MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN MÀ BỊ CAN,
BỊ CÁO, NGƯỜI BỊ HẠI, NGƯỜI LÀM CHỨNG
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÉT XỬ VỤ ÁN MÀ BỊ CAN,
BỊ CÁO, NGƯỜI BỊ HẠI, NGƯỜI LÀM CHỨNG
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
I. NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH TUỔI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1. Khái niệm người chưa thành niên và tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo
quy định của BLHS
1.1. Khái niệm
Người chưa thành niên là người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách,
chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân theo quy định của pháp
luật. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Hiện nay, kể cả luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam chưa đưa ra một khái
niệm cụ thể về người chưa thành niên. Trong nhiều văn bản pháp luật Quốc tế về
người chưa thành niên và quyền trẻ em như Quy tắc của Liên Hợp quốc về bảo vệ
người chưa thành niên, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Quy tắc Bắc
Kinh (1985), Hướng dẫn Riat (1990), Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 18), Luật bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004... đều chỉ định nghĩa người chưa thành
niên theo độ tuổi, cụ thể: “người chưa thành niên là những người dưới 18
tuổi”. Tại các văn bản này, khái niệm người chưa thành niên bao gồm cả khái niệm
trẻ em.
Ở nước ta, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến
Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ
luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn
bản quy phạm pháp luật khác. Theo đó, người chưa thành niên là người dưới 18
tuổi và có những chế định pháp luật riêng đối với người chưa thành niên trong từng
lĩnh vực cụ thể.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về
mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi
trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, quy định những quyền và
nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Vậy: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về
thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã
thành niên.
1.2. Đặc điểm
Người chưa thành niên là người đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện về
thể chất, tâm sinh lý và nhân cách sống. Người ở độ tuổi này chưa phát triển đầy
đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần, nhân cách; có sự hạn chế về kinh nghiệm
sống, kiến thức pháp luật, xã hội, dễ bị tác động, chi phối bởi điều kiện sống; chưa
thể nhận thức đầy đủ về hành vi mà mình thực hiện, khả năng tự kiềm chế chưa tốt.
Trong tư duy của người ở độ tuổi này bắt đầu hình thành ý thức độc lập trong việc
quyết định cuộc sống riêng của mình, bắt đầu tự độc lập trong hành động, suy nghĩ,
ứng xử và thiết lập các mối quan hệ riêng biệt, không muốn nghe theo sự sắp đặt
của cha mẹ, thích khám phá, tò mò và muốn khẳng định bản thân nên dễ bị người
khác kích động, dụ dỗ, lôi kéo vào việc thực hiện những hành vi trái pháp luật.
Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS:
BLHS 1999 quy định: “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng; 2. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về
mọi tội phạm” (điều 12 BLHS).
“Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự” (điều 68 BLHS).
Như vậy, người chưa thành niên có thể trở thành chủ thể tội phạm, tham gia tố tụng
với tư cách là bị can, bị cáo, bị hại hay người làm chứng trong vụ án hình sự.
Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BTP-BLĐTBXH ngày
12/7/2011, khái niệm người chưa thành niên được hiểu: “là người chưa phát triển
đầy đủ về thể chất và tâm thần, là những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là
khi họ tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án, do đó tùy theo lứa
tuổi, mức độ trưởng thành và nhu cầu cá nhân mà họ cần được bảo vệ theo đúng
quy định của pháp luật khi tham gia tố tụng hình sự”.
Tại Việt Nam, theo Điều 1 Luật bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của Việt
Nam năm 2004 thì "trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi". Như vậy độ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự của người thành niên được xây dựng dựa trên sự phát
triển về mặt thể chất và tinh thần của con người; trình độ phát triển về nhận thức xã
hội; điều kiện kinh tế - xã hội của từng quốc gia trong từng thời kỳ. Tuổi chịu trách
nhiệm hình sự hiện nay có nhiều chênh lệch giữa các quốc gia.
Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số quốc gia trên thế giới:
Bangladesh
7
Liên bang Nga
14
Ấn Độ
7
Hàn Quốc
12
Thái Lan
7
Đức
14
Indonesia
8
Pháp
13
Trung Quốc
14
Myanmar
7
Nhật Bản
14
Nam Phi
7
2. Nguyên tắc xác định tuổi người chưa thành niên
2.1. Xác định tuổi của bị can, bị cáo
Việc xác định chính xác ngày, tháng, năm sinh của bị can, bị cáo có ý nghĩa hết
sức quan trọng xem người đó đã đến tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự hay chưa;
nếu đã đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì khi phạm tội họ bao nhiêu tuổi và khi
tiến hành điều tra, truy tố, xét xử họ đã đủ 18 tuổi hay chưa, để thực hiện đúng các
quy định của BLHS đối với họ cũng như áp dụng đúng quy định của BLTTHS đối
với người chưa thành niên phạm tội.
Vấn đề xác định tuổi của bị can, bị cáo phạm tô ôi do cơ quan điều tra và Viê ôn kiểm
sát thực hiê nô . Thông thường, tuổi của bị can, bị cáo được xác định căn cứ vào lý
lịch tư pháp dựa trên các loại giấy tờ như giấy khai sinh, chứng minh thư,…
Trường hợp bị can, bị cáo không có các loại giấy tờ trên thì cơ quan tiến hành tố
tụng phải tiến hành điều tra, xác minh. Trong trường hợp đã tiến hành mọi biê ôn
pháp cần thiết nhưng vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh thì
viê ôc xác định tuổi của bị can, bị cáo được xác định như sau:
Căn
cứ
Thông
tư
số
01/2011/TTLT/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-
BLĐTBXH ngày 12-7-2011 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thì tuổi của
bị cáo là người chưa thành niên do cơ quan tiến hành tố tụng xác định theo quy
định của pháp luật. Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không
xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh của bị can, bị cáo thì tuổi của họ
được xác định như sau:
- Trường hợp xác định được tháng sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày thì
trong tháng đó lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo.
- Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày
tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó
làm ngày sinh của bị can, bị cáo;
- Trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không
xác định được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối năm đó thì lấy ngày
30 tháng 6 hoặc ngày 31 tháng 12 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của bị can,
bị cáo;
- Trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày
tháng sinh của bị can, bị cáo thì lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày sinh
của bị can, bị cáo.
- Trường hợp không xác định được năm sinh của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi của họ.
Ngoài ra, cũng cần phải xem xét đến trình độ phát triển về thể chất và tinh thần,
mức độ nhận thức về hành vi phạm tội để có căn cứ xác định tuổi của họ.
2.2. Xác định tuổi của người bị hại, người làm chứng
Việc xác định tuổi của người bị hại là người chưa thành niên do cơ quan tiến hành
tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã áp dụng các biện pháp
hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh của người bị
hại là người chưa thành niên thì tuổi của họ được xác định như sau:
- Trường hợp xác định tháng sinh cụ thể, nhưng không xác định được ngày sinh
trong tháng đó thì lấy ngày mùng một của tháng đó làm ngày sinh;
- Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày
tháng nào trong quý đó thì lấy ngày mùng một của tháng đầu của quý đó làm ngày
sinh;
- Trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không
xác định được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối năm đó thì lấy
ngày mùng một tháng Giêng hoặc ngày mùng một tháng Bảy tương ứng của năm
đó làm ngày sinh;
- Trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày
tháng sinh thì lấy ngày mùng một tháng Giêng của năm đó làm ngày sinh.
- Trường hợp không xác định được năm sinh của người bị hại là người chưa thành
niên thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi của họ.
Đối với người làm chứng: tuổi của người làm chứng BLHS, BLTTHS và Thông
tư số 01 chưa có quy định. Vì vậy tuổi của người làm chứng được xác định căn cứ
vào các quy định của pháp luật dân sự.
II. PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN
1. Chính sách Hình sự của Nhà nước
Với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ trẻ em, Nhà nước Việt Nam
tham gia Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 và đã thúc đẩy việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền trẻ em, trong đó đã dành sự quan tâm đặc
biệt cho đối tượng trẻ em vi phạm pháp luật, nhất là những trường hợp người chưa
thành niên phạm tội.
Bên cạnh những tư tưởng chỉ đạo, quan điểm nguyên tắc xử lý trách
nhiệm hình sự với người phạm tội chưa thành niên, theo xu hướng chung hiện nay
thì nội dung của chính sách hình sự liên quan đến cả hai lĩnh vực: Lĩnh vực luật nội
dung (luật Hình sự) và lĩnh vực luật hình thức (luật Tố tụng hình sự).
Chính sách hình sự là những nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo, quá trình điều
tra, truy tố, xét xử đối với những vụ án có người chưa thành niên phạm tô ôi. Bộ luật
Hình sự hiện hành xây dựng một chương riêng quy định đường lối xử lý đối với
người chưa thành niên phạm tội, chương X Bộ luật Hình sự (BLHS) 1999. Bộ luật
Tố tụng hình sự cũng có mô tô chương riêng quy định về trình tự, thủ tục truy cứu
trách nhiê ôm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tô ôi, chương XXXII.
Xuất phát từ đặc điểm tâm - sinh lý của người chưa thành niên, chính sách nhân
đạo của Đảng và Nhà nước, và trên cơ sở niềm tin vào khả năng cải tạo, giáo dục
người chưa thành niên phạm tội giúp họ tích cực cải tạo, sửa chữa sai lầm, phát
triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội, các nhà làm luật Việt Nam
không coi người chưa thành niên phạm tội có năng lực trách nhiệm hình sự như
người đã thành niên phạm tội và có chính sách hình sự riêng đối với đối tượng này,
lấy việc vận động, giáo dục người chưa thành niên làm nền tảng. Chính sách đó
được thể hiện rõ nét và tập trung nhất tại Điều 69 Bộ luật Hình sự, đó là:
1 - Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa
thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận
thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân
và điều kiện gây ra tội phạm. Đây là nguyên tắc mang tính chỉ đạo, thể hiện chính
sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xử lý người chưa thành niên
phạm tội. Đây cũng là sự cụ thể hóa nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, thể
hiện mục đích cao nhất của pháp luật là các biện pháp áp dụng với người chưa
thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ thấy được tính chất của tội phạm,
sự nghiêm minh của pháp luật. Trong điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của
người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả
năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Có như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng
mới xác định được chính xác tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội và có biện pháp cũng như hình phạt phù hợp đối với người chưa thành
niên phạm tội. Ngoài ra, việc làm rõ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm
cũng giúp cho các cơ quan chức năng có phương pháp, cách thức giáo dục hiệu quả
người chưa thành niên, giúp họ nhận thức được lỗi của mình và sửa chữa để trở
thành công dân có ích cho gia đình và xã hội trong tương lai; đồng thời việc hiểu
rõ nguyên nhân và điều kiện phạm tội còn giúp cho Nhà nước có biện pháp loại
trừ, phòng ngừa người chưa thành niên khác phạm tội.
2 - Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự,
nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại
không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ
chức nhận giám sát, giáo dục. Việc Nhà nước quy định nguyên tắc người
chưa thành niên có thể được miễn TNHS khi có đủ những điều kiện luật
định càng thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước ta, đồng
thời thế hiện rõ nét đường lối xử lý về hình sự, đó là: bảo đảm sự kết hợp hài
hòa giữa các biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất của Nhà nước
với các biện pháp tác động xã hội khác để cải tạo, giáo dục người phạm tội,
bằng cách đó hạn chế áp dụng các biện pháp mang tính trấn áp (trừng trị) về
mặt hình sự.
