HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỮU NHƯỜNG
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
Ở BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN HỮU NHƯỜNG
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
Ở BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ
Chuyên ngành
: Quản lý kinh tế
Mã số
: 62 34 04 10
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hữu Thắng
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi, các số liệu nêu trong luận án là trung thực có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy
định. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Nguyễn Hữu Nhường
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
7
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến vấn đề quản lý tài chính
1.2. Khái quát các công trình nghiên cứu có liên quan đến tôn giáo ở
7
19
Việt Nam
1.3. Đánh giá chung các kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
25
án và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TRONG CƠ
35
QUAN NHÀ NƯỚC CÓ HOẠT ĐỘNG SỰ NGHIỆP
2.1. Khái quát về tài chính trong cơ quan nhà nước có hoạt động sự nghiệp
2.2. Quản lý tài chính trong cơ quan nhà nước có hoạt động sự nghiệp
35
47
Chương 3: THỰC TRẠNG TÀI CHÍNH VÀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở
68
BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ
3.1. Khái quát về quá trình phát triển, tổ chức bộ máy và đặc điểm của
Ban Tôn giáo Chính phủ
68
3.2. Thực trạng quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ
75
3.3. Đánh giá chung về quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ
100
123
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
TÀI CHÍNH Ở BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ
4.1. Bối cảnh hiện nay và phương hướng hoàn thiện quản lý tài chính ở
123
Ban Tôn giáo Chính phủ
4.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ
135
KẾT LUẬN
152
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
155
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CQNN
:
Cơ quan nhà nước
NSNN
:
Ngân sách nhà nước
QLNN
:
Quản lý nhà nước
TW
:
Trung ương
UBND
:
Uỷ ban nhân dân
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Tình hình thu tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ giai
76
đoạn 2008-2013
Bảng 3.2: Tình hình chi tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ giai
79
đoạn 2008-2013
Bảng 3.3: Cơ sở tính chi quản lý nhà nước giai đoạn 2008-2013
81
Bảng 3.4: Nội dung lập dự toán ngân sách của Ban Tôn giáo Chính
83
phủ giai đoạn 2008 - 2014
Bảng 3.5: Phân bổ dự toán chi thường xuyên của Ban Tôn giáo Chính
86
phủ giai đoạn 2008 - 2014
Bảng 3.6. Phân bổ dự toán cho mục tiêu chi đầu tư phát triển của Ban
87
Tôn giáo Chính phủ giai đoạn 2008 - 2014
Bảng 3.7: Nội dung chấp hành dự toán ngân sách của Ban Tôn giáo
88
Chính phủ giai đoạn 2008 - 2014
Bảng 3.8: Quyết toán chi ngân sách của Ban Tôn giáo Chính phủ giai
90
đoạn 2008 - 2011
Bảng 3.9: Tổng hợp nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp ở Ban Tôn
93
giáo Chính phủ giai đoạn 2008-2013
Bảng 3.10: Tổng hợp nguồn chi từ hoạt động sự nghiệp
95
Bảng 3.11: Cán bộ phụ trách tài chính của các đơn vị sự nghiệp ở
99
Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2013
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1: Sơ đồ các đơn vị trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ
70
Hình 3.2: Đánh giá nguồn tài chính cho hoạt động của các đơn vị
78
trực thuộc Ban Tôn giáo Chính phủ
Hình 3.3: Tình hình thu - chi tài chính của Ban Tôn giáo Chính phủ
80
giai đoạn 2008-2013
Hình 3.4: Tổng hợp dự toán chi NSNN của Ban Tôn giáo Chính phủ
82
giai đoạn 2008 - 2014
Hình 3.5: Sơ đồ bộ máy quản lý tài chính của Phòng Tài chính - Kế
98
toán Ban Tôn giáo Chính phủ
Hình 3.6: Đánh giá hiệu quả công tác lập dự toán thu - chi NSNN
110
của Ban Tôn giáo Chính phủ
Hình 3.7: Nhận xét về định mức chi hỗ trợ các tôn giáo
117
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quản lý tài chính nhà nước là quá trình tác động của nhà nước đến các
nguồn tài chính nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước một
cách hiệu quả nhất. Việc quản lý sử dụng nguồn tài chính tại các cơ quan
hành chính, sự nghiệp Nhà nước liên quan trực tiếp đến hiệu quả của tài chính
nhà nước, do đó đòi hỏi phải có sự quản lý, giám sát, kiểm tra, nhằm tạo động
lực khuyến khích các cơ quan hành chính, sự nghiệp tích cực, chủ động tự
xác định số biên chế cần có, sắp xếp, tổ chức và phân công lao động hợp lý,
nâng cao chất lượng công việc, sử dụng kinh phí với hiệu quả cao, hạn chế
những đòi hỏi về tăng biên chế và chi phí hành chính. Thông qua đó, làm cho
bộ máy hành chính nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, đáp ứng nhu
cầu và đòi hỏi ngày càng cao của các tổ chức và công dân.
