LỜI NÓI ĐẦU
Thị trường chứng khoán là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện
đại. Người ta thường nói: Thị trường chứng khoán chính là cái "Hàn thử
biểu" của nền kinh tế thật vậy mọi biến động về kinh tế, chính trị, xã hội…
sẽ tác động tức thời ngay trên thị trường chứng khoán. Và cứ nhìn vào chỉ
số giá cả chứng khoán người ta có thể thấy rõ mức ảnh hưởng ấy tác động
như thế nào.
Ở Việt Nam thị trường chứng khoán là một vấn đề rất mới mẻ đối với sinh
viên và xa lạ đối với dân chúng.
Nhưng để có thể thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
Đảng và Nhà nước ta theo phương châm phát huy tối đa nội lực là phải
thúc đẩy qúa trình cổ phần hoá, cho nên phải hình thành TTCK.
Theo thực tiễn cho thấy vốn luôn là vấn đề thời sự của nước ta, thiếu vốn
các doanh nghiệp, các nhà đầu tư bỏ mất cơ hội kinh doanh, đồng thời
không huy động được vốn mà ai cũng biết còn tiềm tàng rất lớn trong dân
cư, đã gây lãng phí lớn, làm giảm khả năng phát triển của đất nước. Sự
hình thành thị trường chứng khoán là một trong những giải pháp cho vấn
đề trên.
Đó là những lý do để em chọn đề tài này. Vì chưa được học tập kỹ lưỡng
nên trong bài viết này có nhiều sai sót mong cô thông cảm.
1
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I. CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên
thế giới.
Thị trường chứng khoán là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện
đại. Đến nay, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển đều có thị
trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán đã trở thành một định chế
tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những nước theo
cơ chế thị trường.
Vào khoảng giữa thế kỷ 15 ở tại những thành phố trung tâm buôn bán của
phương tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để thương
lượng việc mua bán, trao đổi các loại hàng hoá như: nông sản, khoáng sản,
ngoại tệ và giá khoán động sản … Điểm đặc biệt là trotng những cuộc
thương lượng này các thương gia chỉ dùng lời nói để trao đổi với nhau,
không có hàng hoá, ngoại tệ, giá khoán động sản hay bất cứ một loại giấy
tờ nào. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau các "Hợp
đồng" mua bán, trao đổi thực hiện ngay, kể cả những hợp đồng cho tương
lai 3 tháng, 6 tháng hoặc một năm sau mới thực hiện.
Những cuộc trao đổi này lúc đầu chỉ có một nhóm nhỏ, dần dần số người
tăng lên. Đến cuối thế kỷ 15 "khu chợ riêng" này trở thành một "thị trường"
và thời gian họp chợ rút xuống hàng tuần và sau đó là hàng ngày. Trong các
phiên chợ này họ thống nhất với nhau những quy ước cho các cuộc thương
lượng. Dần dần những quy ước đó được tu bổ hoàn chỉnh thành những quy
tắc có giá trị bắt buộc đối với những người tham gia. Từ đó thị trường
chứng khoán bắt đầu hình thành.
2
Phiên chợ đầu tiên năm 1453 tại đai Vanber của Bỉ sau đó được xuất hiện
ở Anh năm 1773, ở Đức 1778, ở Mỹ 1792, ở Thụy sĩ 1876, ở Nhật 1878, ở
Pháp 1801, ở Hương Cảng 1946, ở Inđônêxia 1925, ở Hàn Quốc 1956, ở
Thái Lan 1962, ở Malaysia và Philipin 1963.
Quá trình hình thành và phát triển của các thị trường chứng khoán thế giới
đã trải qua những bước thăng trầm. Thời kỳ huy hoàng vào những năm
1975 - 1913 cùng với sự phát triển thịnh vượng của nền kinh tế. Cũng có
lúc thị trường chứng khoán rơi vào đêm đen như ngày thứ năm đen tối tức
ngày 29/10/1929 rồi ngày thứ hai đen tối năm 1987, vừa qua tháng 7/97 thị
trường chứng khoán ở các nước Châu Á sụt giá, mất lòng tin bắt đầu từ
Thái Lan. Đến nay thị trường chứng khoán các nước đang phát triển mạnh
mẽ về số lượng thị trường chứng khoán, chất lượng hoạt động thị trường
ngày càng đáp ứng cho số đông những nhà đầu tư trong và ngoài nước, tiến
tới một thị trường chứng khoán hội nhập khu vực và quốc tế.
Hiện nay thị trường chứng khoán đã phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các
nước công nghiệp hàng đầu Mỹ, Nhật, Anh, Đức, Pháp… Bên cạnh đó hơn
40 nước phát triển đã thiết lập thị trường chứng khoán cũng đã hình thành ở
các nước láng giềng Việt Nam như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philipin
và Inđônêxia và Việt Nam cũng đã có trung tâm giao dịch thị trường chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh. (7/2000).
2. Chứng khoán và thị trường chứng khoán
2.1. Chứng khoán:
Chứng khoán là các loại công cụ tài chính dài hạn, bao gồm các loại cổ
phiếu và trái phiếu.
