NGUYỄN THỊ THƯ
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THƯ
LUẬT KINH TẾ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢOVỆ
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU
DÙNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA: 2009-2012
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, NĂM 2013
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
******
NGUYỄN THỊ THƯ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 62 38 50 01
Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS. Mai Hồng Quỳ
2. PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh
HÀ NỘI- 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án này là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Mọi số liệu, dẫn chứng thể
hiện trong luận án là trung thực và được chú thích
nguồn đầy đủ.
Tp.HCM, ngày 1 tháng 8 năm 2013
Nghiên cứu sinh
Nguyễn Thị Thư
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTTH
: Bồi thường thiệt hại
BVQLNTD : Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
EU
: (European Union) Liên minh Châu Âu
NTD
: Người tiêu dùng
QPPL
: Quy phạm pháp luật
ACCC
: Ủy Ban Cạnh tranh và Tiêu dùng Australia
CI
: Tổ chức Quốc tế người tiêu dùng (Consumers International)
TPA
: Luật hoạt động thương mại (Trade Practice Act)
VINASTAS : Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam
EC
: Cộng đồng Châu âu (European Community)
UBTVQH : Ủy ban thường vụ Quốc hội
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
1
Chương 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Cơ sở lý thuyết
1.2.2. Phương pháp nghiên cứu
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 2:
6
6
6
10
22
24
24
24
26
27
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
2.1 Quan niệm về người tiêu dùng
27
2.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
27
2.1.2. Vị trí, vai trò của người tiêu dùng
38
2.1.3. Quan hệ tiêu dùng
39
2.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật bảo vệ quyền lợi người 43
tiêu dùng
2.2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
43
2.2.2. Đặc điểm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
44
2.2.3. Vị trí của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong 48
hệ thống pháp luật
2.3. Mô hình pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
50
2.3.1 Một số mô hình pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 50
trên thế giới
2.3.2. Hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ người tiêu dùng ở Việt 60
Nam
2.4. Cấu trúc nội dung pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu 64
dùng
2.4.1. Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng
64
2.4.2 Trách nhiệm và nghĩa vụ của nhà sản xuất, cung cấp hàng 71
hóa, dịch vụ
2.4.3. Trách nhiệm từ phía Nhà nước
76
2.4.4. Trách nhiệm của các tổ chức xã hội bảo vệ người tiêu dùng
78
2.4.5 Những biện pháp đảm bảo thực thi pháp luật bảo vệ quyền 79
lợi người tiêu dùng
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
83
Chương 3:
85
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT
VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
3.1. Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
85
3.2. Thực tiễn thi hành pháp pháp luật bảo vệ quyền lợi người 117
tiêu dùng
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
132
Chương 4:
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI
TIÊU DÙNG
134
4.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu 134
dùng
4.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người 143
tiêu dùng
4.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo vệ người tiêu 147
dùng
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
160
161
PHỤ LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người tiêu dùng, trước hết là con người, họ có quyền được bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, tài sản... Hơn nữa, NTD đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển
của nền kinh tế mỗi quốc gia, thế nhưng trong mối quan hệ với tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh thì người tiêu dùng luôn ở vị thế yếu hơn. Đó là tình trạng bất cân
xứng về thông tin, hiểu biết, khả năng kiểm tra chất lượng hàng hóa, các khuyết tật
và các rủi ro liên quan đến sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, khả năng đàm phán, ký kết
hợp đồng, trong sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế thị trường. Trong
tương quan với nhà sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ chuyên nghiệp, họ luôn
nằm ở vị thế yếu hơn so với nhà sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy, NTD luôn và
có nguy cơ gánh chịu rủi ro, thiệt hại trong quan hệ tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ.
Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với
sự phát triển của nền kinh tế thị trường, quyền lợi của NTD ngày càng bị xâm hại
nghiêm trọng. Vì nhu cầu lợi nhuận, đạo đức kinh doanh suy đồi, không ít nhà cung
cấp đã lạm dụng ưu thế của mình để khai thác, bóc lột, lừa dối người tiêu dùng bằng
rất nhiều hình thức: sản phẩm không đúng chất lượng, không đủ số lượng, quảng
cáo gian dối,...và hơn thế nữa, tính mạng, sức khỏe NTD đứng trước sự đe dọa bởi
thực phẩm độc hại, sản phẩm không an toàn...