Ở Việt Nam, từ khi thực hiện Luật NSNN năm 2002 và Nghị định
60/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp
luật khác, các hoạt động quản lý tài chính ở CQNN được đổi mới căn bản; cơ
chế phân cấp quản lý NSNN từng bước được thực hiện theo nguyên tắc bảo
đảm tính thống nhất của Nhà nước XHCN, tập trung cho ngân sách trung ương
sức mạnh tài chính phù hợp, vừa bảo đảm tính độc lập, tự chủ và quyền hạn
của chính quyền địa phương. Nhờ đó, nguồn lực tài chính của Nhà nước được
sử dụng có hiệu quả, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ của các cơ quan QLNN.
Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam là một cơ quan thuộc Bộ Nội vụ,
thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn QLNN về lĩnh vực tôn giáo trong
phạm vi cả nước; QLNN đối với các dịch vụ công thuộc lĩnh vực tôn giáo
theo quy định của pháp luật tại Nghị định 91/2003/NĐ-CP, ngày 13/8/2003.
Hoạt động của Ban Tôn giáo Chính phủ vừa thực hiện chức năng QLNN về
tôn giáo, vừa tham mưu đề xuất với Đảng, Nhà nước các chủ trương, chính
2
sách về tôn giáo, hướng dẫn cho chức sắc, chức việc, tín đồ các tôn giáo hoạt
động theo đúng pháp luật. Đồng thời, cung cấp các dịch vụ công về tôn giáo
như xuất bản các ấn phẩm, tài liệu tôn giáo; đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ
tôn giáo cho các cán bộ làm công tác tôn giáo, phổ biến hướng dẫn chức sắc,
chức việc, tín đồ tôn giáo hoạt động theo đúng pháp luật; các hoạt động thông
tin truyền thông... Để đáp ứng hoạt động của đơn vị, hàng năm, Ban Tôn giáo
Chính phủ được dự toán nguồn tài chính trên dưới 100 tỷ đồng, đòi hỏi quản
lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ phải luôn được chú trọng. Thực hiện
Luật NSNN 2002, các hoạt động tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ đã từng
bước được đổi mới căn bản. Các nguồn lực tài chính của Nhà nước được sử
dụng có hiệu quả, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ QLNN về tôn giáo cho các
tổ chức, chức sắc, tín đồ của các tôn giáo đang hoạt động trên phạm vi cả
nước. Tuy nhiên, các hoạt động tôn giáo rất phức tạp, đa dạng, trong khi
nguồn lực tài chính có hạn nên công tác tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ
chưa thực sự đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ đề ra. Tình hình tôn giáo phức
tạp, sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch nhằm gây mất ổn định trật tự
an toàn xã hội khiến cho nguồn ngân sách dành cho công tác tôn giáo dù có
tăng lên hàng năm, song vẫn không đáp ứng được nhu cầu thực tế của công
tác tôn giáo, đặc biệt đối với các điểm nóng về tôn giáo. Đặc trưng nguồn
kinh phí duy trì hoạt động của Ban Tôn giáo Chính phủ có rất nhiều các
khoản chi đặc thù như hỗ trợ đối với các chức sắc, chức việc các tôn giáo hay
chi hỗ trợ cho các hoạt động tôn giáo đòi hỏi một nguồn kinh phí tương đối
lớn, trong thời gian dài nên việc cân đối thu - chi từ ngân sách đối với các
hoạt động của Ban Tôn giáo Chính phủ là rất khó khăn. Điều này ảnh hưởng
rất lớn đến tình hình quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ nói riêng
và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của Ban nói chung.