Cổ phiếu là loại chứng chỉ xác nhận việc góp vốn của một người vào công
ty cổ phần. Cổ phiếu xác nhận quyền sở hữu của người này đối với công ty
cổ phần, người sở hữu được gọi là cổ đông, cổ đông có các quyền hạn và
trách nhiệm đối với công ty cổ phần, được chia lời (cổ tức) theo kết quả
kinh doanh của công ty cổ phần: được quyền bầu cử, ứng cử vào ban quản
3
lý, ban kiểm soát. Cổ phiếu có thể được phát hành vào lúc thành lập công
ty, hoặc lúc công ty cần thêm vốn để mở rộng, hiện đại hoá sản xuất kinh
doanh.
Một đặc điểm của cổ phiếu là cổ đông được chia cổ tức theo kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty. Cổ đông có thể được hưởng lợi
nhuận nhiều hơn giá trị của cổ phiếu và cũng có thể bị mất trắng khi công
ty làm ăn thua lỗ. Cổ đông không được quyền đòi lại số vốn mà người đó
đã góp vào công ty cổ phần, họ chỉ có thể thu lại tiền bằng cách bán cổ
phiếu đó ra trên thị trường chứng khoán.
Trái phiếu là chứng chỉ xác nhận quyền làm chủ một món nợ của chủ sở
hữu trái phiếu đối với đơn vị phát hành. Trái phiếu là loại chứng khoán mà
lãi suất vay nợ đã được xác định rõ ngay khi phát hành do đó nó có lợi tức
cố định và chỉ được hoàn trả khi đến hạn thanh toán ghi trên trái phiếu mà
người phát hành phải thực hiện. Trái phiếu do các doanh nghiệp có thể là
quốc doanh, tư doanh hay cổ phần phát hành. ở Việt Nam hình thức vay
vốn bằng cách phát hành trái phiếu đã xuất hiện ở một vài nơi. Ví dụ như
việc phát hành trái phiếu huy động vốn cho đầu tư mở rộng sản xuất của
nhà máy xi măng Hoàng Thạch vào cuối năm 1994, một số doanh nghiệp
khác cũng có hình thức huy động vốn này để vay của cán bộ công nhân
viên trong doanh nghiệp.
Kỳ phiếu là chứng chỉ của nhà nước phát hành với mục đích vay vốn của
các tổ chức kinh tế xã hội, các tầng lớp dân cư để bù đắp vào thâm hụt của
ngân sách Nhà nước. Trong vài năm trở lại đây, kho bạc nhà nước đã phát
hành kỳ phiếu kho bạc rộng rãi trong cả nước.
2.2. Thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán (tiếng latinh là Bursa - nghĩa là cái ví tiền) là nơi
mà cung và cầu của các loại chứng khoán gặp nhau để xác định giá cả. Số
lượng của từng loại chứng khoán được giao dịch trên thị trường.
4
Cụ thể hơn thị trường chứng khoán có thể được định nghĩa như là nơi tập
trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho người muốn sử dụng những
nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả. Nói cách khác
thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn đầu tư này,
có thêm nhiều vốn hơn để đưa vào sản xuất trong nền kinh tế vì vậy có thể
làm cho nền kinh tế tăng trưởng và tạo nên sự thịnh vượng.
Theo định nghĩa nêu trên, thị trường chứng khoán không phải là cơ quan
mua vào hoặc bán ra các loại chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ là
nơi giao dịch, ở đó việc mua bán chứng khoán được thực hiện bởi những
người môi giới chứng khoán. Như vậy thị trường chứng khoán không phải
là nơi giao dịch (mua - bán) chứng khoán của những người muốn mua hay
bán chứng khoán mà là của những nhà môi giới. Nếu một người muốn mua
hay bán chứng khoán, người này sẽ thông qua người môi giới chứng khoán
của anh ta trên thị trường chứng khoán để tiến hành việc mua bán chứ
không trực tiếp tham gia mua bán. Giá cả chứng khoán được hình thành
một cách khách quan theo hệ thống bán đấu giá hai chiều. Người môi giới
mua khác được với giá thấp nhất, người môi giới bán cạnh tranh với những
người môi giới bán khác để bán được giá cao nhất. Vì thế mà thị trường
chứng khoán là thị trường có tính tự do cao nhất trong các loại thị trường.
2.3. Phân loại thị trường chứng khoán.
Về phương diện pháp lý thị trường chứng khoán gồm có:
Thị trường chứng khoán chinh th?c: (TTCK tập trung) là thị trường hoạt
động theo đúng các qui luật pháp định, là nơi mua bán các loại chứng
khoán đã được đăng biểu hay được biệt lệ.
Chứng khoán đăng biểu là loại chứng khoán đã được cơ quan có thẩm
quyền cho phép bảo đảm, phân phối và mua bán qua trung gian các kinh kỷ
và công ty kinh kỷ, tức là đã hội đủ các tiêu chuẩn đã định.
5
Chứng khoán biệt lệ là loại chứng khoán được miễn giấy phép của cơ
quan có thẩm quyền, do chính phủ trong các cơ quan công quyền, thành
phố, tỉnh quận, huyện, thị phát hành và bảo đảm.
Thị trường chứng khoán chính thức có địa điểm và thời biểu mua bán rõ
rệt và giá cả được tính theo thể thức đấu giá công khai, có sự kiểm soát của
hội động chứng khoán. Thị trường chứng khoán chính thức chủ yếu được
thể hiện bằng các sở giao dịch chứng khoán.
