MỘT SỐ KINH NGHIỆM THỰC HIỆN TỐT QUY TRÌNH DẠY HỌC PHÂN
MÔN TẬP ĐỌC KHỐI LỚP 2 - 3
I.
Vai trò của phân môn Tập đọc ở Tiểu học
giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục phổ thông. Nó
được coi là nền móng đầu tiên giúp con người tồn tại và phát triển. Nền móng ấy được
xây dựng vững chắc bởi sự gắn kết của rất nhiều môn học nhằm phát triển toàn diện
cho trẻ cả về đức - trí - thể - mĩ. Thật khó để tìm ra một môn học quan trọng nhất đối
với các em nhưng có một điều không thể phủ nhận đó là vị trí và vai trò đặc biệt của
môn Tiếng Việt. Môn học này góp phần hình thành khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát
triển tư duy giúp trẻ tiếp thu tri thức của các môn học khác.
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học gồm rất nhiều phân môn (Tập đọc, Luyện từ và câu,
Tập làm văn, Chính tả, Tập viết) nhằm hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng
sử dụng Tiếng Việt ( nghe - nói - đọc - viết). Nếu các phân môn Tập viết, Chính tả, Tập
làm văn góp phần cơ bản để rèn luyện kỹ năng viết cho học sinh thì phân môn Tập đọc
có nhiệm vụ hàng đầu là luyện kỹ năng đọc cho học sinh.
Ở bậc Tiểu học, dạy đọc có ý nghĩa rất to lớn. Đọc trở thành đòi hỏi cơ bản đầu
tiên đối với người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc
giúp các em chiếm lĩnh ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Đọc tạo ra hứng
thú và động cơ học tập đồng thời là công cụ để học tập các môn học khác. Cũng nhờ
biết đọc mà học sinh sẽ có khả năng tự học và tinh thần học tập suốt đời. Nói một cách
cô đọng như giáo sư Lê Phương Nga: “Đọc là một khả năng không thiếu được của con
người thời đại văn minh. Không biết đọc, con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ
sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành được một nhân cách toàn
diện”
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ cũng
như tư duy của trẻ. Làm tốt nhiệm vụ dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn; bồi dưỡng
ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp; làm nảy nở trong tâm hồn các em những ước
mơ trong sáng; dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic cũng như biết tư duy hình
tượng.
Những điều nêu trên đã khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và phát triển
một cách có hệ thống, có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh Tiểu học nói chung cũng
như học sinh lớp 3 nói riêng. Năng lực đọc của học sinh phải bao gồm cả kỹ năng đọc
thành tiếng: từ đọc đúng đến đọc nhanh (đọc trôi chảy, lưu loát) rồi đọc diễn cảm ( chỉ
yêu cầu với học sinh khối lớp 4 - 5) và kỹ năng đọc hiểu ( tức là đọc có ý thức để thông
hiểu nội dung văn bản). Trên cơ sở rèn luyện tốt cho học sinh kỹ năng đọc thành tiếng,
người giáo viên Tiểu học cần phải chú ý ở các em kỹ năng đọc hiểu. Điều này có ý
nghĩa then chốt, đóng vai trò quyết định khả năng học hỏi của chính bản thân các em.
II. Thực trạng dạy và học Tập đọc
Thực tế việc dạy Tập đọc ở các trường Tiểu học hiện nay nói chung và nhất là
dạy học Tập đọc ở khối 2-3 nói riêng ít nhiều vẫn còn hạn chế.
Một số giáo viên nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ vai trò của việc rèn kỹ năng
đọc cho học sinh trong giờ Tập đọc nên chưa thực sự quan tâm và đầu tư đúng mức cho
môn học này. Trong giờ Tập đọc học sinh không được tập đọc nhiều, số lượt học sinh
đọc trong giờ học còn ít. Có thể nói dạy cho học sinh biết đọc là nhiệm vụ của giáo
viên lớp 1 nhưng rèn luyện, củng cố và nâng cao kỹ năng ấy lại là mục tiêu quan trọng
mà giờ tập đọc các khối lớp trên hướng tới. Kiểu dạy tập đọc một cách qua loa, đại khái
thực sự rất “ nguy hiểm”. Dạy như vậy sẽ không thể lôi cuốn học sinh vào giờ học và
khó mà đạt được mục tiêu dạy học của phân môn.