Vì vậy, nghiên cứu về quản lý tài chính ở một CQNN như Ban Tôn
giáo Chính phủ đòi hỏi phải có cái nhìn toàn diện về vấn đề tài chính và quản
3
lý tài chính ở CQNN nói chung và ở Ban Tôn giáo Chính phủ nói riêng, đồng
thời phải xem xét tới lĩnh vực hoạt động có tính đặc thù của cơ quan đó mà cụ
thể ở đây là lĩnh vực tôn giáo. Từ thực tế đó, việc nghiên cứu làm rõ đặc thù
của hoạt động quản lý tài chính nhà nước tại Ban Tôn giáo Chính phủ, phân
tích thực trạng và đề xuất những giải pháp phù hợp nhằm góp phần nâng cao
chất lượng quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ là một nhiệm vụ quan
trọng, bức thiết. Đó là lý do của việc lựa chọn vấn đề: "Quản lý tài chính ở
Ban Tôn giáo Chính phủ" làm đề tài nghiên cứu tiến sỹ kinh tế.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận,
đánh giá thực trạng quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ để tìm giải
pháp hoàn thiện quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo Chính phủ trong điều kiện
hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Hệ thống hoá và bổ sung cơ sở lý luận về quản lý tài chính trong các
CQNN có tính đặc thù như Ban Tôn giáo Chính phủ.
- Phân tích thực trạng quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ và
đánh giá những ưu điểm và nhược điểm, chỉ ra nguyên nhân và các vấn đề
cần tập trung giải quyết để nâng cao chất lượng quản lý tài chính tại Ban Tôn
giáo Chính phủ.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp chủ yếu hoàn thiện quản lý tài chính
tại Ban Tôn giáo Chính phủ đến năm 2020, tầm nhìn 2030 phù hợp với tình
hình và nhiệm vụ mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là quản lý tài chính ở một cơ quan đặc thù
là Ban Tôn giáo Chính phủ, vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà
nước, vừa có hoạt động sự nghiệp trong lĩnh vực tôn giáo rất nhạy cảm và
phức tạp.
4
Phạm vi nghiên cứu: Việc nghiên cứu đề tài tập trung làm rõ thực trạng
quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính phủ trong giai đoạn 2008-2014. Các
hoạt động tài chính cần quản lý ở đây bao gồm tài chính của toàn Ban và tài
chính của bộ phận trực thuộc với các nội dung quản lý tài chính từ NSNN và
từ hoạt động sự nghiệp. Nguồn tài chính được nghiên cứu trong luận án là
nguồn tiền từ NSNN và các khoản thu - chi sự nghiệp của công tác Tôn giáo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận
nghiên cứu kết hợp phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích,
đánh giá vấn đề.
Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp nghiên cứu sử dụng trong
luận án là kết hợp: diễn giải, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, thống kê,... để
nghiên cứu. Những phương pháp cụ thể này được áp dụng phù hợp theo mục
đích, yêu cầu, nhiệm vụ của từng chương, tiết. Cụ thể:
Chương 1, chủ yếu sử dụng phương pháp hệ thống hoá, phân tích, đánh
giá tổng hợp kết quả nghiên cứu của các công trình trong và ngoài nước liên
quan đến đề tài luận án, rút ra các kết luận khoa học về kết quả đạt được, vấn
đề đang nghiên cứu và vấn đề chưa được nghiên cứu.
Chương 2, sử dụng phương pháp diễn giải - quy nạp, hệ thống hoá để tìm
hiểu về các nội dung của quản lý tài chính nhà nước; vị trí, vai trò, đặc điểm, các
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý tài chính nhà nước; làm rõ tính đặc thù
của công tác tôn giáo và hoạt động QLNN của Ban Tôn giáo Chính phủ tác động
trực tiếp đến nội dung tài chính và quản lý tài chính của Ban.