Thị trường chứng khoán phi chính thức: (TTCK phi tập trung) là thị
trường mua bán chứng khoán bên ngoài sở giao dịch chứng khoán, không
có địa điểm tập trung những người môi giới, những người kinh doanh
chứng khoán như ở sở giao dịch chứng khoán. ở đây không có sự kiểm soát
từ bên ngoài, không có ngày giờ hay thủ tục nhất định mà do sự thoả thuận
của người mua và người bán.
2.4. Chỉ số chứng khoán:
Khi nói đến thị trường chứng khoán không thể không nói đến chỉ số
chứng khoán. Người ta thường coi chỉ số chứng khoán là chiếc "phong vũ
biểu" của thị trường chứng khoán mà ở dạng này hay dạng khác người ta
dùng chỉ số chứng khoán để thể hiện sự phát triển của thị trường và các
thành phần của nó. Các chỉ số này thường được thông báo trên các phương
tiện thông tin đại chúng và các tờ nhật báo lớn ở các nước chỉ số chứng
khoán phản ánh tình hình hoạt động của các công ty trên thị trường. Nếu
các công ty làm ăn có lãi, giá chứng khoán của các công ty đó sẽ tăng và
làm tăng theo chỉ số chứng khoán. Ngược lại, chỉ số chứng khoán sẽ giảm.
Dựa vào chỉ số chứng khoán, các nhà đầu tư có thể xác định được hiệu quả
của một cổ phiếu hoặc một danh mục các chứng khoán để đầu tư vào.
Bất kỳ một thị trường chứng khoán nào cũng có một chỉ số chứng khoán
của riêng nó. Ví dụ thị trường chứng khoán New york có chỉ số Dow Jones,
thị trường chứng khoán Tokyo áp dụng chỉ số Nikkei, Hong Kong áp dụng
chỉ số Hang - xieng, Singapore áp dụng chỉ số "Strai taime"…
6
Một loại chỉ số chứng khoán được nhiều người biết đến nhất là chỉ số
Dow Jones ra đời cách đây vừa tròn 100 năm (896). Chỉ số này được coi
như một cột mốc của thị trường chứng khoán thế giới. Chỉ số này do hai
nhà kinh tế Mỹ Edward David Jones và Charles Hery Dow đề xuất đo
lường mức độ biến động của thị giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
New York. Chỉ số Dow Jones bao gồm 65 loại cổ phiếu được chia thành 3
nhóm chỉ số bình quân nhỏ như sau:
+ Chỉ số Dow Jones công nghiệp bao gồm giá cổ phiếu của 30 công ty
hàng đầu ngành công nghiệp công lại rồi chia cho 1504 (con số này có khi
có giảm).
+ Chỉ số Dow Jones vận tải bao gồm giá cổ phiếu của 20 công ty hàng
đầu ngành giao thông vận tải cộng lại chia cho 2785 (con số này có khi
tăng).
+ Chỉ số Dow Jones dịch vụ công cộng bao gồm giá cổ phiếu của 15 công
ty hàng đầu ngành dịch vụ công cộng.
Để biết được tình hình phát triển kinh tế gần đây người ta xác định thêm
một số tiêu chuẩn khác. Đó là các điểm giới hạn và điểm liệt. Chẳng hạn
điểm giới hạn của chỉ số Dow Jones là 800, điểm liệt là 700. Nếu chỉ số
Dow Jones hàng ngày vượt quá 800 điểm chung trong nền kinh tế đang đi
lên, nếu dưới 800 điểm cho biết có nguy cơ xảy ra suy thoái kinh tế.
II. CƠ CẤU VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
Thị trường chứng khoán chính thức được thể hiện bằng sở giao dịch
chứng khoán. Thông thường một thị trường chứng khoán bao gồm hai thị
trường cùng tham gia T (cấu trúc thị trường chứng khoán) là thị trường sơ
cấp và thị trường thứ cấp.
1. Thị trường sơ cấp:
Là thị trường cấp một hay thị trường phát hành, hàm ý chỉ nơi diễn ra
hoạt động giao dịch mua bán những chứng khoán mới phát hành lần đầu,
7
kéo theo sự tăng thêm qui mô đầu tư vốn. Nguồn cung ứng vốn chủ yếu tại
thị trường này là nguồn tiết kiệm của dân chúng như của một số tổ chức phi
tài chính. Thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành.
2. Thị trường thứ cấp.
Còn gọi là thị trường cấp hai hay thị trường lưu thông, là nói đến nơi diễn
ra hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán đến tay thứ hai, tức là việc
mua bán tiếp thu sau lần bán đầu tiên. Nói cách khác, thị trường thứ cấp là
thị trường mua đi bán lại các loại chứng khoán đã được phát hành qua thị
trường sơ cấp.
Điểm khác nhau căn bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp
không phải là sự khác nhau về hình thức mà là sự khác nhau về nội dung,
về mục đích của từng loại thị trường. Bởi lẽ, việc phát hành cổ phiếu hay
trái phiếu ở thị trường sơ cấp là nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư và tiết
kiệm vào công cuộc phát triển kinh tế. Còn ở thị trường thứ cấp, dù việc
giao dịch rất nhộn nhịp có hàng chục, hàng trăm thậm chí hàng ngàn tỉ đô
la chứng khoán được mua đi bán lại, nhưng không làm tăng thêm qui mô
đầu tư vốn, không thu hút thêm được các nguồn tài chính mới. Nó chỉ có
tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ thể này sang chủ
thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán.