Mặc dù Luật Bảo vệ quyền lợi NTD được Quốc hội Việt Nam thông qua
ngày 17/11/2010, có hiệu lực từ ngày 1/7/2011, nhưng cho đến nay quyền lợi của
NTD vẫn đang và có nguy cơ tiếp tục bị vi phạm trầm trọng. Luật BVQLNTD đã
trao cho NTD Việt Nam nhiều “đặc quyền” hơn so với những quy định của Pháp
lệnh BVQLNTD 1999 nhằm cân bằng vị thế bất bình đẳng giữa NTD và tổ chức, cá
nhân sản xuất kinh doanh trong quan hệ tiêu dùng. Đạo luật này quy định đầy đủ
hơn so với Pháp lệnh BVQLNTD 1999, với sự bổ sung của nhiều quy định quan
trọng như trách nhiệm sản phẩm, hợp đồng giao kết với NTD, điều kiện giao dịch
chung, một số ngoại lệ khi giải quyết tranh chấp tại tòa án...Tuy nhiên, vì nhiều lý
do khác nhau, Luật BVQLNTD năm 2010 vẫn chưa phải là một sản phẩm “hoàn
hảo”, là một công cụ bảo vệ tốt nhất quyền lợi ích hợp pháp của NTD hiện nay.
Một thực tế không thể phủ nhận rằng, các quy phạm pháp luật BVQLNTD
1
thì nằm rải rác ở rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, còn nội dung thì
chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ NTD khi quyền lợi của họ bị xâm phạm. Các
thiết chế Nhà nước và phi Nhà nước tỏ ra rất yếu kém, có vai trò khá mờ nhạt trong
việc thực hiện chức năng của mình trong việc bảo vệ NTD và đặc biệt là để chuyển
các quy định của hệ thống pháp luật BVQLNTD đang hiện hữu trở thành hiện thực.
Trước tình hình đó, bên cạnh nhu cầu nâng cao “chất lượng” của bản thân
pháp luật hiện hành về BVQLNTD, thì việc thông qua điều chỉnh pháp luật để tăng
cường các khả năng và nhiệm vụ của các thiết chế BVQLNTD là nhu cầu cấp bách
đặt ra hiện nay. Điều này có ý nghĩa rất lớn không những đối với sự phát triển của
nền kinh tế thị trường hiện đại, mà còn là điều kiện không thể thiếu được của một
xã hội văn minh, công bằng và nhân đạo. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những vấn
đề lý luận về pháp luật BVQLNTD, cũng như thực tiễn thực thi, áp dụng pháp luật
BVQLNTD là hết sức cần thiết, trên cơ sở đó đưa ra định hướng, giải pháp cụ thể
nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật BVQLNTD trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa
cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận án
- Mục đích của luận án:
+ Làm sáng tỏ vấn đề lý luận về NTD, các quyền cơ bản của NTD, nghĩa vụ
của các chủ thể khác, quan hệ tiêu dùng và pháp luật BVQLNTD.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật BVQLNTD cũng như việc thực thi
pháp luật BVQLNTD sau một năm thực hiện Luật BVQLNTD;
+ Đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ
quyền lợi NTD
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án:
Để đạt được mục đích đã nêu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
được xác định cụ thể như sau:
+ Nghiên cứu có hệ thống nhằm làm rõ cơ sở lý luận người tiêu dùng, quan
hệ tiêu dùng, các quyền của người tiêu dùng, nghĩa vụ của các chủ thể khác trong hệ
thống pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
+ Nghiên cứu và làm sáng tỏ vai trò, vị trí của NTD, pháp luật BVQLNTD
trong hệ thống pháp luật Việt Nam;
2
+ Nghiên cứu so sánh sự ghi nhận quyền và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
ở một số quốc gia trên thế giới qua các thời kỳ lịch sử, những vấn đề pháp lý nảy
sinh và từ đó rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam.
+ Phân tích thực trạng hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành về bảo vệ
người tiêu dùng khi quyền lợi của NTD bị xâm phạm ở Việt Nam.
+ Phân tích thực trạng áp dụng pháp luật BVQLNTD, qua đó nêu rõ những
bất cập, hạn chế và nguyên nhân của chúng;
+ Phân tích, so sánh, đánh giá xu hướng vận động của pháp luật BVQLNTD
hiện nay trên thế giới, đưa ra định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật BVQLNTD
của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Nghiên cứu và đề xuất phương hướng, những giải pháp cụ thể nhằm hoàn
thiện pháp luật BVQLNTD ở phương diện thực thi các quyền của người tiêu dùng
có hiệu quả khi tham gia vào các quan hệ tiêu dùng với các nhà sản xuất kinh
doanh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án: là những nội dung pháp luật liên quan
đến vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD; thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật
BVQLNTD ở Việt Nam; kinh nghiệm thế giới trong xây dựng pháp luật
BVQLNTD. Những phán quyết của tòa án nước ngoài cũng thuộc phạm vi nghiên
cứu của luận án nhưng có thể được đề cập ở cấp độ tham khảo hoặc được sử dụng
làm dẫn chứng cho những nghiên cứu so sánh. Việc so sánh, đối chiếu quy phạm
được giới hạn ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển như Mỹ, Canada, EU.