Chương 3, tiếp cận phương pháp duy vật lịch sử, logic quá trình quản
lý tài chính nhà nước trong các cơ quan QLNN. Tác giả sử dụng phương pháp
nghiên cứu chuyên ngành quản lý kinh tế là phương pháp xã hội học, phương
pháp toán học, phương pháp kinh tế, để phân tích đối tượng nghiên cứu là
hoạt động quản lý tài chính nhà nước để từ đó làm sáng tỏ kết quả đạt được,
5
những mâu thuẫn, vấn đề nảy sinh trong hoạt động quản lý tài chính nhà nước
tại Ban Tôn giáo Chính phủ. Các phương pháp: phân tích tổng hợp, đối chiếu,
so sánh, điều tra xã hội học cũng được sử dụng để hoàn thành nhiệm vụ của
chương này. Đồng thời, sử dụng sơ đồ, biểu đồ, đồ thị để minh hoạ kết quả
nghiên cứu.
Chương 4, sử dụng phương pháp hệ thống hoá và quy nạp, đồng thời
phân tích tổng hợp để chỉ ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện hoạt động
quản lý tài chính nhà nước tại Ban Tôn giáo Chính phủ phù hợp với những vấn
đề đặt ra ở chương 3 để giải pháp có tính khả thi và đúng hướng đáp ứng yêu
cầu đổi mới hoạt động quản lý tài chính nhà nước theo Luật Ngân sách 2002 và
Dự thảo Luật NSNN 2015.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Góp phần làm rõ nội dung quản lý tài chính ở đơn vị đặc thù là Ban
Tôn giáo Chính phủ, vừa thực hiện chức năng QLNN về tôn giáo, vừa tham
mưu đề xuất với Đảng, Nhà nước các chủ trương, chính sách về tôn giáo,
đồng thời, cung cấp các dịch vụ công về tôn giáo. Nêu bật những đặc điểm và
các nhân tố tác động đến hoạt động quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính
phủ, đặc biệt là các nhân tố về con người, cơ chế, chính sách đối với hoạt
động quản lý tài chính. Và sự cần thiết hoàn thiện hoạt động quản lý tài chính
tại Ban Tôn giáo Chính phủ theo các yêu cầu của Luật NSNN 2002 và Luật
NSNN 2015.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý tài chính tại Ban Tôn giáo Chính
phủ ở cả hai mặt quản lý tài chính từ NSNN và quản lý tài chính các hoạt động
sự nghiệp có thu. Chỉ ra những mặt mạnh, điểm hạn chế trong công tác quản lý
tài chính một cách khách quan, khoa học làm tiền đề xây dựng giải pháp một
cách hợp lý, hiệu quả đối với công tác quản lý tài chính của Ban.
- Đề xuất những quan điểm về quản lý tài chính đối với công tác tôn
giáo trong ngắn hạn và dài hạn để nâng cao chất lượng quản lý tài chính tại
6
Ban Tôn giáo Chính phủ nhằm đáp ứng những yêu cầu mới về quản lý tài
chính trong CQNN.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và
Phụ lục, nội dung chính của luận án gồm 4 chương, 10 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận về quản lý tài chính trong cơ quan nhà nước
có hoạt động sự nghiệp
Chương 3: Thực trạng tài chính và quản lý tài chính ở Ban Tôn giáo
Chính phủ
Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính ở
Ban Tôn giáo Chính phủ
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về quản lý tài chính công
Với quy mô mỗi ngày một lớn hơn trong các quan hệ kinh tế - tài chính,
tài chính công luôn chiếm vị trí đáng kể ở nước ta cũng như hầu hết các nước
trên thế giới. Thông qua các chính sách, cơ chế cụ thể, vai trò của tài chính
công luôn chiếm vị trí quan trọng và được thể hiện chủ yếu qua 3 điểm chính
là: duy trì sự tồn tại và hoạt động của bộ máy nhà nước và các cấp chính
quyền địa phương các cấp, bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự và an toàn xã
hội; là công cụ để nhà nước tác động vĩ mô (và vi mô) vào đời sống kinh tế xã hội, bảo đảm công bằng và phù hợp với các quy luật khách quan; là công
cụ để nhà nước thực hiện việc điều tiết, kiềm chế và bổ trợ cho thị trường,
khắc phục các khuyết tật của thị trường, duy trì sự bình đẳng trong xã hội, bảo
vệ môi trường, tạo cơ sở cho tăng trưởng và phát triển bền vững. Để thực hiện
vai trò của mình, vấn đề lớn nhất của tài chính công là cách thức quản lý của
nhà nước nhằm đạt mục tiêu nhất định. Các công trình nghiên cứu đã đánh giá
cải cách quản lý tài chính công tại Việt Nam, cũng như những bài học kinh
nghiệm về quản lý tài chính công phục vụ cho các mục tiêu kinh tế - xã hội
của một số quốc gia có nền tài chính phát triển.