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp gộp lại được gọi là thị trường
chứng khoán. Hai thị trường này tồn tại quan hệ mật thiết với nhau được ví
dụ như hai bánh xe của một chiếc xe, trong đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là
tiền đề, thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì
sẽ chẳng có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại,
nếu không có thị trường thứ cấp thì việc hoán chuyển các chứng khoán
thành tiền sẽ bị khó khăn, khiến cho người đầu tư sẽ bị thu nhỏ lại, hạn chế
khả năng huy động vốn trong nền kinh tế.
Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về
mặt lý thuyết. Trong thực tế tổ chức thị trường chứng khoán không có sự
8
phân biệt đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp. Nghĩa là,
trong một thị trường chứng khoán vừa có giao dịch của thị trường sơ cấp
vừa có giao dịch của thị trường thứ cấp. Vừa có việc mua bán chứng khoán
theo tính chất mua đi bán lại.
Tuy nhiên, điểm cần chú ý là phải coi trọng thị trường sơ cấp, vì đây là thị
trường phát hành là hoạt động tạo vốn cho đơn vị phát hành đồng thời phải
giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp, không để tình trạng đầu cơ lũng đoạn
thị trường để đảm bảo thị trường chứng khoán trở thành công cụ hữu dụng
của nền kinh tế.
3. Sở giao dịch chứng khoán:
Thị trường chứng khoán chính thức được tổ chức theo hình thức Sở giao
dịch chứng khoán.
3.1. Các hình thức tổ chức sở giao dịch chứng khoán.
Hiện nay trên thế giới có 3 hình thức tổ chức sở giao dịch chứng khoán.
Thứ nhất: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức theo hình thức "Câu
lạc bộ" tự nguyện của các thành viên. Trong hình thức này, các thành viên
của sở giao dịch (hội viên) tự tổ chức và tự quản lý sở giao dịch chứng
khoán theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước. Các hội viên của
Sở giao dịch bầu ra Hội đồng quản trị và Hội đồng quản trị bầu ra ban điều
hành.
Thứ hai: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới hình thức một
công ty cổ phần có các cổ đông là các công ty thành viên. Đây là hình thức
phổ biến nhất hiện nay. Sở giao dịch chứng khoán tổ chức dưới hình thức
này được hoạt động theo luật công ty cổ phần, phải nộp thuế cho nhà nước
và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên môn do chính phủ lập ra. Cơ
quan chuyên môn này là cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị
trường chứng khoán. Quản lý và điều hành sở giao dịch chứng khoán là
9
Hội đồng quản trị do các công ty chứng khoán thành viên bầu ra và ban
điều hành sở giao dịch chứng khoán do Hội đồng quản trị đề cử.
Thứ ba: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới dạng một công ty
cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của nhà nước. Đây là
hình thức phổ biến ở hầu hết các nước Châu á. Cơ cấu tổ chức và quản lý
điều hành cũng tương tự như hình thức trên nhưng trong thành phần Hội
đồng quản trị có một số thành viên do uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa
vào, giám sát điều hành. Sở giao dịch chứng khoán quốc gia bổ nhiệm.
3.2. Quản lý và điều hành sở giao dịch chứng khoán
Uỷ ban chứng khoán quốc gia là cơ quan quản lý nhà nước về thị trường
chứng khoán do chính phủ thành lập. Uỷ ban chứng khoán quốc gia có
nhiệm vụ xác định loại doanh nghiệp nào được phép phát hành chứng
khoán và loại chứng khoán nào được mua bán. Uỷ ban này cấp giấy phép
và kiểm tra hoạt động của các công ty môi giới và thực hiện các công việc
quản lý nhà nước khác.
Hội đồng quản trị và ban điều hành sở giao dịch chứng khoán quản lý và
điều hành sở giao dịch chứng khoán. Tất cả các quyết định đều được Hội
đồng quản trị đưa ra. Hội đồng này bao gồm các công ty chứng khoán
thành viên của sở giao dịch chứng khoán, các thành viên liên doanh thậm
chí có một số không phải là thành viên của sở giao dịch chứng khoán do
Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào. Hội đồng quản trị có quyền quyết
định nhưng thành viên nào được phép buôn bán tại sở giao dịch, những
loại chứng khoán nào đủ tiêu chuẩn được phép niêm yết tại phòng giao
dịch. Hội đồng này có quyền đình chỉ hoặc huỷ bỏ việc niêm yết một
chứng khoán nào đó. Hội đồng quản trị có quyền kiểm tra quá trình kinh
doanh của các thành viên sở giao dịch. Nếu phát hiện vi phạm, Hội đồng
quản trị có quyền phạt hoặc đình chỉ việc kinh doanh của thành viên trong
một thời gian nhất định hoặc trục xuất không cho phép mua bán trên sở
giao dịch. Nếu phát hiện vi phạm, Hội đồng quản trị có quyền phạt hoặc
10
đình chỉ việc kinh doanh của thành viên trong một thời gian nhất định hoặc
trục xuất không cho phép mua bán trên sở giao dịch chứng khoán nữa.
