1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
PHẠM THỊ NHÃ TRÚC
NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP CAN THIỆP NHẰM
GIẢM NGUY CƠ SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE
TẠI HUYỆN GIÁ RAI, TỈNH BẠC LIÊU
CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG
MÃ SỐ: 62 72 76 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
Giáo viên hướng dẫn:
PGS.TS. PHẠM TRÍ DŨNG
Hà Nội - 2014
2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là một trong những bệnh truyền nhiễm do
virus Dengue được truyền từ muỗi Aedes aegypti gây nên. Theo Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO), bệnh xảy ra ở khắp mọi nơi từ thành thị đến nông thôn như Châu Phi,
Châu Mỹ, Tây Địa Trung Hải… Tuy nhiên, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương
vẫn là hai nơi có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất. Ngày nay SXHD có xu hướng lan rộng ra
nhiều vùng khác nhau trên thế giới. Trong năm 2003 chỉ có 8/10 quốc gia trong khu
vực Đông Nam Á có lưu hành dịch SXHD. Tính đến năm 2006, 10/10 quốc gia
trong khu vực đã xuất hiện dịch [167].
Bệnh SXHD có nhiều trường hợp diễn biến nhẹ nhưng cũng có nhiều trường
hợp diễn biến rất phức tạp và nghiêm trọng. Trong vòng 20 năm (1980 - 1999) số
trường hợp mắc đã tăng lên 5 lần so với 30 năm trước đó. Tại Việt Nam, bệnh
SXHD đã trở thành một bệnh dịch lan truyền rộng rãi, là vấn đề y tế quan trọng vì tỉ
lệ mắc và tử vong cao nếu chúng ta không phát hiện, xử trí đúng và phòng chống
kịp thời [36], [69], [124], [166]. Năm 1999, chương trình Quốc gia phòng chống
bệnh SXHD tại Việt Nam đã triển khai với mục tiêu giảm chết, giảm mắc, không để
dịch xảy ra và xã hội hóa hoạt động phòng chống SXHD [86]. Từ khi triển khai
chương trình đến nay, thực trạng hoạt động phòng chống SXHD cho thấy số chết do
SXHD có chiều hướng giảm nhưng số mắc không giảm nhiều. Do đó, trong những
năm gần đây phòng chống SXHD là vấn đề y tế được nước ta đặt lên hàng đầu, tỷ lệ
mắc SXHD tập trung nhiều nhất ở khu vực phía Nam, đặc biệt là tại các tỉnh ở khu
vực Đồng bằng Sông Cửu Long, nơi thường xuyên xuất hiện bệnh quanh năm gây
nguy hiểm cho cộng đồng [86].
Cung cấp kiến thức ban đầu cho người dân để nhận biết được những yếu tố
nguy cơ gây ra bệnh SXHD sẽ rất có ích cho việc phòng bệnh tại cộng đồng. Nhiều
nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành phòng bệnh SXH đã thực hiện ở nước ta
trong nhiều năm qua cho thấy kiến thức, thái độ của người dân trong việc phòng
bệnh là không thấp nhưng thực hành phòng chống bệnh của người dân vẫn chưa cao
và tỷ lệ này thay đổi ở từng địa phương. Từ kết quả nghiên cứu kiến thức, thái độ,
thực hành phòng chống SXHD của người dân tại một huyện thuộc địa bàn tỉnh Bạc
Liêu cho thấy thực hành phòng chống SXHD của người dân vẫn chưa cao (chiếm
3
60,9%) và 91,7% ổ bọ gậy tập trung trong các DCCN trong và xung quanh nhà, thái
độ về phòng bệnh chỉ chiếm 53,6% [56]. Tại Bạc Liêu mặc dù đã triển khai nhiều
hoạt động phòng bệnh của chương trình PCSXH quốc gia nhưng số ca mắc SXHD
vẫn còn trên 1.000 ca mắc hàng năm [74], [75], [76], [77], [78], [79], cao điểm năm
2008 có 4.024 ca mắc [76]. Chính vì vậy, chúng tôi đã triển khai nghiên cứu được
thực hiện tại địa phương với mục tiêu tìm ra giải pháp can thiệp phù hợp nhằm giảm
các chỉ số vectơ truyền bệnh trong cộng đồng. Huyện Giá Rai là một trong các
huyện của tỉnh Bạc Liêu có tỷ lệ mắc SXHD cao nhất nhì trong các huyện của Bạc
Liêu trong nhiều năm liền [57]. Bên cạnh đó, Giá Rai là huyện có đặc điểm bán
thành thị và nông thôn nên rất dễ nhân rộng giải pháp can thiệp cho các huyện khác
và thành phố. Chính vì vậy, chúng tôi đã chọn huyện Giá Rai để thử nghiệm can
thiệp.
Câu hỏi đặt ra là tình hình dịch bệnh SXHD giai đoạn 2006 - 2012 đã diễn ra
như thế nào? Những yếu tố nào liên quan đến tình hình gia tăng dịch bệnh SXHD ở
Bạc Liêu? Giải pháp can thiệp nào là phù hợp và được cộng đồng chấp nhận trong
công tác phòng chống bệnh SXHD? Sau can thiệp thử nghiệm các giải pháp tại
cộng đồng thì chỉ số của giải pháp can thiệp nào đạt hiệu quả can thiệp cao? Làm
thế nào để duy trì các giải pháp can thiệp sau khi kết thúc chương trình nghiên cứu?
Để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu chúng tôi đã tiến hành đưa ra thử nghiệm các
giải pháp can thiệp cho huyện Giá Rai nói riêng và tỉnh Bạc Liêu nói chung. Với
các lý do trên chúng tôi đã tiến hành: “Nghiên cứu giải pháp can thiệp nhằm giảm
nguy cơ sốt xuất huyết Dengue tại huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu”.
4
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mô tả đặc điểm dịch tễ sốt xuất huyết Dengue tại tỉnh Bạc Liêu giai đoạn
2006 – 2012 và một số yếu tố liên quan.
2. Xây dựng và triển khai thử nghiệm giải pháp can thiệp tại cộng đồng góp
phần hạn chế dịch sốt xuất huyết Dengue trên địa bàn huyện Giá Rai, tỉnh
Bạc Liêu.
3. Đánh giá hiệu quả can thiệp và khả năng duy trì các giải pháp tại xã Phong
Thạnh Đông A, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu sau hai năm can thiệp.