Đối với các nước đang phát triển, việc so sánh chú trọng tới pháp luật các nước nằm
trong khu vực hay các nước có sự tương đồng với Việt Nam về kinh tế, chính trị,
văn hóa.
- Phạm vi nghiên cứu:
Hoàn thiện pháp luật BVQLNTD là vấn đề rất lớn, có thể được phân tích ở
nhiều mức độ, nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi một luận án
không thể phân tích hết các vấn đề đó. Như mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã
trình bày ở trên thì bên cạnh việc đặt trọng tâm vào nghiên cứu những vấn đề mang
tính lý luận, luận án chủ yếu tập trung vào nghiên cứu, đánh giá tính phù hợp, thống
3
nhất, hợp lý và khả thi của Luật BVQLNTD và các văn bản hướng dẫn sau một năm
thực thi, trên cơ sở đó dự báo những vấn đề pháp lý sẽ phát sinh và phương hướng
hoàn thiện. Ngoài ra, luận án tập trung nghiên cứu một số quy định mang tính đặc
thù của pháp luật BVQLNTD ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế nhằm đưa ra các
giải pháp hoàn thiện pháp luật BVQLNTD, góp phần giải quyết triệt để những điểm
khuyết trong lý luận cũng như trong thực tiễn áp dụng của pháp luật BVQLNTD
của Việt Nam.
Những nội dung liên quan đến thực trạng pháp luật và thực thi pháp luật,
luận án sẽ nghiên cứu nhưng giới hạn trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Việc điều
tra, khảo sát thực tế ở Việt Nam sẽ không bị giới hạn nhưng tuân thủ những nguyên
tắc xã hội học trong lấy mẫu và điều tra điển hình.
4. Những điểm mới của luận án
Thứ nhất: Trên cơ sở phân tích một cách có hệ thống khái niệm về NTD,
quan hệ tiêu dùng, pháp luật BVQLNTD; phân tích vị trí vai trò của NTD cũng như
sự cần thiết phải bảo vệ NTD; làm rõ bản chất của quan hệ tiêu dùng, pháp luật
BVQLNTD, vị trí và vai trò của pháp luật BVQLNTD trong hệ thống pháp luật, từ
đó có thể giải quyết một cách thỏa đáng những vấn đề mang tính lý luận của pháp
luật BVQLNTD. Bên cạnh đó, luận án làm rõ nhu cầu điều chỉnh bởi pháp luật đối
với hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD, xác định được nguyên tắc, định hướng xây
dựng, hoàn thiện pháp luật BVQLNTD, đồng thời xác định được những nội dung
không thể thiếu được coi là nội hàm mà lĩnh vực pháp luật này buộc phải có.
Thứ hai: Luận án nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách có hệ thống và
toàn diện thực trạng pháp luật BVQLNTD của Việt Nam hiện hành. Trên cơ sở đó
chỉ ra sự khiếm khuyết, bất hợp lý cần sửa đổi, bổ sung của pháp luật BVQLNTD
sao cho phù hợp với đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường cũng như phù
hợp với điều kiện văn hóa, xã hội và yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền của
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Thứ ba: Luận giải và đề xuất cụ thể, toàn diện các giải pháp nhằm đáp ứng
được yêu cầu bảo vệ hữu hiệu người tiêu dùng khi quyền lợi của họ bị xâm phạm
khá nghiêm trọng như trong bối cảnh hiện nay; đưa ra định hướng, các kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD ở Việt nam hiện nay. Những giải
pháp này có được dựa trên sự phân tích, đánh giá một cách khoa học, toàn diện các
4
quy định về BVQLNTD của Việt Nam hiện hành cũng như công tác thực thi pháp
luật BVQLNTD sau một năm thực thi luật BVQLNTD cũng như xu hướng tất yếu
phải hoàn thiện pháp luật BVQLNTD khi chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền
và hội nhập quốc tế.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Qua phân tích về tình hình nghiên cứu pháp luật BVQLNTD, có thể khẳng
định rằng, luận án là công trình nghiên cứu một cách công phu, có hệ thống và khá
toàn diện những vấn đề mang tính lý luận nền tảng để làm cơ sở xây dựng, hoàn
thiện pháp luật BVQLNTD. Những phân tích, kết luận và đề xuất mà luận án đưa ra
đều trên cơ sở khoa học và thực tiễn, vì vậy, luận án không chỉ có ý nghĩa về mặt lý
luận mà còn có giá trị thực tiễn. Là sự đóng góp không nhỏ trong việc xây dựng và
hoàn thiện pháp luật BVQLNTD, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi
NTD, đảm bảo trật tự và công bằng xã hội. Luận án cũng có thể được sử dụng làm
tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực pháp luật
BVQLNTD nói chung và đạo luật BVQLNTD nói riêng.