3.3. Thành viên sở giao dịch chứng khoán.
Thành viên sở giao dịch chứng khoán có thể là các cá nhân hoặc các công
ty chứng khoán. Để trở thành thành viên của sở giao dịch chứng khoán
trước hết công ty phải được công ty có thẩm quyền của nhà nước cấp giấy
phép hoạt động. Phải có số vốn tối thiểu theo quy định, có chuyên gia kinh
tế, pháp lý đã được đào tạo về phân tích và kinh doanh chứng khoán. Ngoài
ra công ty còn phải thoả mãn các yêu cầu của từng sở giao dịch chứng
khoán cụ thể. Một công ty chứng khoán có thể là thành viên của nhiều sở
giao dịch chứng khoán khác nhau nhưng không được là thành viên của thị
trường chứng khoán phi tập trung và ngược lại công ty chứng khoán có thể
thực hiện một hay nhiều nghiệp vụ khác nhau trên thị trường chứng khoán.
3.4. Giám sát thị trường chứng khoán.
Để đảm bảo cho các giao dịch được công bằng đảm bảo lợi ích của các
nhà đầu tư, sở giao dịch chứng khoán có một bộ phận chuyên theo dõi giám
sát các giao dịch chứng khoán để ngăn chặn kịp thời các vi phạm trong giao
dịch chứng khoán. Nhiệm vụ chủ yếu của các bộ phận giám sát là kiểm tra
theo dõi và ngăn chặn kịp thời các hoạt động tiêu cực như gây nhiễu giá,
giao dịch tay trong, giao dịch lòng vòng, giao dịch có dàn xếp trước.
4. Những nguyên tắc cơ bản về hoạt động của thị trường chứng
khoán.
4.1. Nguyên tắc trung gian mua bán chứng khoán.
Hoạt động mua bán chứng khoán không phải trực tiếp diễn ra giữa những
người muốn mua và bán, chứng khoán thực hiện mà do các nhà trung gian
môi giới thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian căn bản cho tổ chức và
hoạt động của thị trường chứng khoán.
11
Nguyên tắc trung gian nhằm đảm bảo cho các loại chứng khoán là chứng
khoán thực và thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn hợp pháp và phát
triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Vì những nhà đầu tư không thể xét
đoán một cách nhanh chóng và chính xác giá trị thực sự của từng loại
chứng khoán và cũng không dự đoán được chính xác xu hướng biến động
của nó. Vì vậy nếu người môi giới có thái độ không khách quan trong hoạt
động trung gian sẽ gây thiệt haị cho các nhà đầu tư.
Xét về tính chất kinh doanh, môi giới chứng khoán có 2 loại: Môi giới
chứng khoán và thương gia chứng khoán.
Môi giới chứng khoán chỉ thương lượng mua bán chứng khoán theo lệnh
của khách hàng và ăn hoa hồng.
Thương gia chứng khoán còn gọi là người kinh doanh chứng khoán.
Nói chung các công ty môi giới chứng khoán tại các thị trường chứng
khoán đều đồng thời thực hiện 2 nghiệp vụ là người môi giới vừa là người
kinh doanh nhưng tại thị trường chứng khoán New York, London từ lâu
người ta đã phân biệt 2 loại môi giới này và có luật lệ không chỉ hoạt động
của thương gia chứng khoán.
4.2. Nguyên tắc định giá của mua bán chứng khoán.
Giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán do các nhà môi giới đưa ra.
Mỗi nhà môi giới định giá mỗi loại chứng khoán tại từng thời điểm tuỳ
theo sự xét đoán, kinh nghiệm và kỹ thuật dựa trên lượng cung cầu loại
chứng khoán đó trên thị trường.
4.3. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán.
Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai
hoá. Thông tin về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị
trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của các công ty phát
hành, số lượng chứng khoán và giá cả của từng loại chứng khoán đều được
thông báo công khai trên thị trường. Khi kết thúc một cuộc giao dịch, số
12
lượng mua bán và giá cả thống nhất lập tức được thông báo ngay. Nguyên
tắc công khai của thị trường chứng khoán nhằm đảm bảo quyền lợi cho
người mua bán chứng khoán không bị "hớ" trong mua bán chứng khoán.
Tất cả các nguyên tắc trên đều được thể hiện bằng văn bản pháp quy từ
luật đến qui chế, điều lệ của mỗi thị trường chứng khoán nhằm bảo vệ
quyền lợi của người mua chứng khoán và của các thành viên trên thị trường
chứng khoán.
5. Giao dịch trên thị trường chứng khoán.
Các chứng khoán được giao dịch trên thị trường theo lô chẵn hoặc lô lẻ.
Trên sàn giao dịch, có nhiều loại lệnh khác nhau được nhà đầu tư sử dụng
tùy theo mục đích của từng người. Để mua hay bán chứng khoán, các nhà
đầu tư sẽ đưa ra các lệnh thuê các công ty môi giới chứng khoán thực hiện
hộ.
* Lệnh thị trường: Đây là loại lệnh thông dụng nhất. Các công ty môi
giới căn cứ vào giá thị trường hiện tại của loại chứng khoán mà nhà đầu tư
yêu cầu thực hiện để tiến hành giao dịch, xong họ cũng phải xem xét để
mua hoặc bán sao cho có lợi nhất cho khách hàng của họ, các khách hàng
biết chắc lệnh sẽ được thực hiện nhưng không biết chắc giá cả là bao nhiêu.
