Baù Töô ùc Dracul a
Tác Giả: Bram Stoker
Thể Loại: Tiểu Thuyết, Kinh Dị, Ma
Quái Dịch Giả: Nguyễn Tuyên
Nhà xuất bản: Nhà xuất bản văn học
Nguồn: phuonghong.com
Ebook: daotieuvu.blogspot.com
Ebook được blog Đào Tiểu Vũ hoàn thành với mục đích phi thương
mại, nhằm chia sẻ với những bạn ở xa hoặc không có điều kiện mua
sách, khi sao lưu xin ghi rõ nguồn.
Trong điều kiện có thể bạn hãy mua sách để ủng hộ nhà xuất bản và
tác giả.
Mục Lục:
Giới thiệu
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương
12
Chương
13
Chương
14
Chương
15
Chương
16
Chương
17
Chương
18
Chương
19
Chương
20
Chương
21
Chương
22
Chương
23
Chương
24
Chương
25
Chương
26
Chương
27
NHỮNG BẢN GHI CỦA ABRAHAM VAN HELSING
NHẬT KÝ CỦA JONATHAN HARKER
NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD
BẢN GHI CỦA BÁC SĨ VAN
HELSING DRACULA
NHẬT KÝ CỦA MINA HARKER
GHI CHÚ
Giới thiệu
Dracula là tên một nhân vật có thật, một nhân vật gợi lại những kỷ niệm
đau đớn và tàn bạo của lịch sử Rumani. Theo lời của Haữy Ludlam,
người viết tiểu sử của tác giả Bram Stoker, Dracula là một lãnh chúa
khét tiếng hung bạo ở xứ Valachie hồi thế kỷ thứ XV. Sự dã man phi
nhân tính của kẻ bạo chúa này đối với người Thổ được những người
cùng thời ghi lại trong hai bản thảo viết tay, trong đó có một bản mô tả
hắn như một bóng ma cà
rồng với những lời lẽ như stregoicca phù thủy, ordog và pokol - quỷ
satăng và địa ngục?
Sử sách ghi rằng trong các cuộc chiến đẫm máu chống lại người Thổ ở
Valachie và Transylvanie, những người thuộc dòng dõi quý tộc Dracula
luôn tỏ ra hung bạo và khát máu.
Người đứng đầu các chiến binh này là Dracula, một nhân vật mang đầy
đủ những tính cách hắc ám nhất khiến người đương thời nghi hắn có
dính líu đến quỷ dữ. Trong những lời truyền tụng của người xưa có
đoạn: “Hắn cho chôn tù binh đến rốn rồi ra lệnh hạ sát cả loạt.. hoặc cho
lấy dùi xiên vào những kẻ bại trận và nếu giãy giụa quyết liệt quá, họ sẽ
bị đóng cọc ghim bàn tay xuống đất. Có lần hắn còn cho quẳng một tên
trộm vào vạc nước sôi rồi cho xẻo thịt bắt người nhà của tên tội đồ phải
ăn ngay trước mặt
quần thần.
Hắn còn tự tay mổ bụng một người vợ đang mang thai để xem đứa con
trong bào thai... Đến Saint- Barthelemy, hắn ra lệnh giết chết ba mươi
ngàn người vô tội đến Schylta, hai mươi nhăm ngàn... Hắn cho treo
ngược tóc những người hắn không thích, cho chém tù binh để lấy thủ cấp
mời những kẻ thù khác ăn và rồi lại ra lệnh cho chém các thực khách
này vào lúc tàn bữa. Ba trăm khách du mục tới xứ sở của hắn đều bị hắn
bắt xâu xé lẫn nhau. Hắn cho nấu chín con trẻ rồi bắt các bà mẹ của
chúng phải ăn. Hắn sai cắt vú đàn bà và bắt đàn ông phải ăn...”
Hình ảnh và tính cách man rợ, khát máu của nhân vật có thật trong lịch sử
này đã được Bram Stocker mượn để xây dựng thành một hình tượng
mang màu sắc kỳ bí có tính cách ma quái theo những lời truyền tụng dân
gian của người châu u, đặc biệt là người Rumani. Theo tiếng Rumani,
“Dracula” được dùng để chỉ thói tham tàn của những kẻ xấu xa, nhưng
đồng thời nó cũng là lời ám chỉ “ma cà rồng” một tưởng tượng rất phổ
biến trong dân gian Rumani và các nước lân cận. Theo tín ngưỡng của
người Rumani, linh hồn của người chết chỉ lìa khỏi thể xác khi được một
linh mục chính thống giáo rút phép thông công trong nhà thờ, nếu không
xác người chết sẽ không thể thối rữa và sẽ biến thành ma quỷ để rồi lại
có ngày đi hút máu của những người đang sống.
