trong một xã hội có giai cấp.
Kế tiếp những nghiên cứu nhằm tìm ra bản chất của pháp
luật bằng cách quy chiếu tới những điều kiện xã hội mà trong
đó nó vận hành, phải kể đến hai nhà xã hội học nổi tiếng đó là
Emile Durkheim và Max Weber.
Emile Durkheim (1858 - 1917) là người khởi xướng xây
dựng lí thuyết chức năng luận trong xã hội học, các công trình
nghiên cứu của ông có ý nghĩa rất lớn về lí thuyết và phương
pháp đối với sự phát triển của xã hội học nói chung và xã hội
học pháp luật nói riêng. Durkheim sống trong thời kì nước
Pháp bị thất bại trong cuộc chiến năm 1870, tiếp đó là cuộc nổi
dậy và bị đàn áp đẫm máu công xã Paris năm 1871. Do đó,
các tác phẩm của ông tập trung vào việc tìm ra quy luật để
thiết lập một trật tự xã hội. Mối quan tâm lớn nhất của
Durkheim là cái gì đã gắn kết các xã hội lại với nhau? Tại sao
chúng lại không tan rã? Theo ông, chính luật pháp có vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy và duy trì sự đoàn kết xã hội
(social solidarity). Ông chỉ ra rằng, khi xã hội tiến hóa từ thần
quyền đến chủ nghĩa thế quyền, từ chủ nghĩa tập thể đến chủ
nghĩa cá nhân, luật pháp đã hướng tới sự bồi thường hơn là
chỉ trừng phạt. Tuy nhiên, sự trừng phạt đóng vai trò quan
trọng trong việc thể hiện thái độ chung về đạo đức nhờ đó sự
đoàn kết xã hội được bảo toàn.
Ông dùng khái niệm đoàn kết xã hội để chỉ các mối quan
hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa các cá nhân với nhau. Nếu như
không có sự đoàn kết xã hội thì các cá nhân riêng lẻ, biệt lập
không thể tạo thành xã hội với tư cách là một chỉnh thể. Có hai
17
kiểu đoàn kết xã hội là “đoàn kết cơ học” (mechanical solidarity)
và “đoàn kết hữu cơ” (organic solidarity). Những hình thức
của sự đoàn kết xã hội này được phản ánh trong luật pháp:
phân loại những luật pháp khác nhau, ta sẽ thấy những kiểu
đoàn kết xã hội tương ứng.
Trong các xã hội cổ xưa, con người gắn bó với nhau bằng
sự đoàn kết cơ học là kiểu đoàn kết xã hội dựa trên sự thuần
nhất, đơn điệu của các giá trị và niềm tin. Các cá nhân gắn bó
với nhau vì sự kiềm chế mạnh mẽ từ phía xã hội và vì lòng
trung thành của cá nhân đối với truyền thống, tập tục và quan
hệ gia đình. Sức mạnh của ý thức tập thể có khả năng chi phối
và điều chỉnh suy nghĩ, tình cảm và hành động của các cá nhân.
Trong xã hội kiểu cơ học, quyền tự do, tinh thần tự chủ và tính
độc lập của các cá nhân rất thấp. Sự khác biệt và tính độc đáo
của cá nhân là không quan trọng. Xã hội gắn kết kiểu cơ học
thường có quy mô nhỏ, nhưng ý thức cộng đồng cao, các
chuẩn mực, luật pháp mang tính chất trừng phạt. Ở xã hội hiện
đại, con người gắn bó với nhau bằng kiểu đoàn kết hữu cơ dựa
trên cơ sở phân công lao động, tính đa dạng và sự khác biệt
trong xã hội. Xã hội đoàn kết hữu cơ thường có quy mô lớn, ý
thức cộng đồng yếu, nhưng tính độc lập, tự chủ cá nhân được
đề cao; quan hệ xã hội chủ yếu mang tính chất trao đổi được
luật pháp, khế ước kiểm soát và bảo vệ. Pháp luật chủ yếu
mang tính chất tạo dựng và phục hồi công lí nhằm điều chỉnh
những hành vi sai trái trong xã hội.