* Lệnh giới hạn: Lệnh này thường được đưa ra bởi các nhà đầu tư có
hiểu biết chút ít về thị trường chứng khoán và kinh tế. Trong lệnh có giới
hạn về giá bán thấp nhất và giá mua cao nhất mà công ty môi giới trên sàn
giao dịch được phép thực hiện. Đối với lệnh mua thì giá mua thường thấp
hơn giá thị trường hiện đại còn lệnh bán có giá thường cao hơn giá thị
trường. Do vậy lệnh giới hạn thường không được thực hiện ngay mà được
thực hiện trong một thời gian nhất định cho đến khi hết thời hạn và huỷ bỏ.
Trong khi chưa bị huỷ bỏ mà lệnh chưa được thực hiện thì nhà đầu tư vẫn
có thể tăng giảm giá giơí hạn (giá mua, giá bán).
* Lệnh ngừng: Đây là lệnh đặc biệt mà các nhà đầu tư dùng để bảo vệ
thu nhập của họ tránh thua lỗ khi có sự tăng giảm giá cả. Lệnh ngừng bán
13
có giá đặt ra cao hơn giá thị trường hiện tại còn lệnh ngừng mua có giá đặt
ra thấp hơn thị trường hiện tại.
Các lệnh trên khi đấu giá sẽ được ưu tiên theo thứ tự.
- Ưu tiên về giá: Giá đặt mua cao nhất và giá đặt bán thấp nhất được ưu
tiên.
- Ưu tiên về thời gian: Trong cùng một mức giá lệnh nào được đưa ra
trước sẽ được ưu tiên.
- Ưu tiên về số lượng: Khi có nhiều lệnh cùng thoả mãn hai điều kiện
trên, lệnh nào có số lượng chứng khoán nhiều hơn sẽ được ưu tiên.
Trên thị trường chứng khoán phi tập trung, hoạt động mua bán chứng
khoán cũng diễn ra khá đơn giản. Khi một khách hàng muốn mua một số
lượng chứng khoán nhất định, anh ta sẽ đưa lệnh cho công ty chứng khoán
đang quản lý tài sản của anh ta yêu cầu giao dịch hộ. Thông qua hệ thống
viễn thông công ty môi giới sẽ liên lạc với tất cả các nhà tạo thị trường của
loại chứng khoán này để biết được giá chào bán thấp nhất của loại chứng
khoán này sau đó công ty này thông báo lại cho khách hàng biết và nếu
khách hàng chấp nhận, công ty sẽ thực hiện lệnh và giao dịch của khách
hàng được thực hiện.
III. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
Thị trường chứng khoán đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong
nền kinh tế các nước trên thế giới. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển đến
một mức độ nhất định sẽ cần tới thị trường chứng khoán để hỗ trợ cho quá
trình phát triển.
Trong thập kỷ vừa qua các thị trường chứng khoán trên thế giới đã phát
triển hết sức mạnh mẽ. Tổng giá trị cổ phiếu được yết giá trên các thị
trường này tăng từ 4.700 tỷ USD năm 1985 lên 15200 tỷ USD năm 1995.
Trong đó giá trị cổ phiếu giao dịch trên thị trường chứng khoán ở các nước
14
đang phát triển tăng nhanh từ 3% năm 1983 lên 17% tổng lượng giao dịch
toàn thế giới năm 1995.
Sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán có tác động tích cực
tới sự phát triển của các quốc gia. Thực tế cho thấy thị trường chứng khoán
đã thúc đẩy phát triển kinh tế ở nhiều nước một cách có hiệu quả thông
qua việc góp phần tạo ra vốn khả dụng. Thực vậy, đa số các dự án đầu tư
cần phải sử dụng vốn dài hạn thì mới đạt hiệu quả cao trong khi các nhà tiết
kiệm lại không muốn mất quyền kiểm soát món tiết kiệm của họ trong thời
gian dài. Thị trường chứng khoán hoạt động trôi chảy sẽ cho phép khắc
phục được mâu thuẫn này khiến cho các hoạt động đầu tư trên thị trường
hấp dẫn, thuận tiện và có lãi suất cao hơn so với gửi tiết kiệm vì người tiết
kiệm có thể mua một loại chứng khoán nào đó rồi lại đem bán một cách
nhanh chóng ít phí tổn khi cần tiền mặt hoặc để đầu tư vào một loại chứng
khoán khác mà họ thích. Việc trao đổi này diễn ra trên thị trường thứ cấp
trong khi đó các doanh nghiệp vẫn được sử dụng nguồn vốn dài hạn thường
xuyên và ổn định. Như vậy, thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho các
khoản đầu tư dài hạn phát triển, làm cho các khoản đầu tư sinh lợi nhiều
hơn mà thị trường chứng khoán khuyến khích được nhiều vốn hơn vào nền
kinh tế góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thị trường chứng
khoán cũng hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng trong nhiều lĩnh vực. Về cơ bản,
thị trường chứng khoán bổ sung cho hệ thống ngân hàng trong việc cung
cấp vốn vay trung và dài hạn. Hệ thống ngân hàng với chức năng chủ yếu
là "tạm ứng" vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng: Nhân tố
tiền gửi của dân cư mà học nhân được lên nhiều. Tiền được cho vay qua
các hoạt động tín dụng cần được thu về. Tuy vậy bao giờ cũng có phần vốn
vay kém hiệu quả không thu hồi được vẫn nằm trong lưu thông, làm cho
mức gia tăng tiền tệ cao hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Điều đó có nghĩa là
một lượng tiền tăng thêm không có lượng hàng hoá dịch vụ tăng theo tương
ứng ngày càng gây ra lạm phát trong nền kinh tế. Do vậy hệ thống ngân
hàng chỉ có thể cấp tín dụng trung và dài hạn cho nền kinh tế một cách hạn
15
chế nếu không sẽ dẫn đến tình trạng chuyển hoá vốn quá mức, không
những đe doạ an toàn của các ngân hàng mà còn gây nguy cơ lạm phát.
