1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm gần đây, tình hình thảm họa trên thế giới và Việt Nam diễn
biến rất phức tạp, chứa đựng nhiều yếu tố khó lường. Trên thế giới trung bình
cứ một tuần xảy ra một thảm họa lớn, cướp đi sinh mạng của hàng chục nghìn
người, hủy hoại nhiều cơ sở vật chất và các công trình kiến trúc có giá trị của
nhân loại, gây hậu quả nghiêm trọng môi trường sinh thái, ảnh hưởng trực
tiếp đời sống của hàng tỷ người [52], [78]. Thực tế cho thấy thảm họa xảy ra
hết sức đột ngột không hề báo trước, số lượng các nạn nhân cần được cứu
chữa, vận chuyển luôn vượt quá khả năng đáp ứng của ngành y tế. Bên cạnh
đó chính bản thân các cơ sở y tế trong khu vực thảm họa cũng bị thiệt hại
nặng nề cả về con người cũng như cơ sở vật chất [59], [69].
Để hạn chế đến mức thấp nhất tổn thất do thảm họa gây ra, cần có sự
phối hợp hành động của nhiều lực lượng và phương tiện trong đó ngành y tế
có vai trò quan trọng [2], [32]. Khi thảm họa xảy ra toàn bộ ngành y tế không
phân biệt quân y hay dân y đều phải tổ chức thu dung, cứu chữa các nạn nhân.
Việc tổ chức cứu chữa có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào khả
năng đáp ứng của ngành y tế trên tất cả các tuyến [20], [71], [74].
Tuyến bệnh viện nhất là các bệnh viện đóng ở nơi dân cư đông đúc, khi
thảm họa xảy ra sẽ có rất nhiều nạn nhân cần thu dung, cứu chữa trong cùng
một thời điểm và trong điều kiện hoàn toàn không thuận lợi. Vì vậy, các bệnh
viện cần có kế hoạch cụ thể, thường xuyên huấn luyện theo các tình huống
khác nhau, bảo đảm sẵn sàng đáp ứng y tế trong các tình huống khẩn cấp [10],
[11], [16]. Trong thời gian qua, công tác kết hợp quân dân y đã được triển
khai đều khắp trên cả nước, với nhiều nội dung phong phú đã góp phần nâng
cao chất lượng chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân và bộ đội. Tuy nhiên,
việc phối kết hợp trong việc thu dung, cứu chữa nạn nhân, khắc phục hậu quả
2
do thảm họa còn bộc lộ nhiều bất cập, nhất là ở tuyến quân khu như: đáp ứng
y tế trong tình huống khẩn cấp còn chậm, thu dung phân loại nạn nhân còn
lúng túng về tổ chức và chưa thuần thục về chuyên môn, công tác chỉ huy và
điều hành còn nhiều hạn chế, chưa huy động được sức mạnh tổng hợp để đáp
ứng với tình huống khẩn cấp về y tế nên hiệu quả chưa cao [18], [77].
Đã có một số đề tài nghiên cứu về mô hình và đã thực hiện diễn tập về
tổ chức thu dung, cứu chữa nạn nhân hàng loạt do thảm họa của các bệnh viện
tuyến cuối quân đội. Tuy nhiên do quy mô và nhiệm vụ của các bệnh viện này
có những khác biệt với bệnh viện tuyến cuối quân khu nên không thể áp dụng
chung một mô hình [5], [28]. Bệnh viện tuyến cuối quân khu là bệnh viện đa
khoa có chuyên khoa (loại B), đóng quân trên một địa bàn chiến lược của
quốc gia, làm nhiệm vụ thu dung điều trị cho bộ đội và nhân dân trong khu
vực. Có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đáp ứng y tế khẩn cấp khi có
thảm họa xảy ra trong khu vực. Tuy nhiên cho đến nay, do chưa có mô hình
thống nhất nên công tác thu dung, cứu chữa nạn nhân do thảm họa của bệnh
viện tuyến cuối quân khu còn nhiều hạn chế. Xuất phát từ những lý do trên,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm các mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng thu dung, cứu chữa nạn nhân hàng loạt của các
bệnh viện tuyến cuối quân khu giai đoạn 2007-2012.
2. Xây dựng mô hình, triển khai diễn tập thực nghiệm và đánh giá
kết quả mô hình tổ chức thu dung, cứu chữa nạn nhân hàng loạt do thảm
họa tại Bệnh viện 4, Quân khu 4, năm 2012 – 2013.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. TÌNH HÌNH THẢM HỌA VÀ THIỆT HẠI DO THẢM HỌA TRÊN THẾ GIỚI
VÀ TẠI VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm về thảm họa
1.1.1.1. Theo quan niệm của thế giới
Hiện nay trên thế giới người ta hiểu thuật ngữ thảm họa là để chỉ một số
lượng lớn nạn nhân được tạo nên do một hiện tượng hoặc một loạt sự kiện
xảy ra liên tiếp trong cùng một khoảng thời gian, và đã có một số định nghĩa
về thảm họa như sau:
Năm 1881, Littre đưa ra khái niệm đầu tiên: "Thảm họa là một bất hạnh
lớn nó tàn phá tận cùng có tính đáng thương".
Năm 1983 Ủy ban Châu Âu nghiên cứu về thảm họa họp ở Brigroles đã đề
xuất: “Thảm họa là một biến cố phá hủy gây nên tổn thương trầm trọng cho
nhân dân, môi trường, kéo theo sự thay đổi nhu cầu và phương tiện” [98].