Một thực trạng khác mà tôi muốn đề cập đến ở đây là giáo viên phân bố thời
gian dành cho việc luyện đọc thành tiếng và luyện đọc hiểu của học sinh trong giờ tập
đọc chưa thật hợp lý. Mỗi giờ tập đọc ở Tiểu học nói chung và ở khối lớp 2 - 3 nói riêng
đều có hai phần nội dung lớn cần giải quyết là: luyện đọc ( hình thành kỹ năng đọc
thành tiếng ) và tìm hiểu bài ( hình thành kỹ năng đọc hiểu văn bản). Hai phần này có
thể tiến hành cùng một lúc đan xen vào nhau hoặc cũng có thể dạy tách rời tuỳ từng bài,
tuỳ từng giáo viên và cả trình độ học sinh từng lớp. Song dù dạy theo cách nào thì hai
phần này vẫn luôn có mối quan hệ tương hỗ khăng khít: đọc đúng để hiểu đúng và
ngược lại hiểu đúng chính là cơ sở để đọc đúng. Với những lý do này việc coi trọng
hoặc dành thời gian quá mức cho bất kỳ nội dung nào trong hai nội dung đó đều được
xem là không hợp lý.
Tập đọc là phân môn có quy trình dạy học khá rõ ràng về các bước lên lớp. Tuy
nhiên thực tế cho thấy một số thầy cô còn nhầm lẫn hay vì một lý do gì đó mà không
thực hiện đầy đủ theo các bước trong quy trình dạy học phân môn này. Quy trình chính
là những quy định về trình tự dạy học đã được nghiên cứu, thử nghiệm kỹ càng để đảm
bảo mang lại hiệu quả trong giảng dạy. Sự sáng tạo của giáo viên chỉ được ghi nhận ở
cách thức tiến hành mỗi bước chứ không được thay đổi thứ tự hay tự ý cắt xén các bước
trong quy trình.
Xuất phát từ tầm quan trọng của phân môn Tập đọc và thực trạng dạy – học tập
đọc của chúng ta hiện nay, tôi mạnh dạn trao đổi với các đồng nghiệp về quy trình daỵ
học Tập dọc khối 2- 3.
III. Quy trình daỵ học Tập dọc khối 2- 3
1. Kiểm tra bài cũ
a.Mục tiêu: - Kiểm tra việc nắm kiến thức và rèn kĩ năng của HS ở giờ trước.
- Kiểm tra ý thức học tập của HS.
b. Yêu cầu đạt được: - Kiểm tra được kĩ năng đọc đúng.
- Kiểm tra kĩ năng đọc hiểu.
c. Các hình thức kiểm tra:
* Kiểm tra kĩ năng đọc đúng:
+ Gọi 1, 2 HS đọc thành tiếng (đọc đoạn, đọc toàn phần, đọc phân vai)
hoặc đọc thuộc lòng.
+ Việc lựa chọn hình thức nào chúng ta phải cân nhắc sao cho phù hợp về
nhiều mặt như: - Thời lượng dành cho phần kiểm tra bài cũ.
- Nôi dung của bài cũ(dài thì đọc 1 đoạn, kịch thì đọc phân vai, thơ
thì đọc thuộc lòng……)
- Thuận lợi cho việc giới thiệu vào bài mới(Ví dụ: chúng ta dự định
lấy nội dung đoạn 2 giờ trước làm điểm tựa giới thiệu bài mới thì
chúng ta kiểm tra HS đọc đoạn 2)
* Kiểm tra kĩ năng đọc hiểu: GV đặt câu hỏi gắn liền với nội dung bài tập
đọc đã học ở tiết trước cho HS trả lời.
2. Bài mới..
2.1. Giới thiệu bài
a. Mục tiêu: Tạo hứng thú học tập cho HS, kích thích các em ham thích đọc
bài tập đọc.
b. Yêu cầu đạt được: Hoạt động giới thiệu bài phải giới thiệu được bài tập
đọc sẽ tìm hiểu trong tiết học để gợi tò mò, tạo hứng thú cho HS. Riêng với bài tập đọc
mở đầu chủ điểm mới, GV cần giới thiệu vài nét chính về chủ điểm.
c. Một số cách giới thiệu bài: Có nhiều cách khác nhau để giới thiệu bài
- Chuyển từ bài cũ sang bài mới.