Trong bối cảnh đó, thị trường chứng khoán là nơi bổ sung nguồn vốn trung
và dài hạn quan trọng cho các khoản đầu tư phát triển. Trên thị trường sơ
cấp vốn được chuyển trực tiếp từ người có vốn sang người cần vốn thông
qua việc phát hành lần đầu các loại chứng khoán. Trên thị trường thứ cấp
sau đó, chứng khoán đã phát hành có tác dụng như "gây tiếp sức" để người
đầu tư mới tiếp sức cho người đầu tư cũng thông qua việc mua bán lại
chứng khoán. Đó là quá trình biến các khoản tiết kiệm ngắn hạn thành
nguồn nuôi dưỡng và duy trì các khoản đâù tư dài hạn trên cơ sở tham gia
tích cực và tự nguyện của các nhà đầu tư.
Như vậy thị trường chứng khoán hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng trong
việc cấp các khoản tín dụng trung và dài hạn góp phần làm giảm áp lực lạm
phát, sự phân tích ở trên đã chỉ ra rằng thị trường chứng khoán có vai trò
tích cực và không thể thiếu trong nền kinh tế.
16
PHẦN II
SỰ HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TẠI VIỆT NAM
I. TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN TẠI VIỆT NAM.
1. Do yêu cầu của nền kinh tế.
Thực tế cho thấy ở tất cả các nước có thị trường chứng khoán, khi nền
kinh tế thị trường ra đời thì chưa có thị trường chứng khoán. Thị trường
chứng khoán chỉ ra đời khi nền kinh tế thị trường đã phát triển ở mức độ
nhất định và đòi hỏi phải hình thành một tổ chức nào đó có khả năng tiếp
thêm sức mạnh cho thị trường - đó là thị trường chứng khoán với việc cung
cấp vốn cho nền kinh tế. Có thể nói nền kinh tế hàng hoá phát triển làm nảy
sinh thị trường chứng khoán và thị trường chứng khoán đến lượt nó lại tiếp
thêm nguồn lực để thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển.
"Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, chủ yếu mới có hình thức giao lưu
vốn giáp tiếp nên chưa huy động và thu hút có hiệu quả tối ưu nguồn vốn
còn khá tiềm tàng của đất nước. Do đó, cùng với sự phát triển, hoàn thiện
thị trường liên ngân hàng, nâng cao trình độ giao lưu vốn gián tiếp, cần
phải thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hình thức giao lưu vốn trực tiếp".
Giao lưu vốn trực tiếp là hình thức giao lưu vốn chủ yếu thông qua
phương thức thu hút vốn bằng phát hành các phương tiện tín dụng, như trái
phiếu, cổ phiếu.
Phương thức giao lưu vốn trực tiếp có nhiều ưu điểm nổi bật hơn phương
thức giao lưu vốn gián tiếp. Do vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay, cùng
với việc hoàn thiện tổ chức giao lưu vốn gián tiếp phải đồng thời phát triển
mạnh giao lưu vốn trực tiếp nhằm làm phong phú thị trường tiền vốn và đổi
17
mới cơ chế giao lưu vốn theo hướng hiện đại. Chỉ khi nào cả hai hình thức
giao lưu vốn trên cùng tồn tại, phát triển và bổ sung cho nhau thì thị trường
tiền tệ - tín dụng mới từng bước được cải tiến, thị trường chứng khoán mới
xuất hiện và hoạt động có hiệu quả trong một thị trường tiền tệ - tín dụng
hoàn chỉnh, nhờ đó mà thu hút được mọi nguồn vốn tiềm tàng trong và
ngoài nước cho đầu tư phát triển.
2. Do yêu cầu của nhà nước.
Để hoàn thiện nhiệm vụ của mình nhà nước luôn phải chi tiêu mà nguồn
thu chủ yếu của nhà nước từ thuế thường không trang trải hết các hoạt động
của nhà nước. Nhà nước buộc phải vay vốn trong dân cư và các tổ chức tín
dụng bằng cách phát hành kỳ phiếu. Thị trường chứng khoán ra đời sẽ giúp
cho quá trình phát hành này được thuận lợi hơn.
Như ở phần trên em đã trình bày, thị trường chứng khoán cũng có tác
động tích cực trong việc giảm áp lực lạm phát. Đặc biệt từ năm 1993, nhà
nước ta đã có chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tức là
chuyển các doanh nghiệp quốc doanh sang hình thức cổ phần. Quá trình
này diễn ra còn chậm nếu thị trường chứng khoán hình thành thì sẽ thúc
đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra nhanh hơn.