5
Chương I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giới thiệu sốt xuất huyết Dengue (SXHD)
Theo hướng dẫn giám sát và phòng chống sốt xuất huyết Dengue (SXHD),
Bộ Y tế đã định nghĩa bệnh SXHD là bệnh nhiễm virus Dengue cấp tính do muỗi
truyền và có thể gây thành dịch lớn [18]. Nói cách khác, SXHD là một thể bệnh với
những biểu hiện lâm sàng khác nhau và với sự biến đổi không thể dự đoán trước
được về lâm sàng và hậu quả của nó [110], [161]. Bệnh được truyền qua vết đốt của
muỗi vằn Aedes aegypti. Virus Dengue thuộc nhóm Flaviviridae với 4 type huyết
thanh DEN - 1, DEN - 2, DEN - 3, DEN - 4. Khi vào cơ thể, virus nhân lên trong tế
bào bạch cầu đơn nhân để gây bệnh. Trước đây, SXHD chủ yếu là bệnh ở vùng
nhiệt đới và cận nhiệt đới nhưng ngày nay virus Dengue đã bắt đầu lan tràn khắp
nơi trên thế giới [173].
Vào những năm 1778 - 1780, những vụ dịch SXHD đầu tiên được ghi nhận
xảy ra ở Châu Á, Châu Phi và Bắc Mỹ. Sự xuất hiện gần như đồng thời của các vụ
dịch trên ba lục địa khác nhau chứng tỏ rằng virus gây bệnh cũng như vectơ truyền
bệnh đã phân bố rộng rãi trên toàn thế giới từ hơn 200 năm trước. Vào thời gian này
SXHD chỉ được xem là một bệnh nhẹ. Một vụ đại dịch SXHD xuất hiện ở Đông
Nam Á sau Chiến tranh thế giới thứ II và từ đó lan rộng trên toàn cầu [173].
Tại khu vực Đông Nam Á, virus Dengue lần đầu tiên được phát hiện ở
Philippines vào năm 1950 nhưng đến năm 1970 bệnh đã trở thành nguyên nhân
nhập viện và tử vong thường gặp ở trẻ em trong khu vực [110]. Tỷ lệ mắc bệnh trên
toàn thế giới đã gia tăng mạnh mẽ trong những năm gần đây. Trước năm 1970, trên
thế giới chỉ có 9 quốc gia có dịch lưu hành. Con số này đã tăng lên hơn 4 lần vào
năm 1995. Nhìn chung, trong hơn 50 năm qua, tỷ lệ mắc SXHD đã tăng lên 30 lần
và lan nhanh ra hơn 60 quốc gia trên thế giới, bệnh xuất hiện ở cả vùng thành thị và
nông thôn [169].
Qua đánh giá của WHO, ước tính hàng năm có khoảng 50 triệu người nhiễm
virus Dengue và 2,5 tỷ người đang sống trong vùng lưu hành SXHD. Không chỉ có
số trường hợp mắc bệnh gia tăng mà khả năng nhiễm nhiều loại virus khác nhau
cũng ngày càng đáng báo động. Hàng năm có khoảng 500.000 trường hợp SXHD
6
cần nhập viện, phần lớn trong số đó là trẻ em; tỷ lệ tử vong chung vào khoảng
2,5%. Nếu không được điều trị đúng và kịp thời, tỉ lệ tử vong của SXHD có thể
vượt quá 20%. Trong các vụ dịch, tỷ lệ mắc bệnh ở những đối tượng nhạy cảm
thường là 40 - 50% nhưng cũng có thể cao đến 80 - 90% [142], [161], [172].
Ngày nay, SXHD hiện đã trở thành dịch trên 100 quốc gia ở Châu Phi, Châu
Mỹ, khu vực phía Đông Địa Trung Hải, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương,
trong đó Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương là hai khu vực chịu ảnh hưởng
nặng nề nhất [141].
1.1.1. Tình hình sốt xuất huyết Dengue trên thế giới
Năm 1987, tại Thái Lan báo cáo có 175.000 ca mắc và 1.000 ca tử vong. Đến
năm 1996, tại Brazil có 180.000 ca mắc, tiếp theo là các nước như Mỹ Latinh, các
nước Đông Nam Á và khu vực Tây Thái Bình Dương đã báo cáo có 1.300.000 ca
mắc và 3.500 ca tử vong vào năm 1998 [122], [174].
Năm 2001, tại Brazil chu kỳ dịch đã lặp lại và tăng một cách đáng kể so với
năm 1996 là gần 400.000 trường hợp mắc bệnh, đặc biệt đã thấy các trường hợp
xuất huyết nặng ở người lớn. Đến năm 2007, một vụ dịch lớn đã xảy ra tại
Singapore, Campuchia, Malaysia, Philippines và Việt Nam với hơn 133.000 trường
hợp lâm sàng được báo cáo và 850 trường hợp tử vong [122], [174].
400
1.4
Số ca mắc (x1000)
1.2
Tỷ suất tử vong (%)
Số ca mắc (x1000)
300
1
250
0.8
200
0.6
150
0.4
100
Tỷ suất tử vong (%)
350
0.2
50
0
2011
2010
2009
2008
2007
2006
2005
2004
2003
2002
2001
2000
1999
1998
1997
1996
1995
1994
1993
1992
1991
0
Năm
Biểu đồ 1.1. Số trường hợp mắc/chết SXHD ở khu vực Tây Thái Bình Dương,
giai đoạn 1991 - 2011 (Nguồn: WHO Western Pacific Regional Office) [174]
Đến năm 2011, các nước thuộc khu vực Tây Thái Bình Dương đã xảy ra
244.880 trường hợp mắc, trong đó 839 ca tử vong, tỷ lệ chết/mắc là 0,34%. Tại
7
Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Philippines, Marshall, Singapore và Việt
Nam có hơn 1.000 trường hợp mắc vào năm 2011, số trường hợp mắc cao hơn so
với năm 2010. Bên cạnh đó, có sự biến đổi lớn giữa các quốc gia trong khu vực về
phân phối type huyết thanh. Tại Campuchia năm 2011 có 15.980 trường hợp mắc và
73 trường hợp tử vong với cao điểm dịch vào tháng 7. Nhóm mắc bệnh là nam vị
thành niên và người lớn chiếm tỷ lệ cao hơn nữ. Có sự phân bố đầy đủ 4 type huyết
thanh qua kết quả giám sát huyết thanh và phân lập virus: 77% type DEN - 1; 19%
type DEN - 2; 2% type DEN - 3 và 2% type DEN - 4. Tại Lào có số mắc thấp hơn
Campuchia với 3.905 trường hợp mắc và 7 trường hợp tử vong với một đỉnh dịch
xảy ra trong tháng chín. Riêng Philippine năm 2011 đã có số ca mắc cao nhất trong
khu vực với 125.975 trường hợp mắc và 654 ca tử vong, cao điểm dịch xảy ra vào
tháng 8. Số trường hợp mắc ở nam thanh niên cao hơn nữ thanh niên. Không có sự
phân bố đầy đủ 4 type huyết thanh ở quốc gia này, chủ yếu là DEN - 1 (44%),
DEN - 3 (43%) và DEN - 2 (13%) [174].