6. Bố cục của luận án
Với những câu hỏi nghiên cứu, giả thiết nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ
của luận án, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục kèm theo, luận án được kết cấu gồm 4 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1:
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương 2:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI
TIÊU DÙNG
Chương 3:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
Chương 4:
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Vấn đề BVQLNTD trên thế giới chỉ thực sự được quan tâm vào những năm
60 của thế kỷ XX. Khi mà tình trạng NTD bị xâm phạm các lợi ích kinh tế trở nên
nhức nhối hơn bao giờ hết mà nguyên nhân của nó không chỉ nằm ở việc độc quyền
hoặc sự liên kết giữa các thương nhân [85,tr.28]. Song song với sự ra đời của các
đạo luật bảo vệ quyền lợi NTD thì các công trình nghiên cứu về vấn đề này cũng
“nở rộ”. Tuy có “tuổi đời còn kiêm tốn”, nhưng các công trình nghiên cứu về pháp
luật bảo vệ quyền lợi NTD có số lượng không ít và thể hiện khá rõ sự chín chắn của
mình.
Những điển hình cho lĩnh vực nghiên cứu này là W. David Slawson với
“Standard Form Contracts and Democratic Control of Lawmaking Power”, Vol. 84
Harvard Law Review
Entwicklung
der
529, 529 (1971) ở Mỹ;
Kaufrechtspraxis
unter
dem
Biesel Manfred với „Die
Einfluß
der
Allgemeinen
Geschäftsbedingungen, insbesondere der Beschränkung der Käuferrechte“, Diss.
Köln, Rechtswissenschaftliche Fakultät, 1960 ở CHLB Đức;
“Notarielle
Verbrauchervertraege” của Britta Carmen Deimel, Nxb. Dr. Kovac, năm 2003.
Trong đó, tác phẩm “Notarielle Verbrauchervertraege” của Britta Carmen
Deimel, Nxb. Dr. Kovac, năm 2003, tác giả đã đề cập đến những vấn đề của Hợp
đồng có công chứng theo điều 310 Bộ Luật Dân sự Đức. Bên cạnh đó, tác giả giới
thiệu về chỉ thị số 93-13/EWG của Ủy Ban Châu Âu ngày 5/4/1993 về những bảo
lưu mang tính lạm dụng trong các hợp đồng tiêu dùng. Theo đó, tác giả đã phân tích
về sự trùng hợp và khác nhau giữa chỉ thị này với Điều 310 Bộ Luật Dân sự Đức
liên quan đến điều kiện giao dịch chung. Cũng trong tác phẩm này, tác giả đã đề cập
đến yêu cầu cần phải minh bạch hóa các hợp đồng theo yêu cầu của chỉ thị 9313/EWG của Ủy Ban Châu Âu. Đây là tài liệu rất có giá trị tham khảo trong việc
nghiên cứu hợp đồng nói chung và điều kiện thương mại chung nói riêng.
6
Các quốc gia phát triển đã lấy chính sách lấy NTD làm trung tâm phát triển
kinh tế của họ, hàng loạt các đạo luật nhằm bảo vệ NTD được ban hành. Trên cơ sở
đó, có khá nhiều nghiên cứu nhằm hoàn thiện việc điều chỉnh pháp lý về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng. Qua khảo sát nhận thấy một số nghiên cứu quan trọng
sau đây như: Gerlach Johann Wilhelm với „Die AGB-Verhältnisse und die
bisherigen Erfahrungen mit dem Kontrollklageverfahren“, Münchener Kommentar
zum BGB, Band I, §§ 1-240, C.H. Beck Verlag 1997; Bork Reinhard với
„Entwicklung der AGB-Kontrolle“, Tübingen 2001; Alice Broichmann với
„Unternehmenskaufverträge und AGB-Kontrolle“, Beck-Fachdienst Mergers &
Acquisitions, Ausgabe 14/2007; K.Schmidt với “ Verbraucherschutz im BGB und
AGB- Kontrolle” , JuS 2006,1ff.