Tác giả Nguyễn Công Nghiệp trong Đánh giá cải cách hành chính nhà
nước trong lĩnh vực quản lý tài chính công từ năm 1992 đến năm 2000 [76]
đã phân tích cụ thể về hệ thống tài chính công trong nền kinh tế thị trường và
những đặc trưng chủ yếu của tài chính công ở Việt Nam; cải cách NSNN và
mối quan hệ với cải cách hành chính; thực trạng cải cách ngân sách ở Việt
Nam; kiểm toán ngân sách - công cụ để tăng cường kỷ luật và nâng cao hiệu
quả sử dụng ngân sách.
8
Kết quả của quá trình cải cách tài chính công giai đoạn 1992-2000 đã
xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá
nhân trong trong lĩnh vực ngân sách, tài chính công; tổ chức lại hệ thống ngân
sách bao gồm 4 cấp tương ứng với 4 cấp chính quyền; đơn giản hoá, giảm thủ
tục và tránh lãng phí trong quản lý thu, chi NSNN; xây dựng và đưa vào hoạt
động hệ thống cơ quan kiểm toán với vai trò của cơ quan kiểm tra, kiểm soát
tài chính công. Tác giả, bên cạnh đó, cũng chỉ ra những vấn đề lớn còn tồn tại
trong quá trình cải cách tài chính công. Thời gian qua chưa xác định rõ cải
cách tài chính công là một nội dung của cải cách hành chính Nhà nước phải
được tiến hành đồng bộ với cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy và xây
dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ,công chức. Thẩm quyền quyết định về ngân
sách của Hội đồng nhân dân các cấp về cơ bản vẫn là hình thức. Tính chủ
động của cơ quan hành chính từ các Bộ, ngành đến Uỷ ban nhân dân các cấp
trong sử dụng các nguồn lực tài chính công chưa được nâng cao, vẫn phụ
thuộc nhiều vào quyền quyết định của các cơ quan kế hoạch và tài chính ở
Trung ương và địa phương. Chưa ban hành đủ và đồng bộ các chế độ, chính
sách, định mức chi tiêu, do đó vẫn còn nhiều trở ngại cho các cơ quan hành
chính trong tổ chức thực hiện ngân sách phục vụ cho các nhiệm vụ được giao
của mình. Chưa tạo lập được sự đồng bộ giữa 3 yếu tố là tổ chức bộ máy, tiền
lương và ngân sách. Chậm nghiên cứu để ban hành các cơ chế, chính sách tài
chính hỗ trợ cho quá trình thực hiện cải cách hành chính, ví dụ như chính sách
khoán biên chế và kinh phí hành chính, cơ chế tài chính cho hoạt động của tổ
chức sự nghiệp có thu. Trách nhiệm của cơ quan kiểm toán không được phân
biệt rõ ràng với các cơ quan kiểm tra khác, dẫn tới sự chồng chéo chức năng
hoạt động, gây phiền hà cho các đơn vị bị kiểm tra.
Nguyễn Ngọc Hiến trong Quản lí tài chính công ở Việt Nam [53] đã
tập trung nghiên cứu các lý luận cơ bản về tài chính công và vai trò, chức
năng tài chính công, đồng thời phân tích thực trạng quản lý tài chính công ở
9
nước ta bao gồm hoạt động đánh thuế, chi tiêu NSNN trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam.