Miễn TNHS cho người chưa thành niên phạm tội là trường hợp miễn trách
nhiệm có tính chất lựa chọn. Do đó, khi xét xử, Thẩm phán có quyền áp
dụng hay không áp dụng miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội. Tuy nhiên, để áp dụng đúng chế định miễn TNHS đối với
người chưa thành niên phạm tội, thì Thẩm phán cần căn cứ vào tình hình
thực tế vụ án, vào yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, vào khả năng
cải tạo, giáo dục người chưa thành niên phạm tội trong môi trường xã hội
bình thường với sự giáo dục, giám sát của gia đình hoặc cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền tương ứng, nhân thân của chính người chưa thành niên phạm tội
đó, cũng như xem xét đầy đủ các điều kiện có thể được miễn trách nhiệm
hình sự theo quy định pháp luật, bao gồm bốn điều kiện sau:
- Đối tượng áp dụng: là người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
- Tội phạm được thực hiện: tội phạm mà người chưa thành niên thực hiện phải là
tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng, gây hại không lớn. Gây hại
không lớn ở đây cần phải được hiểu là gây thiệt hại (gây ra hậu quả) không lớn, vì
đã là tội phạm nghiêm trọng thì không thể nói là gây hại không lớn.
- Người chưa thành niên phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được hiểu là có từ hai tình tiết giảm
nhẹ trở lên. Các tình tiết này có thể được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS hoặc
trong các văn bản hướng dẫn áp dụng khoản 2 Điều 46 BLHS hoặc có thể là tình
tiết do Tòa án cân nhắc, xem xét trong từng trường hợp cụ thể và ghi rõ trong bản
án.
- Người chưa thành niên được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức xã hội nhận giám sát,
giáo dục. Như trên đã trình bày, người chưa thành niên có những đặc điểm riêng về
tâm sinh lý, là người đang ở độ tuổi phát triển nên chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi
trường sống; do đó khi cho người chưa thành niên phạm tội được miễn TNHS thì
Thẩm phán phải bảo đảm cho người chưa thành niên được sống trong môi trường
có giáo dục để họ có thể nhận thức sai lầm, sửa chữa và hoàn thiện mình; do đó chỉ
có thể cho người chưa thành niên được miễn TNHS nếu họ được gia đình hoặc cơ
quan, tổ chức xã hội nhận giám sát, giáo dục. Tuy nhiên, khi xem xét việc gia đình,
tổ chức nhận giám sát, giáo dục người chưa thành niên thì Thẩm phán cần xem xét,
đánh giá kỹ môi trường sống trong gia đình, tổ chức đó có tốt đẹp và bảo đảm sự
giáo dục đối với người chưa thành niên hay không.
Có thể nói, với quy định này thì Nhà Nước đã xã hội hóa được việc giáo dục người
chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên, việc áp dụng chế định miễn TNHS đối với
người chưa thành niên phạm tội hiện nay vẫn còn hạn chế, do nhiều nguyên nhân
khác nhau, mà một trong số những nguyên nhân đó là các cơ quan tư pháp trung ương
chưa tuyên truyền chủ trương và chưa ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể nên nhiều
Thẩm phán chưa mạnh dạn áp dụng chế định miễn TNHS cho người chưa thành niên
phạm tội.
3 - Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng
hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ
vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu
của việc phòng ngừa tội phạm.
Đây là nguyên tắc phù hợp với pháp luật quốc tế về nguyên tắc xử lý đối với người
chưa thành niên phạm tội, thể hiện sự nhân đạo, khoan hồng và đường lối giáo dục
đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo nguyên tắc này thì không phải mọi
trường hợp người chưa thành niên phạm tội đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc
truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ được đặt ra khi nó thật sự cần thiết và xuất phát từ
yêu cầu phòng ngừa tội phạm. Ngay kể cả khi người chưa thành niên phạm tội và bị
truy cứu trách nhiệm hình sự thì họ vẫn có khả năng không bị áp dụng hình phạt.