Quan niệm của Vương Quốc Bỉ: “Thảm họa là vụ việc vượt quá khả
năng giải quyết của một cộng đồng, gây nên sự mất cân bằng đột xuất và ồ ạt
về số lượng và chất lượng giữa nhu cầu tức thì, đột ngột về các nguồn lực cơ
sở vật chất, trang thiết bị sẵn có. Về y tế cần phải đáp ứng y tế khẩn cấp khi
có tình trạng 5 nạn nhân nặng và nhiều người bị thương nhẹ hoặc 10 nạn
nhân có bệnh lý không xác định hoặc hơn 10 người trong tình trạng nguy
hiểm” [79], [99].
Theo Tổ chức y tế thế giới: “Thảm họa là các hiện tượng gây ra các
thiệt hại, các đảo lộn về kinh tế, các tổn thất về sinh mạng, sức khỏe con
người, các hư hại đến cơ sở y tế với một mức độ lớn, đòi hỏi sự huy động cứu
trợ đặc biệt từ ngoài đến vùng thảm họa” [37], [108], [129].
4
1.1.1.2. Theo quan niệm của Việt Nam
Ngày 4 tháng 3 năm 1994 Liên Bộ Y tế - Quốc phòng đưa ra khái
niệm: "Thảm họa là những rủi ro hoặc biến cố bất ngờ xảy ra, gây nên những
tổn thất lớn về người và của cải vật chất”.
Theo Lê Thế Trung: “ Về y tế các thảm họa thường gây ảnh hưởng lớn
đến con người như tổn thất về sinh mạng, bị thương, bị bệnh, bị nhiễm độc
gây nhiễm trùng, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống người dân vùng bị
nạn đòi hỏi sự đáp ứng y tế khẩn cấp và sự cứu trợ đặc biệt từ các nơi khác
đến vùng thảm họa” [50].
1.1.2. Phân loại thảm họa
1.1.2.1. Trên thế giới
* Theo Tổ chức y tế thế giới chia làm 4 nhóm [84], [88], [130]:
- Nhóm khí tượng: bão, lũ lụt, gió xoáy, dông lốc, vòi rồng...
- Nhóm do biến đổi địa hình: động đất, khối dịch chuyển, sạt lở đất...
- Nhóm do kiến tạo: núi lửa phun, nham thạch...
- Nhóm sự cố kỹ thuật: đổ sập các hầm lò, công trình, cầu cống,...
* Theo y học Pháp [99], [129]:
- Phân loại theo các yếu tố tự nhiên: sóng thần, bão lốc, tuyết lở, lũ lụt..
- Kinh tế - xã hội: dịch bệnh, nạn đói...
- Công nghệ khoa học: hóa chất, khí độc, nước, than, dầu, hạt nhân...
- Thảm họa do xung đột vũ trang: khủng bố, chiến tranh,...
- Phân loại theo số lượng nạn nhân
+ Mức độ nhỏ: từ 25 đến 100 nạn nhân
+ Mức độ trung bình: từ 101 đến 1000 nạn nhân
+ Mức độ lớn có trên 1000 nạn nhân hoặc 250 người trở lên phải vào
bệnh viện điều trị.
- Phân loại theo thời gian:
+ Ngắn dưới 1 giờ: động đất, nổ, tai nạn giao thông...
5
+ Trung bình từ 1 đến 24 giờ: cháy, sóng thần…
+ Thời gian dài trên 24 giờ: bão lụt, xung đột vũ trang, chiến tranh…
* Phân loại theo quan niệm của Y học Vương Quốc Bỉ [79]:
Các cấp độ của thảm họa được phân chia theo khu vực địa giới.
- Cấp xã (phường): thảm họa xảy ra giới hạn trong một xã (phường).
Công tác đáp ứng với thảm họa do xã trưởng điều hành.
- Cấp Tỉnh (vùng): thảm họa xảy ra tổn thất trong một tỉnh hoặc một
vùng, công tác đáp ứng thảm họa do Tỉnh trưởng chỉ huy điều hành.
- Cấp Liên bang: thảm họa gây ra tổn thất ở nhiều tỉnh hoặc nhiều bang,
công tác đáp ứng với thảm họa lúc này do Bộ Nội vụ điều hành.
1.1.2.2. Tại Việt Nam
Việt Nam phân loại thảm họa về cơ bản giống với cách phân loại của
các nước trên thế giới và được chia làm hai loại lớn đó là:
* Thảm họa do thiên nhiên: bão, lũ lụt, giông lốc, động đất...[58], [75].
* Thảm họa do con người gây ra bao gồm [34], [61], [76], [62]:
- Các tai nạn giao thông: đường bộ, đường không, đường thủy.
- Các tai nạn trong công nghiệp: cháy nổ, rò rỉ phóng xạ...
- Các tai nạn trong xây dựng kiến trúc: sập đổ nhà cửa, hầm lò...
- Thảm họa do kinh tế - chính trị - xã hội: nạn đói, chiến tranh...
- Thảm họa do dịch bệnh: dịch hạch, cúm, sởi, sốt xuất huyết....
- Thảm họa do phá hoại môi trường: hạn hán, lũ lụt...
Để phù hợp với công tác ứng cứu và đáp ứng y tế khẩn cấp đối với
thảm họa. Ở Việt Nam, phân loại thảm họa dựa vào các yếu tố sau:
- Dựa vào số người bị tác động trực tiếp của thảm họa.
+ Mức 1: Từ 30 - 100 nạn nhân, hoặc 20 - 50 người phải nằm viện.
+ Mức 2: Từ 101 - 500 nạn nhân, hoặc 51 - 200 người phải nằm viện.
+ Mức 3: Từ 501 - 2000 nạn nhân, hoặc 201 - 300 người phải nằm viện.