Nhu cầu về một thị trường chứng khoán tại Việt Nam ngày càng trở nên
bức thiết do những lý do mà em đã nêu trên nên chắc chắn trong tương lai
gần Việt Nam sẽ có một thị trường chứng khoán theo đúng ý nghĩa của nó
để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế.
III. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY.
1. Thực trạng.
Xã hội Việt Nam ngày càng phát triển về nhiều mặt. Chính sách mở cửa
của nhà nước đã làm cho nền kinh tế thay đổi và khởi sắc. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế nhu cầu về sự hoà nhập với thế giới, quy luật cung
18
cầu về vốn, nhu cầu bức xúc trong việc huy động nội lực để đáp ứng lượng
vốn đầu tư quốc gia đã dẫn đến sự ra đời của thị trường chứng khoán là một
tất yếu trong lịch sử phát triển kinh tế Việt Nam. Sự ra đời của thị trường
chứng khoán Việt Nam cũng đã được Đảng và Nhà nước chuẩn bị khá chu
đáo từ những năm 1996, nó được thể hiện qua các văn bản pháp luật sau:
Đầu tiên là sự ra đời của Uỷ Ban Chứng Khoán Nhà Nước
UBCKNN) theo nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996. Đây là cơ quan
thuộc chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý nhà nước về chứng
khoán và thị trường chứng khoán. UBCKNN có tư cách pháp nhân, có con
dấu hình quốc huy, có tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân sách nhà
nước cấp, biên chế của UBCK thuộc biên chế quản lý nhà nước, có trụ sở
riêng...
Sau đó là việc ban hành nghị định 48/CP ngày 11/7/1998 của chính
phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nghị định này gồm 11
chương 83 điều đã đặt nền móng đầu tiên cho việc tổ chức hoạt dộng của
thị trường chứng khoán Việt Nam.
Cùng ngày ra nghị định 48/CP trung tâm giao dịch chứng khoán được
hình thành bởi quyết định số 127-1998/QĐ-TTG ngày 11/7/1998. Nội dung
của quyết định thành lập 2 trung tâm giao dịch chứng khoán thuộc uỷ ban
chứng khoán gồm, một tại Hà Nội và một tại TP -Hồ Chí Minh.
Trung tâm giao dịch chứng khoán là đơn vị sự nghiệp có thu, trực
thuộc UBCKNN có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và có tài khoản
riêng, kinh phí hoạt động của trung tâm giao dịch do ngân sách nhà nước
cấp.
Sau một thời gian chuẩn bị khá chu đáo như vậy, đến ngày 20/7/2000
trung tâm giao dịch chứng khoán tại TP -HCM được khai trương, đây được
coi là một sự kiện lớn trong lịch sử phát triển kinh tế của đất nước và đến
ngày 28/7/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam đã bắt đầu phiên giao
dịch đầu tiên với 2 cổ phiếu đầu tiên lên sàn là REE và SAM, 2 ngày sau
19
thêm 2 cổ phiếu nữa là HAP và TMS. Tiếp theo đó các cổ phiếu khác cũng
lần lượt chào sàn làm tăng hàng hoá của thị trường chứng khoán Việt Nam
góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển như LAP,
SGH, CAN, BBC..., và hiện nay là 17 cổ phiếu cùng với 7 loại trái phiếu
được giao dịch tại trung tâm .
Sau gần 2 năm đi vào hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam cũng
có những bước thăng trầm, cũng có những ưu điểm và nhược điểm tồn tại.
Cùng với việc sửa đổi nghị định 48/CP hiện nay thị trường chứng khoán
Việt Nam hoạt động dường như ổn định hơn.
2.Thuận lợi và khó khăn:
2.1. Thuận lợi:
Điều hết sức quan trọng là nhà nước đã khẳng định sự đa dạng hoá
các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Nền kinh tế phát triển là nền kinh
tế nhiều thành phần. Kinh tế tư bản tư nhân trong nước phát triển mạnh
dưới hình thức công ty cổ phần, công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu
hạn. Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã giải phóng sức sản xuất trong
các thành phần kinh tế, cho phép huy động mọi năng lực sản xuất vào phát
triển đất nước, đồng thời cho phép đa dạng hoá sở hữu, kinh doanh đa
năng, đa thành phần kinh tế, đa dạng khách hàng, đa dạng mô hình (công ty
mẹ và công ty con...).
Trải qua 10 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số
thành tựu quan trọng. Sự phát triển của Việt Nam trong thập kỷ qua là một
trong số những bước ngoặt lớn lao trong nền kinh tế. Nhiều loại hình kinh
doanh tiền tệ đã và đang được hình thành và phát triển khá nhanh như công
ty thu mua, công ty đầu tư tín thác, các ngân hàng đầu tư chứng khoán,
kinh doanh địa ốc, các công ty tài chính trong tập đoàn, quỹ tín dụng....
Đây là một xu hướng tốt và đáng ghi nhận tạo ra sự linh hoạt, uyển chuyển
về huy động và sử dụng vốn trong nước và ngoài nước.
20
- Xem thêm -