Theo đó, trong bài viết “ Verbraucherschutz im BGB und AGB- Kontrolle”
của K.Schmidt, tác giả đã đề cập vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD theo Bộ Luật dân sự
của Đức. Dựa trên nguyên tắc tự do hợp đồng thì các bên có quyền tự do thỏa thuận
không bị hạn chế về nội dung trong hợp đồng. Điều này xuất phát từ tư tưởng tự do
trong thị trường, tự do trong thị trường là sự bảo vệ NTD tốt nhất. Tuy nhiên, trong
bối cảnh của những bất cân xứng về lực lượng (về khả năng đàm phán trong hợp
đồng cũng như bất cân xứng về thông tin...) đã dẫn đến sự hạn chế về quyền tự do
thị trường, từ đây xuất hiện nhu cầu bảo vệ NTD. Vì vậy, cho đến năm 2001 (thời
điểm cải cách Bộ Luật dân sự, mà theo đó, pháp luật về điều kiện giao dịch chung
chưa được đưa vào Bộ Luật dân sự trước đó) Bộ Luật dân sự của Đức đã được bổ
sung, nhà nước Đức đã ban hành một loạt những đạo luật bao gồm Luật về Điều
kiện giao dịch chung, Luật về bán hàng tại nhà, Luật về bán hàng từ xa...
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã trở thành xu thế toàn cầu, nhanh chóng
lan tỏa đến tất cả các quốc gia trên thế giới. Một số nghiên cứu tiêu biểu như: GralfPeter Calliess với “Coherence and Consistency in European Consumer Contract
Law: a Progress Report”, Frankfurt am Main, 2003; Sir John Vickers với
“Contracts and European consumer law: an OFT perspective”, Oxford 2005;
Aristides N. Hatzis với “An Offer You Can’t Negotiate: Some Thoughts on the
Economics of Standard-Form Consumer Contracts” Athens 2006; Michael G.
Faure & Hanneke A.Luth với “Behavioural Economics in Unfair Contract Terms
Cautions and Considerations”, The Author(s) 2011; Friedrich Kessler “Contracts
7
of Adhesion-Some Thoughts About Freedom of Contract”, Yale Law School 1943;
Willem van Boom and Marco Loos với “ Effective Enforcement of Consumer Law
in Europe Synchronizing Private, Public, and Collective Mechanisms”, January,
2008;
Leon E. Trakman với “Adhesion contracts and the twenty first Century
consumer“,2011; American Bar Association Central and East European Law
Initiative với “Concept Paper on Consumer Protection” November 25, 1992. Cụ
thể:
+ Trong tác phẩm “Behavioural Economics in Unfair Contract Terms
Cautions and Considerations”, hai tác giả Michael G. Faure và Hanneke A.Luth đã
phân tích mối quan hệ giữa NTD và nhà sản xuất, kinh doanh bằng phương pháp
tiếp cận kinh tế truyền thống, dựa trên lý luận về hành vi kinh tế học, trên cơ sở đó,
rút ra bài học để bảo vệ NTD. Bên cạnh đó, tác giả còn xây dựng nhiều quan điểm
liên quan đến chính sách bảo vệ NTD trên cơ sở liên hệ với chính sách bảo vệ NDT
của Châu Âu. Tuy nhiên, bài viết chủ yếu tập trung vào vấn đề những điều khoản
gây hiểu nhầm, bất lợi và không công bằng trong hợp đồng tiêu dùng. Theo tác giả,
khiếm khuyết của thị trường là sự bất đối xứng thông tin, chi phí giao dịch, khả
năng thương lượng giữa NTD và nhà sản xuất. Chính vì vậy, Chính phủ cần can
thiệp để kiểm tra sự công bằng của các điều khoản trong hợp đồng. Ví dụ: Quy định
một hợp đồng được tự động gia hạn nếu NTD muốn tiếp tục sử dụng hàng hóa, dịch
vụ của nhà sản xuất, cung ứng đó, điều này sẽ giảm chi phí giao dịch cho NTD.