+ Mức 4: Có trên 2000 nạn nhân, hoặc có trên 300 người phải nằm viện.
6
- Phân loại theo yêu cầu can thiệp của y tế:
+ Thảm họa gây tổn thất ngay tức thì: giao thông, động đất, khủng bố...
+ Thảm họa gây ra những hậu quả kéo dài về sau: lũ lụt, dịch bệnh...
+ Thảm họa vừa gây tổn thất ngay tức thì vừa gây hậu quả lâu dài về
sau: các trận bão lớn, lũ lụt lớn trên diện rộng, các dịch bệnh...
- Ngoài ra còn phân loại thảm họa theo thời gian: dài, ngắn, cấp tính,
mạn tính; Phân loại theo địa dư, vùng lãnh thổ, địa lý, dân cư...[54], [78].
1.1.3. Tình hình thảm họa trên thế giới và Việt Nam
1.1.3.1. Tình hình thảm họa trên thế giới
* Thảm họa do thiên nhiên:
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Hạn hán
Động đất
Nắng nóng
Lũ lụt
Cháy rừng
Sạt lở tuyết
Núi lửa phun
Tố lốc
Tổng cộng
2004
Loại TH
2003
Năm
2002
Bảng 1.1: Số vụ thảm họa do thiên nhiên trên thế giới từ 2002 - 2011
40
37
15
173
23
20
7
123
438
23
40
26
160
14
21
2
86
372
19
42
19
135
8
16
5
127
371
28
25
29
193
13
12
8
131
439
20
24
32
232
10
20
12
77
417
13
21
25
219
18
10
6
105
365
21
23
11
175
5
12
7
111
366
31
22
26
159
9
29
3
87
411
17
25
34
189
7
32
6
91
336
15
30
18
158
7
18
6
84
3.9
427
Cộng
237
289
235
1.793
114
190
62
1.022
42
Nguồn: EM-DAT, CRED, University of Louvain Belgium, năm 2012 [95]
Thảm họa do thiên nhiên gây ra trên thế giới diễn biến rất phức tạp và
ngày càng gia tăng. Trong 10 năm (2002 - 2011), theo thống kê toàn thế giới
có 3.942 vụ thảm họa do thiên nhiên, trong đó lũ lụt chiếm 1.793 vụ, tố lốc
chiếm 1.022 vụ...
Riêng tại châu Á, thảm họa thiên nhiên đã trở thành mối đe dọa thực sự
đối với các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Theo số liệu thống kê năm 2009
cho thấy, châu Á chiếm khoảng 40% trong tổng số hơn 330 vụ thiên tai trên
toàn thế giới, tổng số nạn nhân chiếm tới 89,0%, và thiệt hại do thảm họa đã
7
tăng lên tới gần 1.000 tỷ USD [95]. Tại Mỹ La-tinh và Caribe có gần 100
thảm họa thiên nhiên lớn xảy ra trong năm 2010 đã cướp đi sinh mạng của
hơn 223.000 người, ảnh hưởng đến 13,8 triệu người, gây thiệt hại vật chất lên
đến 49,9 tỷ USD [95]. Thảm họa thiên nhiên hay gặp nhất là lũ lụt, tố lốc,
động đất, hạn hán, nắng nóng...và đây cũng chính là loại hình thảm họa gây ra
nhiều thương vong cho con người.
Những thiệt hại do một số thảm họa điển hình gây ra trong thời gian
gần đây như:
- Động đất ở Tứ Xuyên, Trung Quốc năm 2008: với tổng thiệt hại 147
tỷ USD, gần 90.000 người thiệt mạng, 11 triệu người Trung Quốc mất nhà
cửa, nhiều khu vực bị cách ly [95].
- Siêu bão Katrina, Mỹ năm 2005: với tổng thiệt hại 137 tỷ USD, được
xem là cơn bão có sức tàn phá kinh tế nặng nề nhất trong lịch sử nước Mỹ. Đã
cướp đi sinh mạng của hơn 1.800 người và gây lũ lụt lớn tại bang New Orlean
[113], [126].
- Động đất ở Chuetsu, Nhật Bản năm 2004: với tổng thiệt hại 32 tỷ
USD, trong 66 giờ đầu tiên của thảm họa có 15 cơn địa chấn lớn liên tục rung
chuyển tại Chuetsu và cướp đi sinh mạng của 40 người, và hơn 3.000 người bị
thương [105].
- Bão Ike, Mỹ năm 2008: với tổng thiệt hại hơn 30 tỷ USD, phá hủy
nhiều nơi trên đảo Caribean, gây lún sụt đất tại bang Texas, gây ảnh hưởng tới
tận các thành phố London, Ontario [117].
- Động đất mạnh 7,6 độ richter ở Izmit, Thổ Nhĩ Kỳ năm 1999: tổng
thiệt hại 26 tỷ USD, làm 17.000 người chết và 44.000 người bị thương [91] .
- Động đất gây ra sóng thần ở Fukushima, Nhật Bản ngày 11/3/2011:
với cường độ 9 độ richter làm hư hỏng hoàn toàn nhà máy điện nguyên tử
Fukushima 1 đã gây nên tổn thất rất lớn về người, cơ sở vật chất của đất nước
Nhật Bản, với số người chết: 15.846 người; mất tích: 3.317 người; bị thương:
8
6.011 người; tị nạn: 341.411 người; nhà cửa bị phá hủy hoàn toàn: 128.558
nhà; nhà bị hư hại: 916.883 nhà, thiệt hại ước tính gần 300 tỷ USD [95].