Phân tích thực trạng quản lý tài chính công ở Việt Nam những năm đầu thế
kỉ XXI và đề xuất các giải pháp để tăng cường quản lý tài chính công trong
giai đoạn tiếp theo.
Trần Trí Trinh trong luận án tiến sĩ: Các giải pháp cải cách quản lý tài
chính công nhằm thúc đẩy cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam [85] đã
hệ thống hoá và làm rõ một số vấn đề cơ bản về cải cách quản lý tài chính
công trong mối quan hệ gắn bó với cải cách hành chính nhà nước, đặc biệt là
các nội dung, nguyên tắc, yêu cầu của quản lý tài chính công, cũng như vai
trò, mối quan hệ và tác động của cải cách quản lý tài chính công đối với cải
cách hành chính nhà nước.
Từ phân tích quản lý tài chính công là quá trình tác động, điều chỉnh
của nhà nước đến tài chính công nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước một cách có hiệu quả nhất - tác giả luận án đã
đưa ra 3 nguyên tắc quản lý tài chính công: kỷ luật tài chính, đảm bảo hiệu
quả phân bổ nguồn lực và đảm bảo hiệu quả hoạt động với các yêu cầu về tính
trách nhiệm, tính tiên liệu, tính linh hoạt và sự tham gia của xã hội để phân
tích các hoạt động của cải cách quản lý tài chính công đến cải cách hành
chính nhà nước.
Tác giả luận án nêu lên được một cách tổng quát và phân tích, đánh giá
khá xác đáng, trung thực, khách quan tình hình thực hiện cải cách quản lý tài
chính công những năm gần đây ở nước ta. Qua đánh giá thực trạng, tác giả
luận án đã chỉ rõ được các thành tựu, các mặt hạn chế, vướng mắc và nguyên
nhân của chúng. Một số vấn đề quan trọng đặt ra từ thực trạng cải cách quản
lý tài chính công cần giải quyết trong thời gian tới đã được luận án đề cập tới
như các nội dung có liên quan đến chính sách tiền lương, cơ chế tự chủ tài
chính, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp, thực hiện xã hội hoá
dịch vụ công và phân cấp quản lý tài chính.
10
Bài viết của Anand Rajaram, Tuan Minh Le, Nataliya Biletska và Jim
Brumby Một khuôn khổ chuẩn cho đánh giá quản trị đầu tư công [97] đã
cung cấp một cách tiếp cận thực dụng và khách quan quá trình chẩn đoán để
đánh giá hệ thống quản lý đầu tư công cho các chính phủ. Từ những yếu kém
trong quản lý đầu tư công có thể phủ nhận lập luận cốt lõi là mở rộng không
gian tài khoá bổ sung cho đầu tư công có thể nâng cao triển vọng kinh tế
trong tương lai, vì vậy, các quy trình phối hợp lựa chọn và quản lý đầu tư
công là rất quan trọng. Bài viết đã chỉ ra 8 đặc trưng cơ bản của một hệ thống
đầu tư công tốt: (1) hướng dẫn đầu tư, phát triển dự án và sàng lọc sơ bộ; (2)
thẩm định dự án chính thức; (3) đánh giá độc lập thẩm định; (4) lựa chọn và
ngân sách của dự án; (5) thực hiện dự án; (6) điều chỉnh dự án; (7) hoạt động
cơ sở; và (8) đánh giá dự án. Các tác giả nhấn mạnh vai trò của các quá trình
lập và điều hành ngân sách (liên kết ở giai đoạn thích hợp để mở rộng nguồn
lực ngân sách) có khả năng mang lại hiệu quả lớn nhất cho các quyết định đầu
tư công, là giải pháp cơ bản nhằm cải cách những thiếu sót trong chi tiêu đầu
tư công, hướng tới hoàn thiện quản lý chi đầu tư từ NSNN.