+ Trong bài viết “Contracts of Adhesion-Some Thoughts About Freedom of
Contract” (Giao kết hợp đồng – Vài suy nghĩ về tự do hợp đồng) của Friedrich
Kessler, tác giả có cái nhìn đa chiều và khá sâu sắc về vấn đề tự do hợp đồng. Bài
viết khẳng định, hợp đồng là công cụ không thể thiếu trong hoạt động của các
doanh nghiệp, cho phép các bên thể hiện và thực hiện ý chí của mình. Bên cạnh đó,
ông đề cao vấn đề tự do hợp đồng, tự do thỏa thuận, và không thể gọi là hợp đồng
nếu không có sự đồng ý của các bên. Cũng trong bài viết này, Friedrich Kessler đã
đề cập đến hợp đồng mẫu do doanh nghiệp xây dựng. Hiện nay, loại hợp đồng này
xuất hiện trong rất nhiều lĩnh vực như vận chuyển, bảo hiểm, ngân hàng. Hợp đồng
mẫu thông thường loại bỏ hoặc kiểm soát những điều khoản bất lợi cho doanh
nghiệp và việc sử dụng hợp đồng mẫu thường được thực hiện bởi những doanh
nghiệp lớn, có thế lực và những doanh nghiệp độc quyền. Tác giả đã nhận ra sự bất
8
bình đẳng giữa các bên trong hợp đồng mẫu, và NTD là bên gánh chịu sự thua thiệt.
Ông kêu gọi Pháp luật, Tòa án cần nổ lực để bảo vệ bên yếu thế hơn trong hợp đồng
mẫu, bảo vệ công chúng chống lại sự lạm dụng tự do hợp đồng.
+ Tác giả Sir John Vickers với bài viết “Contracts and European consumer
law: an OFT perspective”. Trong bài viết này, tác giả không đi sâu vào pháp luật
hợp đồng, mà dựa trên kinh nghiệm của OFT (The office of fair trading (OFT), tạm
dịch là Văn phòng Thương mại công bằng) để giải quyết sự hài hòa hóa luật hợp
đồng của các nước Châu âu trên cơ sở một loạt các chỉ thị của Cộng đồng Châu âu *.
Theo chỉ thị EC, các điều khoản trong hợp đồng phải đầy đủ, từ ngữ rõ ràng, dễ
hiểu, không cạm bẫy... Các điều khoản không rõ ràng, không công bằng không có
giá trị ràng buộc NTD. Tác giả cho rằng thực hiện Chỉ thị EC giúp cho việc thực thi
pháp luật bảo vệ NTD ở các quốc gia thành viên tốt hơn. Bởi lẽ, việc mua và bán
hàng hóa không chỉ diễn ra ở mỗi quốc gia châu âu mà còn vượt qua biên giới. Mà,
pháp luật và cơ chế thực thi ở mỗi quốc gia lại khác nhau, tạo điều kiện cho các
thương nhân sử dụng “ biên giới” như một lá chắn các hành vi lừa đảo của mình,
điều này dẫn đến khó thực thi việc bảo vệ NTD. Tác giả kêu gọi và đánh giá cao sự
hài hòa hóa pháp luật hợp đồng và pháp luật NTD của các nước Châu âu dựa trên
chỉ thị của EC, với sự tham gia của nhiều quốc gia Châu Âu khác. Điều này sẽ cải
thiện nội dung pháp luật bảo vệ NTD cũng như giúp cơ quan nhà nước bảo vệ NTD
thực thi và xử lý có hiệu quả các trường hợp xâm phạm lợi ích NTD và bảo vệ cả
những doanh nghiệp chân chính trên khắp Châu âu.
+ Hai tác giả Willem van Boom and Marco Loos với “ Effective
Enforcement of Consumer Law in Europe Synchronizing Private, Public, and
Collective Mechanisms” đã có những phân tích sâu về lợi ích nhóm trong luật tiêu
dùng của Châu Âu và của từng quốc gia thành viên. Phân tích sự liên quan của luật
cạnh tranh không lành mạnh trong việc tìm ra các phương tiện hiệu quả cho việc
bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Đồng thời tác giả cũng cho thấy mối quan hệ
của việc thực thi luật cạnh tranh và việc thực thi những quy tắc của luật tiêu dùng.
Cũng trong bài viết này, tác giả đã phân tích một cách một cách thỏa đáng
vấn đề khiếu kiện của NTD. Theo tác giả, những người tiêu dùng cá nhân đã không
*
EC (European Community). Năm 1993 Cộng đồng Châu Âu được đổi tên thành Liên minh Châu Âu (EU European Union).