- Giới thiệu trực tiếp.
- GV gợi mở bằng câu hỏi.
- Dựa vào tranh, ảnh, vật thật để giới thiệu bài.
- Dùng thơ ca, âm nhạc để giới thiệu bài.
- GV diễn giảng bằng lời.
Tuy nhiên dù theo cách nào thì phần giới thiệu bài cũng cần ngắn gọn, không
làm mất thời gian của việc luyện đọc và tìm hiểu bài.
2.2. Luyện đọc đúng: Tiến trình của phần luyện đọc gồm những bước sau:
2.2.1. GV đọc diễn cảm toàn bài
a. Mục tiêu: Đưa ra mẫu để định hướng cách đọc thành tiếng cho HS và tạo
ấn tượng cho HS về nội dung bài đọc .
b. Yêu cầu đạt được: GV phải đọc to, rõ ràng, phát âm chính xác các tiếng,
đọc đúng những chỗ ngắt – nghỉ cũng như giọng điệu của bài
c. Cách tiến hành: - Khi GV đọc yêu cầu HS theo dõi SGK và đọc thầm
theo.
- GV chọn vị trí đưng phù hợp để quan sát được HS và cả
lớp có thể nghe rõ cô giáo đọc bài.
2.2.2. Học sinh đọc nối tiếp câu – GV kết hợp sửa lỗi phát âm .
a. Mục tiêu: Câu được coi là đơn vị nhỏ nhất của lời nói nên ở bước này có
nhiều học sinh được tham gia tích cực vào quá trình luyện tập, qua đó bộc lộ năng lực
đọc của từng cá nhân.
b. Yêu cầu đạt được: - HS phải chú ý theo dõi và đọc thầm theo bạn để thực
hiện đúng lượt đọc của mình cũng như rèn luyện khả năng nghe và nhận xét bạn đọc.
- GV: cùng với việc bao quát lớp giáo viên cần
theo dõi thật kỹ để phát hiện và sửa lỗi phát âm cho các em, kết hợp với việc luyện đọc
đúng từ ngữ
c. Cách tiến hành: - Tổ chức cho HS đọc nối tiếp câu theo hàng ngang hoặc
hàng dọc. Mỗi HS đọc một câu theo thứ tự các câu trong bài. Tùy số lượng câu trong
bài nhiều hay ít mà chúng ta tổ chức cho các em đọc nối tiếp câu 1lượt hay nhiều lượt
để phần lớn HS trong lớp đều được tham gia đọc.
- Khi phát hiện lỗi phát âm của học sinh thì chúng ta
phải dừng lại và sửa ngay sau khi học sinh đọc hết câu văn của mình, không nên đợi
đến hết lượt đọc để tránh tình trạng phải sửa nhiều lỗi của nhiều học sinh cùng một lúc.
(Lưu ý: Thay vì giáo viên liên tục nhận xét học sinh này sai, học sinh kia đọc chưa đúng
thì hãy tạo cơ hội để các em tự phát hiện lỗi sai của nhau. Khi tự phát hiện lỗi sai của
nhau có nghĩa các em đã nhận thức được thế nào là sai để tự rút kinh nghiệm cho
mình.)
2.2.3. Học sinh đọc nối tiếp đoạn trước lớp – GV kết hợp giải nghĩa từ khó và
HDHS ngắt nghỉ đúng ở những câu văn dài,khó đọc(nếu có).
a. Mục tiêu: - Củng cố cho HS kĩ năng đọc trơn đã được rèn luyện ở lớp dưới.
- Giúp HS hiểu đúng nghĩa các từ khó, từ mang tính địa phương.
- Giúp HS đọc đúng một số câu văn dài, khó đọc(nếu có)
b. Yêu cầu đạt được: - HS phải chú ý theo dõi và đọc thầm theo bạn để thực
hiện đúng lượt đọc của mình. GV cần HD, nhắc nhở để các em đọc to, rõ ràng, trôi
chảy; nghỉ hơi đúng ở những chỗ dấu chấm, dấu phẩy.
- GV phải hướng dẫn để HS hiểu được nghĩa của một
số từ khó trong văn cảnh cụ thể, hướng vào chủ đề bài học, tránh giảng quá rộng, quá
sâu ở Tiểu học.
c. Cách tiến hành: - HD để HS nhận diện được các đoạn trong bài.