- Trận sóng thần kinh hoàng do động đất ngày 11/3/2011: với độ cao
hàng chục mét đã làm hư hỏng nhà máy điện nguyên tử Fukushima 1. Các
chất phóng xạ cesium và các chất phóng xạ khác bị phát tán vào không khí,
nước trong một vùng rộng lớn xung quanh nhà máy. Các chất phóng xạ nhiễm
vào cây trồng hoặc được động vật hấp thụ. Các loại thực phẩm, rau củ quả,
thịt cá, sữa...xung quanh khu vực nhà máy đều bị nhiễm xạ [124].
Bảng 1.2: Thiệt hại do thảm họa thiên nhiên từ 2002 - 2011
Đơn vị tính: Triệu
USD
TH
565
7451
Sạt
lở
tuyết
241
55
Núi
lửa
phun
11
-
1782 45956
- 12722
4
2254
7726
460 20277 4318
3500
3830 1116
9094 1048
549 16248
- 26030 4989
227 89655 22927 20664 2539
2143
6350 1153
8389 1588
3420 48794
477 49643 2135
8142 230300
781 72551 2937
33284 461532 42219 278043 27574
12
63
45
161
1317
1895
26079
- 10221
- 212892
167 19796
- 32077
- 63402
- 27391
- 29011
- 50872
179 580177
Động
đất
Nắng
nóng
Lũ lụt
Năm
2002
2003
Hạn
hán
Cháy
rừng
10362
905
2585
10088 15304
33539
25135
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Tổng
Tố lốc
18436
85017
tổng
cộng
65739
160698
247991
38597
79893
199414
47175
134797
365583
1424903
Nguồn: EM-DAT, CRED, University of Louvain Belgium, năm 2012 [95]
Đặc điểm của thảm họa thiên nhiên xảy ra rất bất ngờ, sức tàn phá lớn,
khó dự báo, không bao giờ lường trước được những tổn thất rất lớn cả về con
người cũng như cơ sở vật chấttrong đó có cả các cơ sở y tế [93].
*Thảm họa do con người:
Thảm họa do con người gây ra thường gặp như: cháy nổ, khủng bố,
chiến tranh, tai nạn công nghiệp, tai nạn giao thông...Trong 10 năm từ 2002
đến 2011, trên toàn thế giới đã có 2.622 vụ thảm họa do con người gây ra làm
9
chết 82.609 người và 152.900 người bị ảnh hưởng tới cuộc sống, thiệt hại
38.112 triệu đô-la. Ngoài ra, có những thảm họa còn gây hậu quả kéo dài về
sau tới môi trường sinh thái [78]. Hai mươi năm sau thảm họa Chernobyl, ảnh
hưởng của phóng xạ đối với con người và môi trường nơi đây vẫn còn rất lớn,
theo báo cáo TORCH 2006, “tại một số vùng thuộc Đức, Áo, Italia, Thụy Điển,
Phần Lan, Latvia và Balan, các loại thú hoang dã, các loại nấm rừng, trứng cá
và cá ăn sâu bọ có hàm lượng xezi-137 trong thịt lợn lòi hoang ở mức
40.000Bq/kg. Mức độ trung bình 6.800Bq/kg. Lớn gấp mười lần giới hạn của
EU là 600Bq/kg”. Ủy ban châu Âu cho rằng “các qui định đối với một số loại
thực phẩm từ một số quốc gia thành viên cần phải được duy trì trong nhiều năm
nữa” [85], [90], [125], [127].
Bảng 1.3: Tổn thất do thảm họa mà con người gây ra trên thế giới
trong 10 năm (2002 – 2011).
Số người bị
Thiệt hại
ảnh hưởng
Số người chết
Năm
Tổng thiệt hại
(triệu USD)
2002
12.451
68
12.531
2003
10.750
667
2004
10.329
307
1.557
2005
11.652
100
484
2006
10.004
175
1
2007
7.651
48
943
2008
6.946
39
2009
6.854
33
1.600
2010
6.744
37
20.995
2011
6.228
55
1
Tổng cộng
89.609
1.529
38.112
Nguồn: EM-DAT, CRED, University of Louvain Belgium, năm 2012 [95]
Gần đây nhất, ngày 24 tháng 4 năm 2013 tại Bangladesh, một tòa nhà
cao 8 tầng của công ty dệt may đã bất ngờ đổ sập làm hơn 300 công nhân
thiệt mạng và nhiều người bị thương. Thiệt hại ước tính hàng trăm triệu USD.
1.1.3.2. Tình hình thảm họa tại Việt Nam
10
Việt nam là một nước phải hứng chịu nhiều loại thảm họa do tự nhiên
và do chính con người gây nên, hàng năm thảm họa đã cướp đi sinh mạng của
rất nhiều người, thiệt hại cơ sở vất chất hàng ngàn tỷ đồng [29].
* Thảm họa do thiên nhiên:
Việt Nam là quốc gia chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa,
do những biến đổi bất thường về khí tượng, địa lý và sinh thái, các thảm họa
tự nhiên xảy ra đủ các loại hình như: lũ lụt, bão, tố lốc, lũ quét, sạt lở đất, hạn
hán, triều cường...tần suất ngày càng tăng. Theo thống kê của Ban chỉ đạo
phòng chống lụt bão (PCLB) Trung ương, từ 2003 đến 2012, cả nước có 103
vụ thiên tai lớn làm chết và mất tích 7.748 người và bị thương 6.740 người,
thiệt hại của cải vật chất ước tính hàng ngàn tỷ đồng [66], [60], [70].