9
được trang bị một cách đầy đủ để thực thi các quyền hợp pháp của mình. Họ đứng
một mình trong trận chiến chống lại các công ty hay tổ chức vốn dĩ đã được trang bị
đầy đủ với sự hỗ trợ và nguồn pháp lý tốt hơn nhiều. Hơn nữa, khi khiếu nại để đòi
quyền lợi của mình, người tiêu dùng gặp khó khăn về chi phí, thời gian. Họ phải bỏ
ra một chi phí khá lớn cho khiếu kiện để đổi lấy khoản bồi thường nhỏ thiệt hại.
Đây chính là rào cản khiến người tiêu dùng ngại phải đối mặt với việc khiếu kiện
khi quyền lợi bị xâm phạm. Để giải quyết vấn đề này, tác giả nhấn mạnh cần tập
hợp các khiếu nại của những người tiêu dùng cá nhân để giúp tạo nên sự cân bằng
quyền lực, thứ mà những người tiêu dùng cá nhân đơn lẻ đang thiếu khi tiến hành
khiếu nại, khiếu kiện. Với quan điểm này, tác giả đã cổ súy cho những quy định của
pháp luật về khiếu kiện tập thể, đây là vấn đề mà nhiều quốc gia còn e ngại và chưa
được ghi nhận trong pháp luật bảo vệ NTD.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Trước năm 1986, ở Việt Nam hầu như không có bất kỳ một công trình nào
nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD. Bởi lẽ, thuật ngữ NTD chỉ xuất hiện
trong nền kinh tế thị trường. Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1986 đã
đánh dấu bước chuyển của nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế. Cùng sự phát triển của kinh tế thị trường, với sự cạnh
tranh gay gắt giữa các thương nhân, sự xuống cấp của đạo đức và lòng tham đối với
khoản lợi nhuận kếch xù, quyền lợi ích của NTD bắt đầu bị xâm phạm ngày càng
nghiêm trọng hơn.
Có thể nói, “Bàn về tiêu dùng của Chủ nghĩa xã hội” của Trần Tri Hoằng,
Nxb Chính trị quốc gia, 1999 là công trình tiên phong nghiên cứu những vấn đề
mang tính lý luận về tiêu dùng. Cuốn sách đã tổng kết thực tiễn tiêu dùng hơn 40
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, đặc biệt trong thời kỳ cải cách, mở
cửa từ năm 1978 đến nay dựa trên cơ sở lý luận của C. Mác- Ph. ĂngGhen, V. I. Lê
Nin về vấn đề tiêu dùng và tham khảo thành tựu lý luận về tiêu dùng trong kinh tế
học phương Tây. Trong cuốn sách này, ông đã trình bày năm vấn đề lớn: Quan
niệm về tiêu dùng; hệ thống tiêu dùng; cơ cấu tiêu dùng; hành vi tiêu dùng và quyền
lợi của người tiêu dùng. Tác giả tiến hành tìm hiểu một cách toàn diện về lý luận cơ
bản, các quy luật vận hành, diễn biến, các quan hệ của tiêu dùng: giữa sản xuất với
10
tiêu dùng, phân phối với tiêu dùng, trao đổi với tiêu dùng. Ngoài những vấn đề
mang tính lý luận về tiêu dùng, tác giả cũng đã đề cập đến một số quyền của NTD
như: quyền được tìm hiểu; quyền được lựa chọn; quyền bảo đảm chất lượng, giá cả,
an toàn, cân đong; quyền sửa chữa, thay đổi, trả lại tiền và đòi bồi thường. Quyền
của NTD tuy chưa được đề cập và phân tích một cách đầy đủ, nhưng đây có thể
xem là sự gợi mở cho các công trình sau, kế thừa và tiếp tục làm rõ hơn các vấn đề
lý luận liên quan đến bảo vệ quyền lợi NTD.
Trong số những công trình mang tính tiên phong nghiên cứu vấn đề bảo vệ
quyền lợi NTD ở Việt Nam, không thể không nhắc đến “Tìm hiểu Luật bảo vệ
người tiêu dùng các nước và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam” của Viện
Nhà nước và Pháp luật biên soạn, Nxb Lao động, 1999. Cuốn sách này là tài liệu
tham khảo rất có giá trị đối với các học giả cũng như những độc giả trong nước
quan tâm đến Luật bảo vệ quyền lợi NTD của một số quốc gia trên thế giới. Bên
cạnh việc giới thiệu Luật bảo vệ NTD của Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Nam
Triều Tiên, Ấn Độ...cũng như một số biện pháp bảo vệ NTD của các quốc gia. Cuốn
sách đã điểm qua hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD của Việt Nam, mà cụ thể là Hội
tiêu chuẩn và bảo vệ NTD Việt Nam (VINASTAS). Cuốn sách đã nêu bật được vấn
đề khó khăn của NTD Việt Nam trước “cơn lốc” của kinh tế thị trường và sự “đổ
bộ” ồ ạt của hàng hóa, đặc biệt là hàng hóa kém chất lượng, thực phẩm ô nhiễm.