- GV lần lượt gọi từng nhóm HS đọc nối tiếp(mỗi nhóm
một lượt. Số lượng HS tham gia mỗi lượt đọc tùy thuộc vào số đoạn trong bài).
- Kết hợp giải nghĩa từ khó khi HS đọc nối tiếp đoạn trước
lớp.(Ví dụ: Sau khi HS đọc đoạn 1, GV dừng lại và HD các em hiểu nghĩa những từ
khó có trong đoạn 1… ). Với các từ đã được chú giải trong SGK có thể cho các em đọc
thầm rồi trình bày lại. Đối với những từ đã được chú thích mà HS vẫn chưa nắm chắc
nghĩa hoặc những từ khác trong bài còn khó hiểu GV có thể HDHS bằng các biện pháp
sau: Dùng từ cùng nghĩa hoặc trái nghĩa hoặc từ thông dụng ở địa phương để giải
thích từ ngữ đó.
Đặt câu với từ ngữ đó.
Miêu tả sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm hoặc tính chất được gọi tên
bằng từ ngữ đó.
- Sau khi HS đọc nối tiếp đoạn trước lớp, GVHDHS ngắt
nghỉ ở những câu văn dài, khó đọc mà các em còn nghỉ hơi chưa chính xác.(nếu có).
2.2.4. HS luyện đọc đoạn trong nhóm.
a. Mục tiêu: Mọi HS đều được đọc và kiểm tra lẫn nhau.
b. Yêu cầu đạt được: - Hoạt động đọc trong nhóm của HS phải được lặp lại
nhiều lần sao cho mỗi HS trong lớp đều được đọc tất cả các đoạn trong bài.
- Trong khi đọc, HS phải chú ý đọc đúng các từ khó đã
được luyện, nghỉ hơi đúng trong những câu văn dài đã được HD
c. Cách tiến hành: - GV chia nhóm giao nhiệm vụ HS về nhóm để luyện
đọc
- Từng nhóm HS đọc và góp ý cho nhau về cách đọc. GV
theo dõi, HD các nhóm đọc đúng.
- Gọi 1 - 2 nhóm đọc lại trước lớp nhằm kiểm tra, đánh
giá quá trình luyện đọc trong nhóm của các em.
2.2.5.Cả lớp đọc đồng thanh 1 đoạn hoặc cả bài
a. Mục tiêu: - Tiếp tục luyện đọc thành tiếng cho HS, chuẩn bị tâm thế để
tìm hiểu nội dung bài đọc.
- Điều chỉnh tốc độ đọc cho HS bằng cách giữ nhịp đọc.
b. Yêu cầu đạt được: - HS đọc nhẹ nhàng, không cần đọc to như khi các em
đọc cá nhân
- GV phải điều khiển và rèn luyện để cả lớp đọc đều nhau.
c. Cách tiến hành: - GV chọn nội dung đọc đồng thanh(1 đoạn hoặc cả bài)
- GV gõ thước giữ nhịp cho HS cả lớp đọc bài.
(Lưu ý: Việc đọc đồng thanh không áp dụng đối với một số văn bản có nội dung
buồn, cần đọc với giọng nội tâm sâu lắng và một số văn bản thông thường)
2.3. Tìm hiểu bài
a. Mục tiêu: - Giúp HS nắm được nội dung chính của bài Tập đọc, tạo cơ sở
cho HS luyện đọc củng cố.
- Trau dồi kĩ năng đọc hiểu cho HS.
b. Yêu cầu đạt được: - Mọi HS trong lớp đều nắm được nội dung bài đọc, trả
lời được các câu hỏi liên quan đến nội dung bài học.
- Đối với mỗi dạng văn bản, yêu cầu đạt được trong
phần tìm hiểu bài là nhau:
Văn bản nghệ thuật: Phạm vi nội dung tìm hiểu gồm: nhân vật(số
lượng, tên, đặc điểm), tình tiết câu chuyện, nghĩa đen, nghĩa bóng dễ nhận ra của câu
văn, câu thơ và ý nghĩa của câu chuyện, bài văn, bài thơ.