Tại khu vực Đông Nam Á, từ năm 2000 đến nay SXH đã lan nhanh ra toàn
khu vực. Năm 2003, có 8 quốc gia trong khu vực có dịch SXH là: Bangladesh, Ấn
Độ, Indonesia, Maldives, Myanmar, Sri Lanka, Thái Lan và Timor - Leste. Tại
Nepal đã xuất hiện trường hợp SXH lần đầu tiên vào tháng 11/2006. Riêng Hàn
Quốc là nước duy nhất của khu vực Đông Nam Á là không có SXH. Các nước nằm
trong khu vực nhiệt đới gió mùa và xích đạo như Indonesia, Myanmar, Sri Lanka,
Thái Lan và Timor - Leste xem dịch SXH là một vấn đề y tế công cộng lớn [169].
400000
Số ca mắc
300000
Số ca mắc
2000
Số ca chết
250000
1500
200000
1000
150000
100000
Số ca chết
350000
2500
500
50000
0
0
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Năm
Biểu đồ 1.2. Số trường hợp mắc và chết ở khu vực Đông Nam Á [103]
(Nguồn: WHO Regional Office for South - East Asia, New Delhi)
8
Chu kỳ bùng phát dịch SXHD thường xuất hiện lặp lại 5 đến 6 năm một lần.
Mặc dù đã có những vụ dịch xuất hiện, nhưng vẫn còn một số lượng lớn người cảm
nhiễm luôn tồn tại trong quần thể, lý do là vì có tới 4 chủng virus gây bệnh và vì số
người cảm nhiễm mới luôn gia tăng trong quần thể, thông qua số sinh mới và qua
nhập cư từ nơi khác tới [35].
Công tác phòng chống dịch SXH đã được thực hiện thông qua Chiến Lược
Phòng Chống Dengue giai đoạn 2008 - 2015 của WHO tại khu vực Đông Nam Á và
khu vực Tây Thái Bình Dương. Chiến lược này nhằm chuẩn bị đối phó với các mối
đe dọa ngày càng tăng của bệnh SXH với nguy cơ lan rộng đến các khu vực địa lý
mới và gây tử vong cao trong giai đoạn đầu dịch [98]. Theo báo cáo của WHO, năm
2010 đã xảy ra số trường hợp mắc SXHD cao nhất ở khu vực Đông Nam Á tính từ
năm 2003 đến nay, số trường hợp mắc cao nhất là 355.525 trường hợp và tử vong
1982 ca (biểu đồ 1.2) [103]. Sau năm 2010 thì xu hướng dịch giảm, có thể do đây là
năm chu kỳ dịch. Tuổi mắc SXHD có thay đổi, gặp nhiều ở trẻ trên 15 tuổi, tuổi
trung bình mắc SXHD là 31,59 đến 35,42 [155].
Theo WHO, mục tiêu của Chiến lược phòng chống SXHD toàn cầu là giảm
bùng phát dịch trên thế giới. Đến năm 2020, giảm tỷ lệ mắc xuống thấp nhất dưới
50% và tỷ lệ tử vong dưới 25% (tính từ năm 2010) [170]. Để làm được điều này thì
hiệu quả huy động cộng đồng là một chỉ số đánh giá đã được chứng minh từ nhiều
nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về sự thay đổi hành vi của người dân.
1.1.2. Tình hình sốt xuất huyết Dengue ở Việt Nam
Gánh nặng bệnh truyền nhiễm luôn là mối đe dọa lớn đối với sức khỏe cộng
đồng ở tất cả các nước trên thế giới. Tại Việt Nam, bệnh SXHD là một bệnh truyền
nhiễm đã và đang tái nổi, tuy con số tử vong do bệnh này là không cao bằng các
bệnh truyền nhiễm khác như HIV/AIDS... nhưng số mắc bệnh xảy ra hàng năm là
không nhỏ, khoản kinh phí hàng năm phải chi trả cho công tác phòng chống bệnh và
dập dịch là rất lớn. Năm 2011, tổng ngân sách phải bỏ ra cho kế hoạch hoạt động
phòng chống bệnh và dập dịch SXHD là 105 tỷ đồng [15]. Chính vì vậy, có thể xem
bệnh SXHD là một trong những bệnh truyền nhiễm mang lại gánh nặng rất lớn cho
Y tế quốc gia.
Qua tài liệu của Đỗ Quang Hà, vụ dịch SXHD đầu tiên xảy ra ở miền Bắc
vào năm 1958 được Chu Văn Tường và Mihow thông báo vào năm 1959, ở miền Nam
vào năm 1960 với 60 bệnh nhân nhi tử vong [27]. Từ đó bệnh trở thành dịch lưu hành
9
địa phương ở vùng châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long và dọc theo bờ biển miền
Trung. Bệnh không chỉ xuất hiện ở đô thị mà cả ở vùng nông thôn, nơi có muỗi
truyền bệnh SXHD [67]. Đây là bệnh gây tử vong hàng đầu trong tổng số 24 bệnh
truyền nhiễm phải báo cáo theo qui định của Bộ Y tế Việt Nam. Sau năm 1963, dịch
SXHD đã xảy ra liên tiếp ở 19 tỉnh, thành khu vực phía Bắc. Từ năm 1970 đến năm
1974, tại Hà Nội bắt đầu xuất hiện các vụ dịch lẻ tẻ ở một số điểm trong nội thành
Hà Nội với số bệnh nhân từ vài chục tới hàng trăm trường hợp phải vào bệnh viện
để điều trị. Trong thời gian đó dịch cũng lan nhanh ra các thành phố, thị xã, thị trấn
và cả vùng nông thôn.