Lí giải về hiện tượng tội phạm, Durkheim cho rằng một sự
kiện được coi là bình thường đối với một kiểu xã hội nhất định,
18
trong một giai đoạn nhất định. Hiện tượng tội phạm cũng là
một hiện tượng bình thường của đời sống xã hội bởi nó có ở tất
cả các kiểu xã hội và là bộ phận không thể thiếu trong cơ thể
xã hội lành mạnh. Qua các thời kì khác nhau tội phạm cũng
thay đổi hình thức. Hành vi được coi là tội phạm không giống
nhau ở các quốc gia. Tội phạm là hành vi xâm phạm tới lương
tâm tập thể, nó có tội vì nó gây căm phẫn cho lương tâm tập
thể. Để cho trong xã hội một hành vi được coi là tội phạm điển
hình mất đi, thì tình cảm tập thể đã bị tổn thương phải được
thấy trở lại trong tất cả ý thức của các cá nhân. Trong thực tế,
nếu điều này xảy ra thì tội phạm không vì thế mà biến mất, nó
chỉ thay đổi hình thức vì nguyên nhân làm cạn kiệt nguồn tạo
ra tội phạm sẽ lập tức mở ra một nguồn gây ra tội phạm mới.
Ông lập luận thêm, một số tội phạm đôi khi là cần thiết đối với
sự tiến hoá của xã hội “theo luật pháp Aten, Socrat là kẻ phạm
tội và sự kết tội ông chỉ có chính đáng thôi. Song tội của ông,
đó là sự độc lập tư duy của ông, lại là có ích, chẳng những cho
nhân loại, mà còn cho cả tổ quốc của ông. Vì ông phục vụ
chuẩn bị cho một nền đạo đức và một lòng tin mới mà những
người dân Aten khi đó cần đến vì các truyền thống mà họ đã
sống cho đến lúc đó không còn phù hợp với các điều kiện tồn
tại của họ nữa. Song trường hợp của Socrat không phải là
trường hợp đơn độc, trường hợp đó vẫn được tái sinh một cách
định kì trong lịch sử”.1
Ông khẳng định, nếu coi hiện tượng tội phạm là một căn
1
E. Durkheim, Các quy tắc của phương pháp xã hội học, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1993, tr. 90 - 95.
19
bệnh của xã hội thì hình phạt chính là phương thuốc để chữa
căn bệnh ấy, không thể khác được. Nhưng hình phạt phải được
áp dụng như thế nào để hoàn thành vai trò phương thuốc chữa
căn bệnh đó của xã hội. Nếu tội phạm là hiện tượng bình
thường của xã hội, thì hình phạt không phải đối tượng để chữa
nó và chức năng thực sự của nó phải tìm kiếm ở nơi khác. Luật
pháp hà khắc ở các xã hội kém phát triển, còn trong xã hội hiện
đại thì hình phạt trở nên bớt tính tàn bạo. Biện pháp trừng phạt
chỉ là cách mà chính quyền củng cố lương tâm tập thể bằng
trừng phạt những ai xúc phạm đến chính quyền.
Max Weber (1864 - 1920) là nhà xã hội học người Đức.
Sinh ra trong một gia đình trí thức, ông đã theo đuổi sự nghiệp
qua rất nhiều lĩnh vực sử học, luật học, kinh tế học và xã hội
học. Cùng với A. Comte, E. Durkheim, M. Weber được coi là
một trong những thành viên sáng lập ra ngành xã hội học.
Trong khi E. Durkheim chịu sự ảnh hưởng lớn bởi quan điểm
thực chứng luận thì Max Weber lại nhấn mạnh đến việc lí giải
động cơ và ý nghĩa của hành động xã hội. Ông cho rằng:
“nhiệm vụ của xã hội học là nghiên cứu các thiết chế xã hội
như nhà nước, pháp luật, tổ chức, cộng đồng... với tư cách là
hành động của cá nhân đang tương tác với nhau”.1
Theo Weber, nhà nước là một tổ chức độc quyền, hợp
pháp sử dụng sức mạnh bạo lực. Có ba loại hình thống trị:
Loại hình mang tính hợp lí là loại hình thống trị được quy
định bởi luật pháp; loại hình mang tính truyền thống; loại
1
Bùi Quang Dũng, Lê Ngọc Hùng, Lịch sử xã hội học, Nxb. Lí luận chính trị,
Hà Nội, 2005, tr. 113.
20
- Xem thêm -