Lũ lụt ở nước ta có đặc điểm là kéo dài, một số bệnh tật thường phát
triển do môi trường ô nhiễm. Điển hình là đợt lũ lịch sử năm 2000 ở đồng
bằng sông Cửu Long, chỉ tính riêng tỉnh An Giang: sốt xuất huyết là 3.234
người, tiêu chảy là 85.148 người, thương hàn là 1428 người, lỵ là 4.814
người, bệnh hô hấp như viêm phế quản cấp là 25.029 người, viêm phổi là
26.872 người, cúm 10.827 người [39], [55].
* Thảm họa do con người:
Ở Việt Nam thảm họa do con người gây ra rất đa dạng, phức tạp và
ngày càng nghiêm trọng hơn. Nhiều thảm họa gây ra thiệt hại rất lớn về người
và của cải vật chất trong toàn xã hội [34], [52].
Bảng 1.4: Số người chết và bị thương do tai nạn cháy nổ
tại Việt Nam trong 5 năm (2007 – 2011)
Năm
2007
Số vụ
961
Số người chết
63
Số người bị thương
93
11
2008
935
45
111
2009
1184
33
128
2010
989
52
103
2011
1139
62
112
Nguồn: Ủy ban Quốc gia tìm kiếm, cứu nạn, năm 2012 [48]
Thảm họa do con người gây ra thường gặp trong các tai nạn công
nghiệp; Các tai nạn giao thông; Các tai nạn trong xây dựng kiến trúc; Thảm
họa do hậu quả của phá hoại môi trường gây nên; Thảm họa do dịch bệnh...
Tai nạn cháy nổ có xu hướng tăng và gây các thiệt hại lớn, nhất là con
số thương vong trong các tai nạn đã xảy ra [62], [76].
Tai nạn lao động gây thương tích ở các địa phương cũng là vấn đề cần
được chú ý để bảo đảm an toàn lao động. Các ngành than, xi măng, xây dựng
lắp máy, hóa chất...luôn có những nguy cơ mất an toàn về lao động, điển hình
như vụ sập cầu Cần Thơ (Cần Thơ), sập mỏ đá Lèn Cờ, Bản Vẽ (Nghệ An)...
Bảng 1.5: Số người chết và bị thương do tai nạn lao động tại Việt Nam trong 5 năm
(2007 – 2011)
Năm
2007
2008
1683602009
20112470
Số vụ
6110
2337
2611
3173
Số người chết
402
382
899
276
Số người bị thương
1870
2238
399
547
2010
Nguồn: Ủy ban Quốc gia tìm kiếm, cứu nạn, năm 2012 [48]
Tình hình tai nạn giao thông có xu hướng ngày càng tăng, số người
chết và bị thương ngày càng nhiều. Theo số liệu của Uỷ ban An toàn giao
thông Quốc gia (ATGTQG), trung bình mỗi ngày có 76 vụ tai nạn giao thông
36 người chết và 85 người bị thương [78].
Bảng 1.6: Số người chết và bị thương do tai nạn giao thông
tại Việt Nam trong 10 năm (2003 - 2012)
Năm
Số vụ
Số người chết
2003
20.774
11.864
Số người bị thương
12
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
17.663
14.711
14.727
14.624
12.816
12.402
13.833
14.026
36.409
20.704
12.230
11.534
12.757
13.150
11.594
11.516
11.406
11.395
9.849
15.417
12.013
11.288
10.546
8.064
7.914
10.059
10.611
38.064
Nguồn: Uỷ Ban An toàn giao thông Quốc gia, năm 2013 [48]
Nhiễm độc thực phẩm cũng là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sức
khỏe, sinh mạng con người và an toàn xã hội trong các bữa ăn của từng gia
đình, tập thể đơn vị. Năm 1999 xảy ra 327 vụ với 7.576 người bị ngộ độc
trong đó có 71 người chết. Năm 2000 xảy ra 213 vụ với 4.233 người bị ngộ
độc trong đó có 59 người chết. Năm 2001 có 227 vụ với hàng nghìn người bị
ngộ độc trong đó có 63 người chết [35].
- Vụ ngộ độc tại bếp ăn tập thể Nhà máy giấy Nam Cường tỉnh Bình
Dương ngày 26/10/2002: làm 1.000 công nhân bị ngộ độc trong đó 865 người
phải điều trị.
- Ngộ độc do ăn cá nóc thường là nặng và dẫn tới tử vong, ngày
28/3/2000 ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh trong 8 người ngộ độc đã có 7 người chết.
- Gần đây vụ ngộ độc rất lớn do ăn bánh mỳ bị nhiễm độc tại khu Công
nghiệp tỉnh Bình Dương ngày 27 tháng 4 năm 2013: với hàng trăm người mắc
trong đó có 107 người phải nhập viện.
1.2. CÔNG TÁC ĐÁP ỨNG Y TẾ KHẨN CẤP ĐỐI VỚI THẢM HỌA
1.2.1. Tình hình thương vong, cơ cấu thương tích do thảm họa
1.2.1.1. Một số vấn đề về y học thảm họa
13
Tùy theo quan niệm và điều kiện của mỗi một nước mà y học thảm họa
có tên gọi khác nhau như: ở Liên Bang Nga gọi là y học trong điều kiện khẩn
cấp; Ở Mỹ được gọi là y tế đặc biệt; Ở Pháp được gọi là dịch vụ cấp cứu y tế
khẩn cấp hay còn gọi là y học thảm họa; Ở Bỉ, Hàn Quốc được gọi là cứu trợ
y tế trong tình trạng khẩn cấp...nhưng tất cả đều có một nội dung là đáp ứng y
tế khẩn cấp đối với thảm họa [2], [67], [96], [134].