Trong những năm đầu, SXHD chỉ xuất hiện ở một vài địa phương với các ổ
dịch nhỏ, số người mắc bệnh ít nhưng tỷ lệ tử vong cao. Nhưng về sau, dịch càng
lan rộng, với số người mắc bệnh ngày càng nhiều. Ðỉnh cao là vào các năm 1983,
1987 với qui mô toàn quốc. Tỷ lệ mắc bệnh chung cho cả nước từ năm 1981 đến
1987 là 41,02 ca mắc/100.000 dân đến 462,24 ca mắc/100.000 dân. Do công tác
điều trị đạt được nhiều tiến bộ nên tỷ lệ tử vong bắt đầu giảm từ 2,7 ca/100.000 dân
trong năm 1983 xuống còn 0,16 ca/100.000 dân vào 1994. Tỷ lệ mắc bệnh giữa các
năm và giữa các vùng miền trong nước dao động rất khác nhau. Tỷ lệ mắc bệnh ở
miền Nam thường cao hơn nhiều lần so với miền Trung và miền Bắc. Kết quả theo
dõi những năm có dịch lớn (1983, 1987, 1991) cho thấy miền Nam có 87,2% số
huyện thị xuất hiện bệnh; tỷ lệ này ở miền Bắc là 59,5%; miền Trung là 58,7%; Tây
nguyên chỉ có 29,5%. Kết quả khảo sát những vùng này đều thấy sự hiện diện của
trung gian truyền bệnh là muỗi vằn Aedes aegypti với mật độ cao. Càng về sau,
bệnh tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Trung và Nam. Đến năm 1995 - 1996, tỷ lệ
mắc bệnh ở miền Nam cao hơn miền Bắc (66 - 67% so với 2 - 3%) [44].
Trước năm 1990, bệnh SXHD mang tính chất chu kỳ tương đối rõ rệt, với
khoảng cách trung bình 3 - 4 năm. Sau năm 1990, bệnh xảy ra liên tục với cường độ
và qui mô ngày một gia tăng, trung bình 10 năm lại xuất hiện cao điểm dịch. Vụ
dịch lớn đã xảy ra vào năm 1998 với 234.920 trường hợp mắc, 377 trường hợp tử
vong, tỷ lệ mắc là 306,3 trường hợp/100.000 dân, tỷ lệ chết/mắc là 0,19%. Từ năm
2000 đến 2011, tình hình nhiễm SXHD ở Việt Nam không ổn định nhưng thời kỳ
cao điểm của dịch SXHD là từ tháng 6 đến tháng 10 hàng năm. Gần như tất cả các
ca mắc SXHD và tử vong đều ở các tỉnh phía Nam. Trong giai đoạn từ 2001 đến
2011 có 76,9% ca mắc sốt xuất huyết và 83,3% ca tử vong do sốt xuất huyết là ở 20
10
tỉnh phía Nam [96]. Khoảng 90% số ca tử vong do SXHD là ở nhóm tuổi dưới 15.
Chu kỳ dịch SXHD có khoảng cách xảy ra muộn hơn một năm so với giai đoạn
trước năm 1990, thường xảy ra theo chu kỳ từ 3 đến 5 năm một lần. Năm 2000, số
trường hợp tử vong do SXHD ở khu vực phía Nam chiếm tỷ lệ trên 80% tổng số tử
vong của cả nước [65]. Giai đoạn từ năm 1999 - 2003, số mắc trung bình hàng năm
đã giảm đi chỉ còn 36.826 trường hợp và số tử vong là 66 trường hợp. Tuy nhiên từ
năm 2004 đến nay số mắc và số tử vong do SXHD có xu hướng gia tăng. Năm 2006
cả nước đã ghi nhận 77.818 trường hợp mắc SXHD, trong đó 68 ca tử vong, tỷ lệ mắc
88,6 trường hợp/100.000 dân và tỷ lệ chết/mắc là 0,09% [7], [8]. Đến năm 2010, số
mắc SXHD của cả nước tiếp tục tăng lên, ghi nhận có 128.710 ca mắc, trong đó 109
trường hợp tử vong, tỷ lệ mắc lên tới 146,69 trường hợp/100.000 dân và tỷ lệ
chết/mắc là 0,85% [13]. Đến năm 2011, số trường hợp mắc bệnh đã giảm gần một nữa
so với năm 2010, nguyên nhân là có thể do số trường hợp mắc bệnh năm 2010 đã được
miễn dịch ở cộng đồng, mặt khác năm 2011 không còn nằm trong chu kỳ dịch chung
của cả nước (biểu đồ 1.3). Nhìn chung, Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát
tỷ lệ tử vong do SXHD nhưng vẫn chưa đạt được nhiều thành công trong việc giảm
số ca mắc SXHD [96].
200
120000
160
100000
80000
120
60000
80
40000
40
20000
0
Số trường hợp chết SD/SXHD
Số trường hợp mắc SD/SXHD
140000
0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Số mắc
Số chết
Biểu đồ 1.3. Tình hình mắc và chết sốt xuất huyết ở Việt Nam, 2000 - 2012 [2],
[3], [4], [5], [6], [7, 8], [10], [11], [12], [13], [16], [19]
(Nguồn: Niên giám thống kê các bệnh truyền nhiễm từ năm 2000 đến năm 2012)
11
Bên cạnh đó, sự biến đổi của khí hậu cũng đã mang tới những thách thức
mới trong việc kiểm soát các bệnh truyền nhiễm [160]. Đặc tính của vectơ truyền
bệnh SXHD thích ứng rất tốt với môi trường đô thị và nó sinh sản trong các DCCN
sạch. SXHD là bệnh theo mùa và thường liên quan tới thời tiết nóng và ẩm ướt.
Tính chất mùa của SXHD đã được nghiên cứu ở nhiều nước trong khu vực Đông
Nam Á chứng minh rằng số trường hợp mắc SXHD ở khu vực Đông Nam Á tăng
theo lượng mưa và quần thể vectơ, trong đó số bệnh nhân tăng sau lượng mưa
khoảng một tháng [99], [156]. Do đó, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lên bệnh
SXHD phụ thuộc vào cả 2 yếu tố: lượng mưa và nhiệt độ [55], [105], [128], [139].
Trong đó, nhiệt độ đóng vai trò quan trọng trong việc lan truyền virus Dengue bởi
sự ảnh hưởng của nó tới việc phân bố, khả năng hút máu của vectơ, giai đoạn ủ
bệnh trong muỗi và đời sống muỗi trưởng thành. Thời gian cần cho virus tới tuyến
nước bọt muỗi thay đổi theo nhiệt độ và có tầm quan trọng trong việc gây nên sự
lưu hành. Nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới sự trưởng thành của muỗi, nhiệt độ cao
trứng nở nhanh hơn. Nhiệt độ cao hơn muỗi cần hút máu nhiều hơn để cung cấp
protein cho quá trình sản xuất trứng. Nhiệt độ từ 16oC đến 20oC bọ gậy phát triển
nhanh, song ở 26oC là nhiệt độ tốt nhất cho sự phát triển. Còn đối với sự phát triển
của virus, nhiệt độ phù hợp là 22oC. Chính điều này đã làm tăng số lượng cá thể bị
nhiễm và tăng khả năng truyền bệnh của vectơ theo mùa [117].