Wolfgang Streeck và Daniel Mertens trong Thắt chặt tài chính và đầu
tư công: Có cần thiết phải đối lập? [108] đã đề cập đến cơ cấu chi đầu tư
công trong điều kiện ngân sách hạn chế, thông qua khảo sát thực tế đầu tư
công của ba nước: Mỹ, Đức và Thuỵ Điển từ năm 1981 đến năm 2007. Chi
đầu tư công của các quốc gia này xu hướng tăng cao trong cả giai đoạn 19812007 và chủ yếu tăng đầu tư về giáo dục, nghiên cứu và phát triển, hỗ trợ cho
gia đình, chính sách thị trường lao động. Các tác giả đánh giá năng lực của
Chính phủ trong điều kiện thắt lưng buộc bụng tài chính để chuyển các nguồn
lực tài chính vốn đã hạn hẹp sang tài trợ cho cho các chương trình định hướng
tương lai nhằm thực hiện mục tiêu xã hội công bằng và hiệu quả hơn. Những
dữ liệu tại Đức, Thuỵ Điển và Mỹ trong những năm 1981-2007 là cơ sở để để
khám phá những động lực cho chính sách chi tiêu với sự kỳ vọng rằng những
11
nỗ lực củng cố mục tiêu công bằng và hiệu quả hơn sẽ được thực hiện trong
thập kỷ tới.
Bộ Chiến lược và Tài chính Hàn Quốc trong Mô đun kinh nghiệm phát
triển 2012 của Hàn Quốc: Kinh nghiệm về quản lý hệ thống thông tin tài
chính của Hàn Quốc - cấu trúc, vận hành và kết quả [103] cho rằng: tiết
kiệm, hiệu quả, chống lãng phí là nguyên tắc căn bản trong quản lý, sử dụng
kinh phí NSNN (NSNN) của nhiều nước trên thế giới. Tại Hàn Quốc, từ năm
1961, Luật Quản lý tài chính đã có những quy định để điều chỉnh vấn đề này.
Đến nay, Luật Quản lý tài chính của Hàn Quốc đã được sửa đổi, bổ sung 25
lần nhằm cụ thể hoá hơn các quy định, đảm bảo tỉnh công khai, minh bạch,
đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát của các cơ quan
chức năng để nâng cao hiệu quả thực thi Luật.
Các văn bản hướng dẫn triển khai của Chính phủ, của Bộ Tài chính
Hàn Quốc đã đưa ra các quy định cụ thể nhằm kiểm soát ngay từ khâu phân
bổ ngân sách đảm bảo tập trung, không dàn trải. Theo đó, việc bố trí ngân
sách cho hoạt động của các CQNN phải gắn với chức năng, nhiệm vụ của
từng cơ quan, đơn vị. Công tác lập dự toán kinh phí hàng năm được xác định
là khâu quan trọng. Các cơ quan, đơn vị phải căn cứ vào hệ thống định mức
chi tiêu quy định tại Luật Quản lý ngân sách và Các khoản trợ cấp, đồng thời
được Bộ Tài chính phối hợp với các bộ, ngành xây dựng dự toán cho cơ quan,
đơn vị mình. Bộ Tài chính có trách nhiệm thẩm tra, thủ trưởng các cơ quan,
đơn vị sử dụng kinh phí NSNN có trách nhiệm giải trình để làm rõ từng nội
dung, đồng thời chịu trách nhiệm cá nhân trong khâu tổ chức thực hiện dự
toán bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả.
Đối với việc bố trí kinh phí NSNN cho các chương trình, dự án, cơ
quan, đơn vị chủ trì thực hiện phải thuyết minh làm rõ mục tiêu, lợi ích về
kinh tế - xã hội và những tác động ảnh hưởng đến các vấn đề khác có liên
quan để có căn cứ bố trí kinh phí thực hiện. Việc giám sát thực hiện được chú
12
trọng đến công tác giải ngân để đảm bảo theo đúng kế hoạch, hàng năm có
đánh giá kết quả của chương trình, dự án so với mục tiêu đã đề ra. Trường
hợp giải ngân chậm hoặc kết quả không đạt được mục tiêu sẽ bị cắt giảm kinh
phí, thậm chí dừng thực hiện chương trình, dự án kém hiệu quả. Theo kinh
nghiệm của Hàn Quốc thì nếu kiểm soát tốt việc thực hiện các chương trình,
dự án như trên sẽ hạn chế được tình trạng lãng phí NSNN. Ngoài ra, trong tổ
chức thực hiện, việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan,
đơn vị đồng thời có chế tài xử lý triệt để các hành vi vi phạm trong thực hiện
quy trình lập, phân bổ, quản lý, sử dụng NSNN là giải pháp quan trọng cho
việc tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí.