Công tác đáp ứng y tế khẩn cấp trong thảm họa bao gồm:
- Đáp ứng với các tình huống xảy ra bất ngờ, đột ngột. Đáp ứng tối
khẩn cấp trong đó có yếu tố kịp thời về thời gian là vô cùng quan trọng, vì
càng để muộn, để chậm, tình hình càng xấu thêm. Mặt khác triển khai đáp
ứng trong điều kiện hoàn cảnh hoàn toàn không thuận lợi, số lượng nạn nhân
nhiều mất cân đối giữa yêu cầu cần giải quyết và khả năng có được của ngành
y tế [23], [49], [72], [82].
- Đáp ứng y tế tại nơi bị nạn: là yếu tố quyết định đến sự sống còn
trong giai đoạn đầu của thảm họa, góp phần giải quyết tức thì một số vấn đề
liên quan đến việc thu dung phân loại cứu chữa nạn nhân. Do đó cần phải
đánh giá tại thực địa việc triển khai tìm kiếm, cứu nạn, cấp cứu tối khẩn cấp,
khẩn cấp những trường hợp nguy kịch; sơ cứu, phân loại sơ bộ để vận chuyển
theo chỉ định về các cơ sở y tế gần nhất để cứu chữa cho các nạn nhân [24],
[75], [82], [83], [89], [119].
14
- Công tác thu dung, cứu chữa nạn nhân đến khi khỏi và phục hồi chức
năng cho các nạn nhân do thảm họa tại các bệnh viện là công việc hết sức
nặng nề, đòi hỏi phải tổ chức thu dung, cấp cứu, điều trị cho một số lượng lớn
các nạn nhân trong cùng một thời điểm và trong điều kiện khó khăn về lực
lượng, cơ sở vật chất thiếu thốn là vấn đề không dễ dàng đối với các cơ sở y
tế. Vì vậy, các tuyến bệnh viện cần có các phương án, kế hoạch sẵn sàng đáp
ứng y tế khẩn cấp khi có thảm họa xảy ra [1], [7], [30], [64].
- Phòng chống dịch bệnh, vệ sinh môi trường, bảo vệ sức khỏe người
dân và khôi phục hệ thống y tế vùng thảm họa...rất cần được coi trọng [21],
[94], [101].
1.2.1.2. Thương vong trong thảm họa do thiên nhiên gây ra
Bảng 1.7: Số người chết, bị ảnh hưởng do thảm họa thiên nhiên
tại các châu lục trong 10 năm (2002 - 2011)
Thiệt hại
Châu lục
Số người chết
(người)
Số người bị
ảnh hưởng
(nghìn người)
Thiệt hại
(triệu USD)
Châu Phi
43.563
292.258
12.447
Châu Mỹ
257.325
88.219
575.883
Châu Á
786.159
2.294.860
673.617
Châu Âu
145.770
7.335
150.644
Châu Úc
1.807
1.567
50.423
Tổng cộng
1.234.624
2.684.329
1.463.014
Nguồn: EM-DAT, CRED, University of Louvain Belgium, năm 2012. [95]
15
Hàng năm trên thế giới, thảm họa thiên nhiên đã cướp đi sinh mạng của
hàng triệu người, tổn thất của cải vật chất cơ sở hạ tầng ước tính hàng nghìn
tỷ USD, phá hủy môi trường sinh thái nghiêm trọng gây ảnh hưởng lâu dài
trong đời sống xã hội loài người [95], [128]. Thiệt hại do thảm họa gây ra tại
châu Á và châu Mỹ là lớn nhất.
Bảng 1.8: Số người tử vong do từng loại thảm họa
trên thế giới trong 10 năm (2002 – 2011)
2002
2003
2004
2005
Hạn
hán
Động
đất
76903
38
80
88
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Tổng
76241
208
0
6
2
2
0
77327
Năm
Nắng
nóng
Lũ lụt
Cháy
rừng
1626
29617
227290
814
3019
74748
556
5754
4236
3770
7102
47
Khối
dịch
chuy
ển
6
47
14
-
6692
780
87918
1888
226735
20946
679643
5104
1044
1608
1212
57064
806
145975
5845
8565
4029
3534
8571
5923
57329
16
150
86
190
135
10
701
Sạt lở
tuyết
Núi
lửa
phun
Tố
lốc
tổng
cộng
60
44
646
1100
707
313
3
200
2
5294
1384
1030
6609
88887
88544
109957
242010
11
120
36
271
1638
271
504
657
3402
314
9552
5
11
16
323
3
563
4329
6035
140985
3287
1498
3103
173554
23848
16856
235272
10806
297730
31105
1234624
Nguồn: EM-DAT, CRED, University of Louvain Belgium, năm 2012 [95]
Bảng 1.9: Số người bị ảnh hưởng do thảm họa trong 10 năm (2002 – 2011)
Đơn vi tính: nghìn
người
TH
Năm
2002
2003
2004
2005
30643
2006
2007
2008
2009
2010
79057905
08117584
92146396
Hạn
hán
167789
169515
117569
7
Chá
y
rừng
31
184
21
10
Sạt
lở
tuyết
305
459
230
341
31124
177840
46066
58983
188870
143067
3
1785
59
12
30
15
432
9
05
44
2460
07
Động
đất
Nắng
nóng
Lũ lụt
851
4194
3147
2
104
1890
2140
75027
44371 3859
8278 1382
37481 47580
109666 3221
135755 6937
21759 1697
63
988
79171
856
892
4402
428006
80968
34398
6187
Núi
lửa
Tố lốc
phun
278 111163
25 11758
53 21383
49117 161335
379
51
40
57
171
46
67112
23974
15652
50583
8749
38520
tổng
cộng
708526
268993
178937
147343
214308
226049
223420
343864
209512
16
11439398
01126843
292011
931325
Tổng
Nguồn: EM-DAT, CRED, University of Louvain Belgium, năm 2012 [95]
Động đất là một trong những thảm họa thường gặp và gây ra những
hậu quả tàn khốc, nặng nề. Trong thập kỷ qua, trên thế giới, động đất đã làm
cho 679.643 người bị thiệt mạng, thiệt hại cơ sở vật chất hạ tầng khoảng
10.000 tỷ USD. Chỉ tính riêng năm 2010 đã xảy ra 25 trận động đất, làm cho
226.735 người bị chết và 6.937 ngàn người bị ảnh hưởng, thiệt hại ước tính
hàng trăm triệu đô la [81], [86], [87], [95], [123].