Theo nghiên cứu về vectơ truyền bệnh SXHD ở Argentina, mật độ sinh sản
cao nhất của muỗi là sau hàng loạt tháng có nhiệt độ trung bình trên 20oC và lượng
mưa trên 150 mm [105]. Trong những năm gần đây, khí hậu Việt Nam đang ấm dần
lên tạo điều kiện cho sự truyền bệnh SXH càng gia tăng. Theo Bộ Tài Nguyên Môi
trường, từ năm 2010 - 2020, nhiệt độ trung bình của Việt Nam sẽ còn tiếp tục tăng
trên 1,5oC. Qua đấy có thể thấy sự gia tăng nhiệt độ ở Việt Nam tỷ lệ thuận với mật
độ và khả năng phát triển của muỗi Aedes aegypti.
12
8.5%
6.1%
84.4%
1.0%
South
Nam
High
land
Tây nguyên
Central
Trung
North
Bắc
Biểu đồ 1.4. Phân bố ca mắc SXHD theo vùng miền [43]
(Nguồn: Báo cáo Tổng quan các bệnh truyền nhiễm mới nổi – Hội nghị Khoa học
chuyên ngành YTCC tại trường ĐHYD TPHCM)
Bệnh SXHD ở Việt Nam phát triển theo mùa và cũng có sự khác biệt giữa
miền Bắc và miền Nam, 84,4% ca SXH xuất hiện ở khu vực phía Nam. Ở miền Bắc
thuộc vùng khí hậu á nhiệt đới, bệnh thường xảy ra từ tháng 4 đến tháng 11, những
tháng khác bệnh ít xảy ra vì thời tiết lạnh, ít mưa, không thích hợp cho sự sinh sản
và hoạt động của muỗi Aedes aegypti. Bệnh phát triển nhiều hơn từ tháng 6 đến
tháng 10 và đỉnh cao vào tháng 7, 8, 9 và 10. Ở miền Nam và Nam Trung bộ bệnh
SXHD xuất hiện trong suốt năm với tần số mắc nhiều hơn vào tháng 4 đến tháng
11, đỉnh cao cũng vào các tháng 7, 8, 9 và 10 [52], [55]. Chỉ số mật độ muỗi ở miền
Nam cao hơn từ 4 - 9 lần so với khu vực miền Bắc. Chu kỳ dịch trung bình khoảng
từ 3 đến 5 năm, dịch có thể lan rộng và có thể ảnh hưởng tới số đông dân cư.
Qua số liệu thống kê cho thấy, tuổi mắc bệnh có sự khác biệt giữa các miền.
Ở miền Bắc Việt Nam, nơi có bệnh lưu hành thấp thì tất cả các lứa tuổi đều có thể
bị mắc bệnh, 85% nhóm tuổi mắc bệnh trên 15 tuổi [114]. Ngược lại, ở miền Nam
bệnh lưu hành cao, lứa tuổi mắc bệnh phần lớn là trẻ em dưới 15 tuổi [52], [55]. Tỷ
lệ mắc bệnh ở nhóm trẻ dưới 15 tuổi trong cả nước là 69,8%, trong đó ở khu vực
phía Nam tỷ lệ này là 86,7%, ở miền Trung là 71,6% và miền Bắc là 41,1% [44].
13
1.2. Dịch tễ SXHD ở khu vực phía Nam Việt Nam
1.2.1. Đặc điểm dịch tễ SXHD theo thời gian và con người
Mặc dù Việt Nam đã nỗ lực thực hiện nhiều biện pháp nhưng SXHD vẫn còn
là một vấn đề y tế công cộng to lớn. Số tử vong do SXHD ở khu vực phía Nam
chiếm tỉ lệ trên 80% tổng số tử vong của cả nước. Năm 1998, tại khu vực miền Nam
đã xảy ra nhiều vụ dịch lớn với 455,7 ca mắc/100.000 dân và 347 ca tử vong, tỷ lệ
chết/mắc là 0,3%. Xu hướng gia tăng tỷ lệ mới mắc bệnh SXHD được ghi nhận kể
từ 2005 cho đến nay. Tỷ lệ mắc/100.000 dân có giảm so với năm 1998
(455,7/100.000 dân) và năm 1997 (319,9/100.000 dân) nhưng tăng so với trung bình
các giai đoạn 1996-2005 và giai đoạn 2000 - 2005; đặc biệt tăng nhiều nhất là so
với giai đoạn 5 năm gần đây nhất (2003 - 2007) là 31%. Điều này cho thấy mục tiêu
mà Dự án SXH quốc gia đưa ra là giảm 15% tỷ lệ mắc/100.000 dân so với giai đoạn
2003 - 2010 đã là một thách thức lớn cho công tác phòng chống SXH tại khu vực
phía Nam [92]. Đặc biệt sau 10 năm (1998 - 2007), cả nước đã xuất hiện lại cao điểm
dịch lớn, ghi nhận 104.464 trường hợp mắc SXHD, trong đó 88 ca tử vong, tỷ lệ mắc
lên tới 122,61 trường hợp/100.000 dân và tỷ lệ chết/mắc là 0,08% (biểu đồ 1.5) [25,
92], [9], [10], [12], [43], [89] ,[91].