4 - Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội, thì Toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy
định tại Điều 70 của Bộ luật hình sự.
Với tư tưởng mọi biện pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội đều
nhằm giáo dục, giúp họ trở thành người có ích cho xã hội, do đó nếu hình phạt
được áp dụng đối với người chưa thành niên mà ảnh hưởng đến tâm lý, tư tưởng và
sự phát triển nhân cách, trong khi chỉ cần áp dụng các biện pháp tư pháp như giáo
dục tại xã phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng cũng đủ sức răn đe và giáo
dục người chưa thành niên phạm tội thì Thẩm phán nên áp dụng các biện pháp tư
pháp này đối với họ như một biện pháp thay thế hình phạt.
5 - Về hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội: Nhà nước có
chính sách như sau:
+) Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm
tội.
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm sinh lý,
do đó hành vi phạm tội của họ được cho là một phần do môi trường sống, ảnh
hưởng từ môi trường sống; không phải lỗi hoàn toàn do bản thân người chưa thành
niên. Nhiều nhà khoa học đã cho rằng khi não bộ họ chưa phát triển đầy đủ thì họ
không phải chịu hoàn toàn về hành vi của mình và họ là những con người có thể
cải thiện, giáo dục được, do đó Nhà nước Việt Nam có đường lối rõ ràng: không áp
dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.
Tuy nhiên, đây cũng là một vấn đề cần phải xem xét kỹ lưỡng hơn qua vụ án Lê Văn
Luyện ở Bắc Giang. Hiện nay, có quan điểm cho rằng Nhà nước cần sửa đổi Luật
theo hướng vẫn có thể áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người chưa
thành niên phạm tội trong những trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây
ảnh hưởng lớn trong xã hội mà người chưa thành niên phạm tội là người mà được
xác định là không còn khả năng cải tạo và việc áp dụng hình phạt tử hình đối với họ
sẽ được thực hiện theo một cơ chế đặc biệt dưới sự giám sát của cơ quan chức năng
và nhân dân, theo một trình tự đặc biệt, có như vậy mới bảo đảm được yêu cầu của
cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm vị thành niên.
+) Khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạn chế áp
dụng hình phạt tù. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên
phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên
phạm tội tương ứng. Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên
phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Không áp dụng hình phạt bổ sung
đối với người chưa thành niên phạm tội.
Quy tắc 19 của Quy tắc Bắc Kinh (Những Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp
quốc về việc áp dụng pháp luật đối với chưa thành niên phạm tội) cũng đã
đưa ra nguyên tắc cơ bản là:
"Việc đưa trẻ em vào trại giam là phương pháp giải quyết cuối cùng và trong thời
hạn cần thiết tối thiểu". Chúng ta phải dựa trên một báo cáo về hoàn cảnh sống của
người phạm tội, hoàn cảnh tội phạm được thực hiện và các nhân tố khác để
đi đến quyếtđịnh áp dụng hình phạt tù
đối với họ. Tòa án chỉ
đưa ra hạn chế tự do cá nhân đối với người phạm tội, khi người chưa thành niên bị
xét xử về hành vi rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng, có dùng bạo lực để chống lại người khác hay ngoan cố gây r
a những hành vi nghiêm trọng khác mà chúng ta không còn hướng giải quyết nào.
Phù hợp với nguyên tắc xử lý
đối với người chưa thành niên phạm tội pháp luật quốc tế, pháp luật hình sự Việt N
am cũng đã nêu rõ tại Điều 69 BLHS chủ trương, chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước là: khi áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội cần hạ
n chế áp dụng hình phạt tù.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được
hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội
tương ứng.
6 - Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì
không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Để tạo điều kiện để người chưa thành niên có thể tái hòa nhập cộng đồng, phát triển
lành mạnh về thể chất và tinh thần, cũng như tránh những mặc cảm tội lỗi của bản
thân người chưa thành niên và cái nhìn thiếu thiện cảm, dị nghị của xã hội đối với họ
sau này khi đã trở thành người thành niên, Nhà nước quy định án đã tuyên đối với
người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái
phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Các quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên có những điểm khác
biệt so với thủ tục tố tụng hình sự áp dụng đối với người thành niên phạm tội.
Chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam đối với việc truy cứu trách nhiệm hình
sự người chưa thành niên là nhằm giúp đỡ, cải tạo, giáo dục để người chưa thành
niên nhận ra sai lầm từ đó sửa chữa những sai lầm của mình, tạo điều kiện tái hòa
nhập cuộc sống. Với lý do này pháp luật hình sự nước ta có những quy định về thủ
tục tố tụng riêng dành cho người chưa thành niên khi họ là bị can, bị cáo trong các
vụ án hình sự. Chính sách đối với người chưa thành niên trong lĩnh vực hình sự
chủ yếu liên quan đến năng lực chịu TNHS, mục đích áp dụng TNHS nặng về giáo
dục, giúp họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để họ trở thành công dân tốt,
có ích cho xã hội chứ không nặng về trừng phạt. Đây là nguyên tắc bao trùm mang
tính chất chỉ đạo thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước Việt Nam lấy
giáo dục làm nền tảng, trọng tâm trong quá trình xử lý vụ án mà bị can, bị cáo là
người chưa thành niên. Ngoài những quy định trong BLHS và BLTTHS, đối với
người chưa thành niên phải chấp hành hình phạt thì nhà nước cũng có những chính
sách riêng cho những phạm nhân này (Điều 50 – 53 Luâ ôt Thi hành án hình sự).
2. Quy định của pháp luật Hình sự đối với vụ án có người tham gia tố tụng là
người chưa thành niên
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 có tới 15 điều luật có quy định liên quan đến
người chưa thành niên (bao gồm: Điều 57 (khoản 2); Điều 58 (khoản 2), Điều 59
(khoản 3); Điều 105 (khoản 1); Điều 211 (khoản 3); từ Điều 301 đến Điều 310
(chương 32, thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên)); Bộ luật Hình sự năm
1999 có tới 25 điều luật có quy định liên quan đến người chưa thành niên (bao
gồm Điều 34, Điều 35, từ Điều 68 đến Điều 77 (chương 10, những quy định đối
với người chưa thành niên phạm tội), các Điều 111, 113, 117, 118, 197, 200, 252,
253, 254, 255, 256, 313)). Tại các điều luật này, ngoài việc quy định trong Phần
các tội phạm về tình tiết phạm tội đối với người chưa thành niên là tình tiết tăng
nặng định khung của nhiều tội phạm, thì nhà làm luật còn quy định rõ quyền của bị
can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội, việc điều tra, truy tố và thủ tục xét
xử đối với người chưa thành niên phạm tội, cũng như chính sách pháp luật, hình
phạt, các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Trong
phạm vi chuyên đề này, tập trung nghiên cứu quy định về xét xử án hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội.
2.1. Vụ án có bị can, bị cáo là người chưa thành niên
2.1.1. Quy định về thủ tục tố tụng đặc biệt khi xét xử vụ án hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội
Căn cứ vào các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Thông tư liên
tịch
số
01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH
ngày
12/7/2011 giữa Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công
an, Bộ Tư pháp và Bộ Lao động Thương binh - Xã hội hướng dẫn thi hành một số
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự đối với người tham gia tố tụng là người chưa
thành niên, chúng ta có thể rút ra những yêu cầu cơ bản khi xét xử vụ án hình sự
đối với người chưa thành niên phạm tội như sau:
- Thẩm phán xét xử vụ án hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội phải là
người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về
hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên.
- Khi xét xử án hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội thì sự có mặt của
người bào chữa tại phiên toà là bắt buộc. Nếu người bào chữa vắng mặt thì phải hoãn
phiên toà. Trong trường hợp người bào chữa vắng mặt, nhưng đã gửi trước bản bào
chữa thì phiên toà vẫn được tiến hành nếu Toà án thấy rằng việc vắng mặt người bào
chữa không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án tại phiên toà.