Ngoài ra, còn khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
án như: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính công trong các
cơ quan hành chính nhà nước [1]; Quản lý tài chính công: lý luận và thực tiễn
[57]; Quản lý tài chính công: những vấn đề lý luận và thực tiễn [59]. Nhiều
cuốn sách nghiên cứu về cải cách quản lý tài chính công trong cải cách hành
chính nhà nước như: Cải cách bộ máy hành chính cấp trung ương trong công
cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta [51]; Cải cách hành chính nhà nước; thực
trạng, nguyên nhân; giải pháp [77]; Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành
chính ở Việt Nam [53];… Một số nghiên cứu cải cách quản lý tài chính công
có thể tìm thấy trong các tài liệu tham khảo nước ngoài như: Báo cáo phát
triển Việt Nam 2004: Quản lý và điều hành [60]; Việt Nam quản lý chi tiêu
công để tăng trưởng và giảm nghèo [49].
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về quản lý ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là xương sống của tài chính nhà nước và là nguồn
lực quan trọng cho đầu tư phát triển, đảm bảo quốc phòng an ninh và duy trì
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Việc nâng cao hiệu quả quản trị
điều hành ngân sách trung ương và địa phương luôn là vấn đề được các nhà
nghiên cứu quan tâm. Các công trình nghiên cứu về NSNN được nêu đều
13
khẳng định vai trò quan trọng của công tác điều hành ngân sách với việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của trung ương và địa phương, song những
bất cập của quản lý, điều hành NSNN vẫn tồn tại, đặc biệt là những bất cập về
cơ chế, chính sách.
Tô Thiện Hiền trong Nâng cao hiệu quả quản lý NSNN tỉnh An Giang
giai đoạn 2011 - 2015 và tầm nhìn đến 2020 [55] cho rằng quản lý NSNN gắn
liền với việc thực hiện các chính sách kinh tế, chính trị, xã hội của nhà nước
trong từng thời kỳ. Việc khai thác, huy động nguồn thu vào NSNN và sử dụng
vốn NSNN, chi tiêu NSNN một cách tiết kiệm, có hiệu quả là bộ phận không
thể tách rời của vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Luận án góp
phần lý giải trên phương diện khoa học những lý luận cơ bản về hiệu quả quản
lý NSNN và các hình thức quản lý ngân sách tỉnh An Giang. Đồng thời, trên cơ
sở phân tích thực trạng về hiệu quả quản lý ngân sách của tỉnh và kinh nghiệm
của một số nước trên thế giới và một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, tác giả
luận án nêu ra mục tiêu và quan điểm về vấn đề quản lý thu - chi ngân sách ở
An Giang, và cơ sở cơ bản để đề ra những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý NSNN tỉnh An Giang trong thời gian tới, góp phần đẩy mạnh
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương một cách vững chắc.
Trịnh Thị Thuý Hồng trong Quản lý chi ngân sách nhà nước trong đầu
tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Bình Định [61] đã làm rõ vai trò của
quản lý chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản và đưa ra các chỉ tiêu đánh
giá quản lý chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản: kết quả chi, hiệu quả chi
NSNN; khảo sát chu trình quản lý chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản từ
khâu lập kế hoạch, lập dự toán, chấp hành dự toán, quyết toán cho đến khâu
kiểm tra, thanh tra, đánh giá chương trình. Các phân tích về thực trạng quản lý
chi NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh Bình Định cho thấy
được điểm mạnh nhất, yếu nhất trong từng khâu của chu trình quản lý chi
NSNN trong đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh, các nguyên nhân dẫn
- Xem thêm -