Văn bản khác(khoa học, hành chính, báo chí): Phạm vi nội dung tìm
hiểu gồm: tìm hiểu các đoạn của văn bản, hình thức và bố cục cũng nhu nội dung, ý
nghĩa và tác dụng của văn bản đó.
c. Cách tiến hành: - Thông thường chúng ta hướng dẫn HS tìm hiểu bài theo
hệ thống câu hỏi trong SGK. GV linh hoạt yêu cầu HS đọc thầm, đọc lướt hay đọc
thành tiếng 1 đoạn văn bản bài đọc để định hướng các em tìm ra ý trả lời cho câu hỏi
của mình.
- Để phần tìm hiểu bài thực sự có hiệu quả và vừa sức
với đại đa số HS trong lớp, người giáo viên cần đưa ra được hệ thống câu hỏi hợp lý,
phù hợp với trình độ nhận thức của các em bằng việc phải chẻ nhỏ câu hỏi hoặc thêm
vào một số câu hỏi khác chứ không chỉ dừng lại ở những câu hỏi khá trừu tượng trong
SGK. Nhưng khi thêm hay chẻ nhỏ câu hỏi chúng ta cần lưu ý không được đảo vị trí
các câu hỏi trong SGK vì chúng đã tuân theo một logic nhất định gắn với nội dung bài
đọc.
Ví dụ: với bài “Cuộc chạy đua trong rừng” dựa vào những câu hỏi SGK tôi đã
xây dựng hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài như sau:
- Với câu hỏi 1 trong SGK là “Ngựa Con đã chuẩn bị để tham dự hội thi như thế
nào?” tôi đã chẻ nhỏ câu hỏi như sau:
+ Tìm những chi tiết thể hiện sự chuẩn bị của Ngựa Con cho hội thi chạy?
+ Theo em hiểu thì Ngựa Con chỉ tập chung chuẩn bị về phương diện nào?
+ Ngựa Con đã chuẩn bị để tham dự hội thi như thế nào?
- Với câu hỏi 2 trong SGK là “Ngựa Cha khuyên nhủ con điều gì?” tôi đã chẻ
nhỏ và thêm vào một số câu hỏi như sau:
+ Tìm chi tiết thể hiện sự khuyên nhủ của Ngựa Cha với con của mình?
+ Vì sao Ngựa Cha lại khuyên con mình như vậy?
+ Nghe cha nói, Ngựa Con phản ứng thế nào?
+ Em thấy thái độ của Ngựa Con với hội thi ra sao?
- Với câu hỏi 3 trong SGK là “vì sao Ngựa Con không đạt kết quả trong hội thi?”
tôi đã chẻ nhỏ câu hỏi như sau:
+ Tìm những chi tiết trong bài nói lên kết quả của Ngựa Con khi tham gia hội thi
chạy?
+ Nguyên nhân nào dẫn đến sự cố Ngựa Con gặp phải trên đường đua?
+ Theo em, vì sao Ngựa Con lại thất bại trong hội thi?
Có thể nói, để có được một hệ thống câu hỏi như vậy người giáo viên phải chuẩn
bị công phu hơn, phải đầu tư nhiều hơn cả về thời gian và trí tuệ. Tuy nhiên, hiệu quả
đạt được từ sự đầu tư này là rất rõ ràng. Những câu hỏi giáo viên đưa ra phù hợp với
khả năng nhận thức của đại đa số học sinh nên các em háo hức và hăng hái hơn trong
học tập. Tuy nhiên, khi xây dựng hệ thống câu hỏi chúng ta nên lưu ý một số điểm sau:
Tránh đặt câu hỏi trong đó có sẵn nội dung trả lời mà học sinh có thể đoán
ngay ra, không cần động não suy nghĩ. Ví dụ: có phải Ngựa Con có thái độ rất chủ quan
khi tham gia hội thi chạy không?
Hệ thống câu hỏi đưa ra phải theo các mức độ khó dần lên. Từ chỗ chỉ yêu
cầu các em tìm chi tiết thể hiện vấn đề hiểu các chi tiết hiểu nội dung đoạn. Từ
chỗ giúp học sinh hiểu nội dung đoạn mới định hướng, gợi mở để các em hiểu nội dung
bài.