- Tại phiên tòa xét xử bị cáo là người chưa thành niên phải có mặt đại diện của gia
đình bị cáo, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do
chính đáng, đại diện của nhà trường, tổ chức. Đại diện của gia đình bị cáo, đại diện
của nhà trường, tổ chức tham gia phiên tòa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu
và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; tham gia tranh luận; khiếu nại các
hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết
định của Tòa án.
Trường hợp cần thiết hoặc khi người chưa thành niên có yêu cầu, Tòa án có thể
mời đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh
niên hoặc cán bộ trợ giúp khác tham gia phiên tòa để hỗ trợ cho họ.
- Khi tiến hành xét xử, Tòa án có thể sắp xếp lại vị trí của những người tiến hành tố
tụng, những người tham gia tố tụng trong phòng xử án nhằm làm giảm cảm giác
căng thẳng, sợ hãi đối với người chưa thành niên phạm tội. Không còng tay hoặc
sử dụng các phương tiện cưỡng chế khác trong quá trình xét xử tại Tòa án, trừ
trường hợp họ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng do cố ý hoặc có
việc làm tiêu cực hoặc có biểu hiện chống đối, gây mất trật tự tại phiên tòa.
- Khi xét xử đối với bị cáo là người chưa thành niên, cần phải xác định rõ: tuổi,
trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội
của người chưa thành niên; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay không có
người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
- Số lượng Thẩm phán và Hội thẩm trong Hội đồng xét xử vụ án hình sự đối với
người chưa thành niên phạm tội được thực hiện theo quy định chung tại các Điều
185 và 244 Bộ luật Tố tụng hình sự, cụ thể: Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một
Thẩm phán và hai Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng,
phức tạp hoặc bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất
là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm; Hội đồng xét
xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai
Hội thẩm.
Do tính chất đặc thù của bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội, nên Bộ
luật tố Tụng hình sự (Điều 307) quy định trong thành phần Hội đồng xét xử đối với
người chưa thành niên phạm tội, phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
- Việc thẩm vấn, xét hỏi bị cáo là người chưa thành niên tại phiên tòa phải theo quy
định tại Điều 209 Bộ luật Tố tụng hình sự và phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát
triển của bị cáo. Những lời giải thích về quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét xử cũng
như các câu hỏi đưa ra tại phiên tòa cần đơn giản, rõ ràng để đảm bảo cho người
chưa thành niên và đại diện gia đình của họ có thể hiểu và trả lời đúng câu hỏi. Hội
đồng xét xử phải cho phép người chưa thành niên bày tỏ ý kiến, quan điểm, nguyện
vọng của mình và phải cân nhắc, xem xét các ý kiến, quan điểm, nguyện vọng đó
trước khi ra bản án, quyết định.
- Ngoài các trường hợp quy định tại Điều 18 Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án có
thể quyết định xét xử kín vụ án do người chưa thành niên phạm tội gây ra để tạo
thuận lợi cho quá trình tái hòa nhập cộng đồng của họ.
Không tiến hành xét xử lưu động vụ án do người chưa thành niên gây ra, trừ
trường hợp cần giáo dục, tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm.
2.1.2. Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
* Đặc điểm của hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội (Điều 26). Khi quy định hình phạt
trong Bộ luật hình sự, các nhà làm luật nước ta cũng xác định mục đích áp dụng
hình phạt, theo đó hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo
dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy
tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn
nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm (Điều 27 Bộ luật Hình sự).