1.2.1.3. Thương vong trong thảm họa do con người gây ra
Trong 10 năm (2002 - 2011) trên toàn thế giới, loài người đã gây ra
2.962 vụ thảm họa làm chết 89.609 người, và hơn 1.529.000 bị ảnh hưởng.
Bảng 1.10: Các loại hình thảm họa do con người gây nên năm 2011
TT
Loại thảm họa
Số vụ
Tỷ lệ (%)
1
Tai nạn giao thông
168
71,80
2
Tai nạn hỗn hợp
34
14,50
3
Tai nạn công nghiệp
32
13,70
234
100,00
Tổng cộng
Nguồn: EM-DAT,CRED, University of lovain, Belgium, năm 2012. [95]
Thảm họa do con người gây nên thường gặp nhất là thảm họa do tai
nạn giao thông, sau đó là thảm họa do các tai nạn hỗn hợp và thảm họa do các
tai nạn công nghiệp [4]. Thảm họa do con người gây nên cũng gây thiệt hại
rất lớn về người và của cải vật chất. Qua thống kê thảm họa do con người gây
ra trên thế giới trong vòng 10 năm từ 2002 đến 2011 cho thấy rõ điều đó [92].
17
Bảng 1.11: Thiệt hại của thảm họa do con người gây ra trong 10 năm (2002 – 2011)
1
Tai nạn giao thông
61.616
Số người
bị ảnh
hưởng
90.000
2
Tai nạn hỗn hợp
14.338
431.000
349.000.000
3
Tai nạn công nghiệp
13.655
1.008.000
37.277.000.000
8.909
1.529.000
38.112.000.000
TT
Loại tai nạn
Tổng cộng
Số người
chết
Tổng thiệt hại
về tài sản (USD)
486.000.000
Nguồn: EM-DAT,CRED, University of lovain, Belgium, năm 2012 [95]
1.2.1.4. Cơ cấu thương tích của một số thảm họa
Cơ cấu thương tích các nạn nhân trong các loại hình thảm họa rất đa
dạng và phức tạp, thực tế cho thấy trong thảm họa tỷ lệ thương vong tăng kèm
theo cơ cấu đa dạng, một nạn nhân có thể có rất nhiều thương tích kết hợp
trong đó có những thương tích rất nặng ảnh hưởng trực tiếp đến các chức
năng sống đe dọa đến tính mạng nạn nhân vì vậy vấn đề đặt ra là dự báo chính
xác cơ cấu thương tích để tiến hành cứu chữa nạn nhân kịp thời khẩn trương
hiệu quả nhằm giảm thiểu tỷ lệ tử vong tàn phế cho các nạn nhân trong thảm
họa là hết sức cần thiết [40], [51], [33], [27].
Trong 4.482 nạn nhân được cứu nạn vào điều trị tại các bệnh viện do
trận động đất ngày 7/12/1988 ở Acmenia: gồm các tổn thương kết hợp là
39,7%; tổn thương vùng đầu cổ chiếm 19%; tổn thương chi trên chiếm 10%;
hội chứng đè ép chi thể chiếm 11%. [31].
Cuộc tấn công của bọn khủng bố vào Trung tâm thương mại thế giới tại
New York ngày 11/9/2001: có 911 nạn nhân được chuyển đến 2 bệnh viện
18
khu Nam Manhattan thì có tới 85% nạn nhân bị thương nhẹ, chỉ có 15% phải
nhập viện trong số đó chấn thương: 7,8%; hàm mặt: 13,1%; chấn thương sọ
não: 3,2%; bỏng: 5,2%; vết thương chi: 7,1% [95].
Trong số 370 nạn nhân do thảm họa tố lốc, mưa đá trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Phú cho thấy: tỷ lệ thương tổn đầu mặt cổ là 11,6%; tổn thương bụng
ngực 46,3%; đa vết thương là 11,6%.
Bệnh viện Trung ương Huế tổng hợp số liệu 2.105 nạn nhân do tai nạn
giao thông được thu dung, cứu chữa tại bệnh viện năm 2002 thấy rằng: tỷ lệ
chấn thương sọ não chiếm: 60,8%; chấn thương tứ chi chiếm tỷ lệ: 30,7%;
thấp nhất là chấn thương cột sống và khung chậu chiếm tỷ lệ: 1,5%.
Một loại tổn thương cũng hay gặp trong hầu hết trong các loại thảm họa
đó là Stress sau thảm họa, gây ra một số bệnh lý nội khoa như: viêm dạ dày,
xuất huyết tiêu hóa, suy nhược thần kinh... Trong 78 bệnh nhân của cơn bão
số 5 ở Kiên Giang năm 2007 có tới 6 bệnh nhân bị viêm dạ dày, xuất huyết
tiêu hóa [51], [100].