450
số mắc/100000
350
400
số chết
300
350
300
250
250
200
200
150
150
Số ca chết do SXHD
400
100
100
2012
2011
2010
2009
2008
2007
2006
2005
2004
2003
2002
2001
2000
0
1999
0
1998
50
1997
50
1996
Số ca mắc SXHD/100.000 dân
500
Năm
Biểu đồ 1.5. Tình hình mắc, chết SXHD khu vực phía Nam , 1996 - 2012
Trong năm 2008, tại khu vực phía Nam số mắc SXHD là 12.533 ca, trong đó
trẻ dưới 15 tuổi chiếm 70% số mắc. Có 08/20 tỉnh có số ca mắc SXHD tăng so với
2007 là Bạc Liêu, Bến Tre, Bình Dương, Bình Phước, Cà Mau, Đồng Nai, Sóc
14
Trăng, Tiền Giang và thành phố Hồ Chí Minh với hơn 3.000 trường hợp mắc
SXHD. Tỷ lệ chết/sốc (độ III, IV) là 0,97% [92]. Tình hình mắc, chết do SXHD giai
đoạn 2005 - 2008 tại khu vực phía Nam cho thấy chưa có dấu hiệu khả quan. Xu
hướng số mắc và số tử vong vẫn còn cao. Năm 2008, tỷ lệ mắc/100.000 dân toàn
khu vực là 248/100.000 dân, tính từ năm 1998 (giai đoạn bắt đầu triển khai Chương
trình mục tiêu phòng chống SXH quốc gia), đây là năm có tỷ lệ mắc/100.000 dân
khá cao, chỉ đứng sau năm 2007. Năm 2011, tổng số ca mắc SXHD được báo cáo là
60.596 ca, trung bình là 1.165 ca mắc/tuần [7], [10], [11], [13], [22]. Kể từ sau
tháng 8/2012 thì số ca mắc giảm đều ở các tháng tiếp theo và thấp hơn ngưỡng
cảnh báo (đường cong chuẩn giai đoạn 2005 - 2010). Điều này cho thấy hoạt động
can thiệp và chống dịch tại khu vực phía nam trong năm 2012 đã được triển khai kịp
thời và có tác động rõ rệt khiến đường cong dự báo dịch SXHD không tăng cao
trong các tháng cao điểm tiếp theo.
Biểu đồ 1.6. Phân bố số ca mắc SXHD theo tháng tại các tỉnh khu vực phía Nam
năm 2012 so với năm 2011 và đường cong chuẩn 2005 - 2010 [91]
Theo nhiều kết quả nghiên cứu ở khu vực phía Nam cho thấy bệnh xuất hiện
vào tất cả các tháng trong năm với tần suất thấp nhất ở các tháng 2, 3, 4 (chiếm
10,3% số mắc cả năm), có chiều hướng gia tăng từ tháng 5, tăng dần trong tháng 6
và cao điểm trong các tháng mưa nhiều: 7, 8, 9, 10. Điều này thể hiện tính phân bố
theo mùa của SXHD cho đến nay vẫn không thay đổi [31], [46], [84]. Kết quả này
15
không khác biệt nhiều với khu vực phía Bắc. Tại Nghệ An từ năm 2001 - 2010, dịch
SXH thường xảy ra ở Nghệ An với chu kì 2 - 3 năm. Dịch xuất hiện vào tháng 5, tăng
mạnh ở tháng 7, đạt đỉnh cao tháng 8 - 9, giảm dần vào tháng 10 - 11. Sự xuất hiện
bệnh SXH phụ thuộc vào nhiệt độ, lượng mưa, độ ẩm, các chỉ số về mật độ muỗi, mật
độ bọ gậy [54].
Trong một nghiên cứu hồi cứu các trường hợp tử vong do SXHD của 19 tỉnh
thành phía Nam năm 2000 cho thấy: Lứa tuổi tử vong tập trung chủ yếu ở trẻ dưới
15 tuổi (93%), đặc biệt ở trẻ 5 - 9 tuổi; 81,6% các ca tử vong thuộc các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long; 58,1% số ca tử vong diễn ra trong 24 giờ đầu nhập viện; 93%
các trường hợp tử vong diễn ra trong ngày thứ 3 đến ngày thứ 6 của bệnh; đa số các
ca tử vong xảy ra ở bệnh viện tỉnh (58,1%), kế đến là bệnh viện huyện (37,2%)
[65].
Năm 2005, một kết quả nghiên cứu tại Khánh Hòa cũng đã chứng minh cho
thấy bệnh nhân mắc bệnh chủ yếu dưới 15 tuổi (chiếm 77,2%), nhóm trên 15 tuổi
chỉ chiếm 22,9%, nhóm tuổi mắc cao nhất là 6 -10 tuổi chiếm 32,5% [31]. Tuy
nhiên, trong một nghiên cứu dịch tễ SXHD tại tỉnh Tiền Giang giai đoạn
2001 - 2006 cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm trên 15 tuổi có xu hướng tăng chiếm
35,7% trong tổng số, so với giai đoạn 1996 - 2000 tỷ lệ này là 23,8% [46]. Kết quả
này cho thấy từ năm 2000 đã có sự biến động về type virus ở các vùng khác nhau
trong khu vực phía Nam.
Bảng 1.1. Đặc tính dịch tễ SXHD được chẩn đoán theo giới và tuổi [22]
Sốt Dengue
Sốt xuất huyết Dengue
Tổng
n
%
n
%
n
%
Nam
10
38,5
186
47,8
196
47,2
Nữ
16
61,5
203
52,2
219
52,8
Tổng
26
100
389
100
415
100
< 15
13
52,0
243
62,8
256
62,1
≥ 15
12
48,0
144
37,2
156
37,9
Tổng
25
100
387
100
412
100
Giới
Tuổi
Năm 2008, qua kết quả giám sát của một nhóm nghiên cứu về tình hình mắc
SXHD ở khu vực phía Nam cho thấy tỉ số mắc bệnh giữa nữ và nam gần bằng 1,
16
không có sự thay đổi nhiều về nhóm tuổi mắc bệnh so với những năm trước, nhóm
trẻ dưới 15 tuổi có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn nhóm trên 15 tuổi (bảng 1.1) [22].
Năm 2009, một nghiên cứu về dịch tễ SXHD được triển khai tại Đồng Nai một lần
nữa cho thấy sự thay đổi rõ về nhóm tuổi mắc bệnh có sự khác nhau ở các tỉnh
thành phía Nam, nhóm tuổi mắc nhiều nhất là từ 16 tuổi trở lên (47,43%), trong
nhóm dưới 15 tuổi thì trẻ từ 5 - 10 tuổi chiếm tỷ lệ mắc cao nhất (21,25%). Tuổi
mắc thấp nhất là 9 tháng tuổi và cao nhất là 69 tuổi. Có sự khác biệt giữa giới mắc
bệnh, tỷ lệ nam mắc nhiều hơn nữ, chiếm 55,48% [84].
1.2.2. Đặc điểm tác nhân truyền bệnh và sinh thái của véctơ
Bệnh SXHD không truyền trực tiếp từ người sang người mà do muỗi đốt
bệnh nhân rồi truyền virus sang người lành qua vết đốt của muỗi Aedes sp cái, muỗi
này thuộc phân giống Stegomyia. Ở Việt Nam, có hai loài muỗi truyền bệnh SXHD
là muỗi Aedes aegypti và Aedes albopictus, trong đó quan trọng nhất là Aedes
aegypti - véctơ giữ vai trò trung gian chính truyền bệnh, còn Aedes albopictus giữ
vai trò trung gian truyền bệnh thứ cấp của bệnh SXHD (phụ lục 4).