Đối với người chưa thành niên phạm tội - chủ thể có nét đặc trưng riêng về tâm sinh lý (mà các nhà khoa học đã xác định người ở độ tuổi chưa thành niên thì não
bộ vẫn còn đang trong quá trình phát triển và còn có thể cải tạo được) nên hình
phạt đối với họ trước hết nhằm mục đích giáo dục, cải tạo, sau đó mới mang tính
chất trừng trị. Xuất phát từ cơ sở khoa học về tâm lý học, sinh học, xã hội học, Nhà
nước ta có quan điểm đường lối rõ ràng đối với người chưa thành niên phạm tội là
nên áp dụng đối với họ những hình phạt ít nghiêm khắc hơn so với người đã thành
niên phạm tội. Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải
được cân nhắc cẩn thận để vừa bảo đảm được mục đích giáo dục, răn đe những
hành vi sai lệch, lệch chuẩn, mà còn làm cho họ thấy rõ được sai phạm và tự giác
sửa chữa với sự giúp đỡ của gia đình, nhà trường, bạn bè và xã hội. Điều này có
nghĩa, mục đích giáo dục của hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội
còn được thể hiện qua việc quy định về điều kiện áp dụng hình phạt, mức tối đa
của hình phạt luôn thấp hơn so với người đã thành niên khác để bảo đảm cho họ có
thể nhanh chóng tái hòa nhập với xã hội. Đặc biệt, các hình phạt bổ sung, hình phạt
tù chung thân, hình phạt tử hình không được áp dụng với người phạm tội ở độ tuổi
chưa thành niên. Do đó, theo quy định tại Điều 71 Bộ luật Hình sự năm 1999, các
hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội chỉ bao gồm: Cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và hình phạt tù có thời hạn.
Tóm lại, xuất phát từ khái niệm hình phạt (Điều 26), mục đích của hình phạt (Điều
27), các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội (các Điều
71-74 và các điều tương ứng về các hình phạt quy định tại các Điều 29-31, 33 Bộ
luật Hình sự), cũng như thực tiễn áp dụng hình phạt đối với đối tượng này, thì hình
phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được khái niệm như sau:
Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là những biện pháp
cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Tòa án áp dụng nhằm
tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người chưa thành niên phạm tội, thông qua
đó giáo dục, cải tạo, giúp họ sửa chữa sai lầm, phấn đấu trở thành người có ích cho
gia đình và xã hội.
- Những đặc điểm cơ bản của các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội bao gồm:
+) Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội cũng là một
dạng của trách nhiệm hình sự và chỉ áp dụng khi có sự việc phạm tội do người
chưa thành niên thực hiện.
+ Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là những biện
pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất và tạo ra hậu quả pháp lý đối với
người chưa thành niên phạm tội là bị tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền và lợi ích,
đồng thời họ bị coi là có án tích.
+ Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội có mức độ trấn
áp nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội.
+ Cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội là Tòa án.
+ Mục đích trước nhất của việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội là giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội.
+ Các hình phạt này chỉ mang tính chất cá nhân. Hay nói cách khác, các hình phạt
áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội chỉ áp dụng đối với bản thân
người chưa thành niên đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình
sự quy định là tội phạm
* Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội:
Theo quy định tại Điều 71 Bộ luật Hình sự thì người chưa thành niên phạm tội chỉ bị
áp dụng một trong bốn hình phạt sau đây:
- Cảnh cáo;
- Phạt tiền;
- Cải tạo không giam giữ;
- Tù có thời hạn.
Hình phạt cảnh cáo
Điều 29 Bộ luật Hình sự quy định: "Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm
tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình
phạt”.
Điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người chưa thành niên phạm tội bao
gồm:
- Tội phạm mà người chưa thành niên thực hiện là tội ít nghiêm trọng (là tội phạm
gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội
ấy là đến ba năm tù);
- Người chưa thành niên được áp dụng hình phạt cảnh cáo là người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi, vì người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16
tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
- Người phạm tội được áp dụng hình phạt cảnh cáo là người có nhiều tình tiết giảm
nhẹ, nhưng chưa đến mức được miễn hình phạt. Nhiều tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự được hiểu là phải có ít nhất từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và các
tình tiết giảm nhẹ này phải được quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự
- Xem thêm -