Tuy chưa lý giải được tất cả các vấn đề ảnh hưởng xấu đến quyền lợi NTD, cũng
như các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ NTD. Nhưng cuốn sách đã “báo động” tình
trạng NTD Việt Nam đang bị xâm hại, xác lập sự quan tâm của Nhà nước, xã hội
đối với việc bảo vệ quyền lợi NTD.
Như vậy, điểm qua một số công trình nghiên cứu có liên quan đến bảo vệ
quyền lợi NTD, cho thấy có không ít công trình nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên,
đây là vấn đề rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp lý khác nhau cũng như
tính mới, tính độc đáo của Pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD. Vì vậy, những công
trình này có hướng tiếp cận, khai thác, nghiên cứu và nhận thức dưới những góc độ
khác nhau như sau:
Thứ nhất: Nhóm các công trình nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền lợi NTD
thông qua các quy định của pháp luật cạnh tranh. Qua đó, đã khẳng định quan điểm:
pháp luật cạnh tranh là một phần của pháp luật bảo vệ NTD, bảo vệ quyền lợi NTD
11
bằng pháp luật cạnh tranh là điều không thể thiếu trong bối cảnh hiện nay.
+ Bài viết của PGS.TS Nguyễn Như Phát “Đối tượng điều chỉnh của pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 9 năm
2000. Trong bài viết của mình tác giả đã khẳng định, bên cạnh những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị thế thống lĩnh xâm hại đến
lợi ích của đối thủ cạnh tranh thì những hành vi xâm hại lợi ích của người tiêu dùng
cũng phải là đối tượng điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh.
Bởi lẽ, các hành vi như can thiệp vào quyền tự do quyết định của khách hàng,
khuyến mại gian dối, quảng cáo sai lệch....không chỉ xâm hại đối thủ cạnh tranh mà
còn trực tiếp xâm hại quyền lợi NTD. Bài viết đặt nền tảng cho nhận thức mới về
pháp luật bảo vệ NTD cũng như mối quan hệ mật thiết giữa pháp luật bảo vệ NTD
và pháp luật cạnh tranh. Như vậy, NTD không chỉ được bảo vệ bởi Luật bảo vệ
NTD, mà còn được bảo vệ bởi nhiều chế định pháp luật khác nhau, trong đó có cả
pháp luật cạnh tranh.
+ Tác giả Nguyễn Như Phát, trong bài viết “Pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh”, bài đăng trong cuốn: "Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh ở
Việt Nam hiện nay", NXB. Công an nhân dân, HN. 2001. (tr. 239-267). Trong đó,
tác giả đã khái quát lịch sử hình thành của pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh và pháp luật về kiểm soát độc quyền, cũng như điểm qua hình thức thể hiện
của pháp luật cạnh tranh của một số quốc gia Châu Âu như : Pháp, Đức, Italia và
Anh. Bài viết rất có giá trị khoa học và là đóng góp không nhỏ cho quá trình soạn
thảo cũng như ban hành Luật Cạnh tranh ở nước ta. Ngoài ra, bài viết đã thể hiện
cái nhìn đa chiều và khá bao quát những hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm
phạm đến quyền lợi NTD. Với một số quy định của Luật thương mại và những quy
định của pháp luật về quảng cáo, vẫn chưa đủ sức để chống lại các dạng hành vi
cạnh tranh không lành mạnh xâm hại đến quyền lợi NTD đang diễn ra khá nhức
nhối trong thương trường hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đề nghị cần đưa những
hành vi này vào Luật Cạnh tranh để bảo đảm hơn quyền lợi của NTD.
+ Bài viết Thạc sĩ Ngô Vĩnh Bạch Dương, “Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong pháp luật cạnh tranh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11 năm 2000.
Theo tác giả, một trong những nguyên tắc cơ bản của tự do cạnh tranh là sự tự do
hợp đồng, theo đó người tiêu dùng được tự do lựa chọn nhà cung cấp để mua hàng
12
- Xem thêm -