Muỗi Aedes aegypti và Aedes alpopictus trưởng thành có màu đen xen lẫn
những đám vẫy màu trắng trên khắp cơ thể muỗi tạo nên vằn trắng đen, do đó được
dân gian thường gọi là muỗi vằn. Khi đậu, thân hình muỗi nằm ngang với bề mặt
mà nó đậu nghỉ. Muỗi Aedes aegypti có đặc điểm sinh học là rất thích đậu ở độ cao
từ 1 - 2 m (86%), dưới 1 hoặc 2 mét cũng có thể có nhưng hiếm (6 - 8%). Loại muỗi
này sống gần người, vật thể chúng thích đậu nhất là đồ vải (71%) (thường đậu trên
quần áo, đặc biệt là những quần áo có mùi mồ hôi), vật dụng gia đình, đẻ trứng nơi
nước sạch, ở những vật chứa nước tự nhiên hay nhân tạo như chum, vại, phuy, hồ,
bể chứa nước không đậy nắp, lọ hoa chậu cây cảnh, chậu nước chống kiến dưới
chân tủ thức ăn, lon đồ hộp, ve chai, gáo dừa, vỏ xe hoặc bất kì một vật dụng chứa
nước nào khác có thể tích trữ nước đến 7 ngày.
Hoạt động đốt máu của muỗi Aedes aegypti phụ thuộc nhiệt độ môi trường
nếu nhiệt độ dưới 23oC muỗi hầu như không đốt máu. Muỗi Aedes aegypti đốt máu
người và động vật để sống. Muỗi hoàn thành vòng đời nhanh, giao phối trong không
gian nhỏ. Muỗi Aedes sp đẻ trứng riêng rẽ ở các thành chứa nước ẩm, phía trên mực
nước của các DCCN. Trứng nở sau khi bị ngập nước tự nhiên (mưa) hoặc nhân tạo
(do người đổ nước vào để dự trữ); trứng nở khi các vật chứa ngập nước, nhưng
không phải tất cả trứng nở cùng một lúc.
17
Khả năng chịu đựng khô hạn của trứng còn tùy thuộc vào khí hậu và điều
kiện tự nhiên. Trong điều kiện khô hạn tự nhiên trứng có thể duy trì được sự sống
đến 1 năm. Do đó mùa mưa là điều kiện thuận lợi cho muỗi phát triển.
Muỗi trưởng thành
Cung quăng
Trứng
Bọ gậy
Hình 1.1. Vòng đời của muỗi Aedes aegypti
(chu kỳ kéo dài từ 10 – 15 ngày)
Muỗi phát triển qua 4 giai đoạn. Thời gian của sự phát triển còn tùy thuộc
vào nhiệt độ, tính sẵn có của nguồn thức ăn, mật độ bọ gậy. Trong điều kiện tối ưu,
thời gian từ giai đoạn trứng đến khi phát triển thành muỗi trưởng thành mất khoảng
7 ngày. Ở nhiệt độ thấp thì các giai đoạn có thể kéo dài hơn khoảng vài tuần [162].
Muỗi Aedes sp cái trưởng thành giao phối và thực hiện hút máu lần đầu tiên vào
khoảng 48 giờ sau khi nở; thời gian từ khi hút máu đến khi đẻ trứng, muỗi Aedes sp
đẻ khoảng 60 - 100 trứng trong lần đẻ đầu tiên. Ở nhiệt độ 20 oC, độ ẩm 85% thì chu
kì phát triển của muỗi là 10 - 15 ngày, nhiệt độ dưới 20oC chu kỳ kéo dài trên 20
ngày [69]. Muỗi cái sống bằng cách hút máu và truyền bệnh. Muỗi Aedes aegypti
hút máu chủ yếu vào buổi sáng sớm và chiều tối. Sau khi hút máu muỗi trú ẩn trong
nhà. Thời điểm hoạt động chủ yếu của muỗi là vào ban ngày, cao nhất là 24% vào
lúc 7 - 8 giờ, và 29% vào lúc 17 - 18 giờ. Tỷ lệ hoạt động thấp nhất của muỗi là
11 - 13 giờ và từ 20 giờ trở về khuya. Các giờ khác còn lại trong ngày tỷ lệ hoạt
động từ 10 - 17%.
18
Sau khi hút máu người bệnh, thì Aedes aegypti có thể truyền bệnh ngay, nếu
không có cơ hội truyền bệnh, máu sẽ đọng lại và virus tiếp tục phát triển trong ống
tiêu hóa và tuyến nước bọt (thời kỳ ủ bệnh ở muỗi 8 - 10 ngày) chờ cơ hội truyền
sang người khác [21]. Ổ chứa bọ gậy Aedes aegypti chủ yếu là các vật chứa nước
sạch như lu vại, hồ do con người tạo ra; gần phân nửa số vật chứa này không có nắp
đậy, số có nắp cũng chưa đạt yêu cầu do nắp đậy không kín và không được sử dụng
thường xuyên. Đặc biệt trong mùa mưa, các vật chứa nước thường được mở nắp để
hứng nước dự trữ nên tỷ lệ vật chứa có nắp giảm nhiều. Chính vì vậy, tạo điều kiện
cho muỗi Aedes aegypti vào đẻ trứng và phát triển [34].
Muỗi Aedes aegypti phân bố ở khắp nơi, sống tập trung nhiều nhất ở những
nơi đông dân cư, có điều kiện cho sự sinh sản và phát triển của chúng như ở thành
phố, thị trấn, thị xã hay vùng nông thôn. Muỗi Aedes aegypti cái thích sống trong
bóng tối, nơi ẩm ướt, nơi tách biệt bên trong nhà, các tòa nhà. Nơi đậu nghỉ của
muỗi là các mắc dây vắt quần áo, chăn màn (80,54%), một tỷ lệ nhỏ đậu ở những
bình bông, mái tranh những vật dụng gia đình khác như mặt dưới của các đồ nội
thất, rèm cửa [44], [34]. Khoảng cách bay xa của muỗi Aedes aegypti tương đối
ngắn so với các loại muỗi khác, trung bình là 50 mét, xa nhất là 100 mét từ ổ bọ
gậy. Tuy nhiên, trong một vài nghiên cứu ở Puerto Rico cho thấy rằng Aedes
aegypti có thể bay xa hơn 400 mét, đồng thời nhờ các phương tiện giao thông nên
chúng cũng có thể di chuyển xa hơn từ vùng này sang vùng khác để tìm kiếm thức
ăn và tìm nơi để đẻ trứng [162].