Ở lớp 3, học sinh bắt đầu được nhận biết các biện pháp nghệ thuật (so sánh,
nhân hóa) qua những giờ học luyện từ và câu. Bởi vậy, với các văn bản tập đọc mang
giá trị nghệ thuật cao giáo viên nên đưa thêm câu hỏi hướng dẫn các em tìm hiểu khía
cạnh nghệ thuật của văn bản. Nhờ đó học sinh có thêm ngữ liệu để đặt câu, viết đoạn
cho sinh động trong những giờ Tập làm văn.
2.4. HDHS luyện đọc lại và HTL(nếu SGK yêu cầu)
a. Mục tiêu: Từ chỗ HS đã nắm được nội dung bài đọc, GVHD để các em có
thể tìm ra giọng đọc phù hợp cho bài, cho từng nhân vật để điều chỉnh cách đọc của
mình cho hay hơn, tiến dần đến yêu cầu đọc diễn cảm.
b. Yêu cầu đạt được: HS không chỉ đọc đúng mà còn phải đọc hay.
c. Cách tiến hành:
* Luyện đọc lại: - GV đọc diễn cảm từng đoạn hoặc cả bài
- GV lưu ý HS về giọng điệu chung của đoạn hoặc bài, những
câu cần chú ý. Đối với HS lớp 2-3, đọc diễn cảm chưa phải là yêu cầu bắt buộc. Do đó,
tùy thuộc vào trình độ HS lớp cụ thể, GV có thể xác định mức độ cho phù hợp.
- HS luyện đọc đoạn văn hay khổ thơ đã được GVHD
- Từng HS hoặc nhóm HS thi đọc. GV uốn nắn cách đọc cho
HS.
( Tùy từng loại văn bản mà người GV cần lựa chọn ngữ liệu và cách thức luyện
đọc lại cho phù hợp. Ví dụ: truyện kể đọc phân vai 1 đoạn hội thoại giữa các nhân
vật; thơ – bài văn miêu tả chọn đọc 1 đoạn hay; đơn từ hay một số văn bản phi nghệ
thuật khác luyện đọc lại toàn bài…)
* Học thuộc lòng: - HS tự nhẩm thuộc lòng các khổ thơ, bài thơ hay đoạn văn
theo yêu cầu của SGK.
- GV có thể áp dụng một số biện pháp giúp HS HTL như:
ghi bảng một số từ làm “điểm tựa” cho HS dễ nhớ sau đó xóa dần hết “từ điểm tựa” để
HS tự nhớ và HTL toàn bộ. Nếu HS yếu hơn có thể trực quan toàn bộ phần văn bản cần
HTL lên bảng rồi xóa dần các chữ trong mỗi dòng, mỗi câu, mỗi khổ thơ. Ngoài ra GV
có thể tổ chức cuộc thi hay trò chơi luyện HTL một cách nhẹ nhàng để gây hứng thú
cho HS.
3. Củng cố - dặn dò
- HDHS chốt lại nội dung chính hoặc ý nghĩa của bài tập đọc
- Nhận xét tiết học.
- Nêu yêu cầu tiếp tục luyện tập và chuẩn bi cho bài sau.
IV. Ghi bảng
1. Cách 1:
Tập đọc
TÊN BÀI
1. Luyện đọc
2. Tìm hiểu bài
- Từ, cụm từ cần luyện đọc
- Từ ngữ, chi tiết nổi bật cần ghi nhớ.
- Câu, đoạn cần luyện đọc
- Ý chính của đoạn hoặc của khổ thơ, bài
- Lưu ý về giọng đọc.
cần ghi nhớ.
2. Cách 2:
Tập đọc
TÊN BÀI
Phần ghi để lưu giữ
Phần ghi có thể xóa đi
1. Luyện đọc
- Từ, cụm từ, câu cần luyện đọc.
2. Tìm hiểu bài
- Thông tin xuất hiện trong giờ dạy.
- Từ ngữ, hình ảnh, chi tiết, nhân vật - Bài tập HS làm trên bảng lớp.
nổi bật.
- Ý nổi bật của bài cần khắc sâu.
3. Luyện đọc lại
- Câu, đoạn văn ngắn, khổ thơ cần
HD cách đọc.
- Những lưu ý về cách đọc.
Tác giả: Trần Thị Bích Huệ - Giáo viên Trường Tiểu học Kim Đồng - Lập Thạch
- Xem thêm -