Khi các ngành công nghiệp phát triển, đời sống xã hội được nâng cao,
mật độ dân cư phân bố tăng lên thì bản chất, mức độ, phạm vi của các vụ
thảm họa do con người gây ra cũng thay đổi, cơ cấu thương tích và tính chất
các tổn thương cũng sẽ rất khác nhau trong từng vụ thảm họa. Phân tích trên
2.000 trường hợp bị tai nạn giao thông được điều trị tại 6 bệnh viện ở Thành
phố Hồ Chí Minh cho thấy: chấn thương chi dưới có tỷ lệ cao nhất 40%, chấn
thương đầu mặt cổ cũng tương đối cao chiếm tỷ lệ 37%, còn lại là các loại tổn
thương khác [65].
1.2.2. Thực trạng công tác đáp ứng y tế khẩn cấp đối với thảm họa tại
một số nước trên thế giới
1.2.2.1. Tại Cộng hòa Liên bang Nga và Liên Xô (trước đây)
Một số vụ thảm họa lớn vào cuối thế kỷ XX tại Nga, với qui mô phá
hủy của nó vượt khỏi giới hạn về khái niệm địa lý lãnh thổ, đã làm thay đổi
19
căn bản quan niệm về mức độ cần thiết phải tổ chức cứu chữa cho các nạn
nhân, đòi hỏi cần thiết phải tổ chức hệ thống cứu chữa nạn nhân trong các vụ
thảm họa, qua thực tế các vụ thảm họa xảy ra ở Trec-nô-bưn, Ác-mê-ni-a đã
chứng minh nếu không thành lập hệ thống Quốc gia đáp ứng nhanh trong
hoàn cảnh đặc biệt thì không thể có những biện pháp hữu hiệu để cấp cứu cho
nạn nhân hàng loạt [31], [90].
Quân y quân đội liên bang Nga đã mở nhiều cuộc hội thảo, đánh giá và
khẳng định vị trí đặc biệt của ngành quân y trong hệ thống Quốc gia cứu chữa
cho các nạn nhân trong hoàn cảnh khẩn cấp vì khả năng đáp ứng nhanh khi
xuất hiện thảm họa hoặc các sự cố kỹ thuật. Cuối cùng các chuyên gia nhất trí
đưa ra một số quan điểm trong y học thảm họa đó là: “Thành lập các đơn vị y
tế đặc biệt, tổ chức cứu chữa ngoại khoa, nội khoa, bảo đảm vận chuyển, bảo
đảm vật chất trang bị và đi đến thống nhất hệ thống đáp ứng y tế nhanh trong
hoàn cảnh khẩn cấp là: hệ thống cứu chữa dựa trên nguyên tắc điều trị theo
tuyến và theo các giai đoạn” [131], [135].
Đồng thời, các chuyên gia cũng cho rằng một vấn đề hết sức quan trọng
và không thể thiếu được trong khắc phục hậu quả của thảm họa đó là thành
lập cơ quan điều hành khi thảm họa xảy ra, gồm: Chính quyền địa phương,
chỉ huy quân sự và các phân đội tham gia giải quyết hậu quả thảm họa. Cơ
quan này có nhiệm vụ trong thời gian ngắn nhất thảo ra chiến lược hành động,
xây dựng kế hoạch thực hiện, thành lập các lực lượng thích hợp, hợp đồng
công tác, bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện vận chuyển... [30], [136]. Thực
tế công tác TDCCNN do thảm họa ở Liên bang Nga có 3 giai đoạn [132]:
Giai đoạn 1: đưa nạn nhân ra khỏi vùng nguy hiểm, xử trí cấp cứu tối
khẩn cấp, hô hấp nhân tạo, băng bó, cố định gãy xương, cầm máu,...
Giai đoạn 2: gồm các biện pháp tiến hành cứu chữa bằng các đội y tế
cơ động đến khu vực thảm họa. Triển khai các trạm cấp cứu thực hiện phân
loại và tập trung nạn nhân để cấp cứu khẩn cấp và vận chuyển.
20
Giai đoạn 3: nạn nhân được đưa đến các tuyến cứu chữa cơ bản và
chuyên khoa tùy theo tổn thương, các cơ sở chuyên khoa này tiến hành điều
trị phục hồi và chỉnh hình.
THẢM
HỌA
Đưa nạn nhân ra khỏi vùng thảm họa
xử trí cấp cứu tối khẩn cấp- Băng bó cố định…
Giai
Đoạn 1
Triển khai trạm Cấp cứu- Phân loại- Hộ tốngVận chuyến về tuyến sau
Giai
Đoạn 2
Đưa nạn nhân về các tuyến
cứu chữa cơ bản, chuyên khoa, phục hồi chức năng...
Giai
Đoạn 2
Sơ đồ 1.1: Công tác thu dung nạn nhân trong các vụ thảm họa ở
Cộng hòa Liên bang Nga
Nguồn: Ủy ban đáp ứng y tế trong tình trạng khẩn cấp [134]
Việc phân loại các nạn nhân dựa trên nguyên tắc cứu chữa vận chuyển
theo hướng ưu tiên, được chia làm 4 nhóm: nhẹ, vừa, nặng và rất nặng.
Công tác thu dung, cấp cứu nạn nhân do thảm họa được tổ chức trên
nguyên tắc điều trị theo tuyến và được chia làm 3 tuyến cơ bản [31], [133].
Như vậy khi có thảm họa xảy ra công tác tổ chức thu dung, cấp cứu nạn
nhân hàng loạt ở Liên bang Nga gồm các điểm cơ bản sau:
- Tổ chức công tác ngoại khoa khi có tổn thương hàng loạt do thảm họa
trên cơ sở những nguyên tắc của y học quân sự đó là hệ thống những biện
pháp điều trị, vận chuyển, cứu chữa kịp thời cho tất cả các nạn nhân.
- Xem thêm -