Có một chút khác biệt với muỗi Aedes aegypti, muỗi Aedes albopictus
thường xuất hiện nhiều ở khu vực nông thôn và các vùng ven đô thị, đặc biệt Aedes
albopictus thường thích sống ở ngoại cảnh, những nơi chúng thường đẻ trứng là
trong các lỗ cây, gốc tre, nách lá và trong các vật chứa nước bên ngoài ngoại cảnh.
Aedes albopictus là loại muỗi hút máu tự do và nhiều hơn Aedes aegypti, nó có tầm
bay có thể xa đến 500 mét [162].
1.2.3. Tác nhân gây bệnh
Virus Dengue truyền bệnh từ người bệnh sang người lành qua muỗi Aedes
đốt. Virus là loại ARN virus, có 4 type huyết thanh. Sự phân bố của các type virus
Dengue qua các vụ dịch SXHD đã cho thấy có sự thay đổi vai trò gây bệnh của các
19
type virus. Trước năm 1990, chủng virus thường gây thành dịch là type DEN - 2.
Từ năm 1990 - 1995, chủ yếu do type virus DEN - 1 gây bệnh. Đến năm 1996,
người ta thấy type virus DEN - 2 bắt đầu xuất hiện nhiều trong các trường hợp bệnh
và đến tháng 8/1997, người ta bắt đầu thấy chủng DEN - 3 là nguyên nhân chính
trong các trường hợp nhiễm virus Dengue [44]. Đến năm 1998 là năm các tỉnh
thuộc khu vực phía Nam có dịch SXH lớn với 455 ca mắc/100.000 dân và 1,27 ca
chết/100.000 dân; và chủng virus DEN - 3 là chủng chiếm ưu thế. Số ca mắc cao
hơn rất nhiều so với số mắc trung bình 5 năm trước. Năm 1999 - 2000, số ca mắc
giảm thấp (80,7 ca mắc/1000.000 dân năm 1999 và 69,9 ca/100.000 dân năm 2000)
và đều thấp hơn số mắc trung bình 5 năm. Số chết của hai năm này cũng thấp (0,23
ca và 0,18 ca/100.000 dân) so với năm 1998 [62]. Từ 2000 - 2002, chủng DEN - 4
bắt đầu xuất hiện và tăng dần trong các trường hợp bệnh. Type DEN - 4 là nguyên
nhân gây dịch chiếm ưu thế nhất trong 4 type huyết thanh gây bệnh SXHD tại Việt
Nam vào thời điểm này [42].
Tại Tiền Giang, kết quả phân lập virus Dengue từ năm 2001 - 2005 cho thấy
có sự hiện diện đầy đủ 4 type virus Dengue gây SXHD trên địa bàn tỉnh. Trong đó
type DEN - 2 và type DEN - 4 là type chủ lực (chiếm 93,6% tổng số phát hiện) và
lưu hành tại địa phương. Kết quả cũng ghi nhận các vụ dịch xuất hiện tại các huyện,
thành vào những thời điểm khác nhau trong tháng đều do type DEN - 2 và DEN - 4
gây ra. Đồng thời trong các năm 2002, 2003, 2005, đã thấy xuất hiện thêm type
DEN - 1; riêng năm 2003 có thêm type DEN - 3. So với giai đoạn 1996 - 2000 thì
DEN - 2 và DEN - 3 là các type Dengue tham gia chính (DEN - 2: 46,3% và DEN 3: 42,2% so tổng số được phát hiện). Với một mật độ muỗi Aedes. aegypti cao và
nhiều type Dengue lưu hành cùng lúc đã đưa đến xảy ra dịch [46].
Qua số liệu báo cáo của Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh, từ năm
2001 - 2008, tỷ lệ mắc SXH đã xảy ra ở cả 4 type trong nhiều năm liền ở khu vực
phía Nam. Type DEN - 4 chiếm cao nhất trong năm 2001 và giảm dần cho đến cuối
năm 2008. Ngược lại, tỷ lệ mắc SXH type DEN - 1 vào năm 2001 là thấp nhất
nhưng sau đó lại tăng dần qua các năm và đạt đỉnh điểm cao nhất vào năm 2007.
Trong khi đó, type DEN - 2 bắt đầu tăng dần từ năm 2002 và đạt đỉnh cao nhất vào
năm 2005, sau đó lại giảm dần đến năm 2008 (biểu đồ 1.7). Điều này cho thấy tỷ lệ
20
mắc SXH thường xuyên biến động giữa các type huyết thanh, nhưng 2 type thường
gặp nhất trong giai đoạn hiện nay là type DEN - 1 và DEN - 2 [85]. Đến năm 2011,
sự phân bố các type huyết thanh chủ yếu là type DEN - 1 (42%), DEN - 2 (32%) và
DEN - 4 (18%), ít gặp type DEN - 3 (8%) [174]. Năm 2012, type DEN - 1 vẫn tiếp
tục là type virus lưu hành ưu thế. Tuy nhiên sự lưu hành của type DEN - 1 đang có
xu hướng giảm. Mặc dù chưa phải là type virus lưu hành ưu thế nhưng sự lưu hành
của type DEN - 4 đang có xu hướng gia tăng từ vị trí thứ 4 trong năm 2010 đến năm
2012 type DEN - 4 đã chiếm vị trí thứ 2 và có tỷ lệ lưu hành tiệm cận với tỷ lệ lưu
hành ưu thế của type DEN - 1 [91].
Biểu đồ 1.7. Giám sát virus huyết thanh trong giai đoạn 1996 - 2012 so với tình
hình mắc bệnh tại các tỉnh thuộc khu vực phía Nam [91]
1.2.4. Đặc điểm lâm sàng của bệnh sốt xuất huyết Dengue
Theo hướng dẫn của WHO khi nhiễm virus Dengue, trên lâm sàng bệnh biểu
hiện dưới dạng [17]:
1.2.4.1. Sốt Dengue
Bệnh nhân có triệu chứng sốt cao đột ngột, liên tục từ 2 - 7 ngày và có ít nhất
2 trong các dấu hiệu sau: Biểu hiện xuất huyết (nghiệm pháp dây thắt dương tính),
chấm xuất huyết dưới da, chảy máu chân răng hoặc chảy máu cam. Nhức đầu, chán
ăn, buồn nôn, da xung huyết, phát ban, đau cơ, khớp, nhức hai hố mắt.
- Xem thêm -