Theo truyền thuyết của người Rumani, ma cà rồng có thể biến thành các
giống vật như chó, mèo, cóc nhái, chấy rận, nhện... Đặc điểm chung của
các con vật ma quái này là đều thích cắn cổ và hút máu người sống, đặc
biệt là trẻ em và phụ nữ. Tuy nhiên, những người nông dân Valachie
(Rumani) lại quan niệm rằng ma cà rồng không mang hình hài của loài
dơi hay bất cứ một loài vật nào kể trên, và những bóng ma đội lốt thú
vật này cũng không nhất thiết phải cắn vào cổ nạn nhân để hút máu.
Trong suy tưởng của họ, ma cà rồng thường mang hình hài của một con
chó sói (như mô tả trong tiểu thuyết của Bram Stocker); thú vui của con
sói này là lang thang đi khắp chốn đồng quê để giết chết và hút máu tất
cả các gia súc, gia cầm mà nó gặp trong đêm, chính vì vậy mà con ma
sói có thể mãi
mãi giữ được cái làn da tươi trẻ và mọng máu của nó. Họ còn cho rằng
ma sói không bao giờ chết hẳn và mỗi lần sống lại, nó lại như tiếp thêm
sức mạnh sau những lần no máu. Vì vậy, mỗi khi phải chôn một người
quá cố, họ thường đặt ngay bên cạnh anh ta một mẩu bánh và một đồng
xu bạc. Sau đó, họ sẽ đặt vài cực đất lên bụng và một hòn đá thật nặng
lên đầu, hoặc lên hai chân của người chết khiến cho thây ma không thể
ngóc đầu dậy để đi ám người khác...
Có thể thấy một điều rằng khác với văn học và các câu chuyện dân gian
của phương Đông - nơi các bóng ma không phải lúc nào cũng bị coi là
thế lực tà ác - văn học và truyền thống dân gian phương Tây thường xem
bóng ma là hiện thân của cái ác và luôn mang đến sự chết chóc, tai họa
cho thế gian. Trong khi ma của văn học phương Tây thường hóa thân vào
những
cơn vật ghê tởm hoặc mang nguyên một hình nhân quái dị và thường trú
ngụ trong những tòa lâu đài cổ u tịch, những ngôi nhà lâu ngày không
người ở, nhưng khu vườn, cánh rừng hoang dại, hoặc lúc ẩn lúc hiện trên
các đường phố tối tăm, vắng tanh của một thành phố chết, thì ma của
người phương Đông lại có thể hóa thân vào bất cứ một sự vật hoặc
muông thú nào - từ
gốc cây gạo đến một bóng chim bay qua cửa, từ con bướm trắng đến cái
chổi cùn nằm ở một xó nhà bỏ hoang... và thường hay xuất hiện ở đình,
đền miếu mạo hoặc ở ngay tại nơi mà người đã khuất còn mắc ân tình,
duyên nợ... chưa trả với người còn sống.
Giải thích sự khác biệt này không phải là điều khó, bởi đơn giản là vì
triết lý về vạn vật của người phương Tây có nhiều khác biệt với người
phương Đông người phương Tây ưa khoa học và sự rạch ròi, trong khi
người phương Đông thích sống chan hòa với thiên nhiên, xuất phát từ tự
nhiên và trở về với tự nhiên. Các truyện kỳ ảo của phương Đông thường
để lại cho người đọc một cảm giác hư hư thực thực, mờ mờ ảo ảo như ở
trong một thế giới vừa xa lạ lại vừa gần gũi với con người. Ngược lại,
trong văn học kinh dị của phương Tây, người ta dễ dàng phân biệt được
hai mảng màu sáng và tôi, thiện và ác, thực và hư, ân oán và hận thù, sự
sống và cái chết... Chưa hết, các nhân vật ma quái trong văn học phương
Đông không phải lúc nào cũng xấu xa, tội lỗi và nhiều khi còn mang
những nỗi niềm
nhân tình thế thái, những buồn vui u hoài hoặc cũng có thể tận số, mạt
vận như một kẻ đang song.
Có thể nhận ra đặc điểm nổi bật của văn học kỳ ảo phương Tây trong tác
phẩm của các nhà văn như Arthur Machen, Sax Rohmer, Théophile
Gautier, Rachard Mathenson hoặc Guillaume, Maupassant, Balzac,
Tsekhov...
Quay trở lại với Bram Stoker, có thể thấy rõ một điều rằng nhìn chung,
tiểu thuyết của ông cũng không nằm ngoài tư tưởng chủ đạo của văn học
kỳ ảo phương Tây. Đối với bá tước Dracula, ta có thể chia ra làm hai vế
rõ
ràng: một vế giữ nguyên các câu chuyện được lưu truyền trong dân gian
có thật, tức là các tín ngưỡng và các thực tiễn lịch sử, vế còn lại là phần
sáng tạo vì mục đích văn học của tác giả. Bram Stoker biết sử dụng các
chất liệu chuyện kể dân gian phương Tây, các tài liệu và sử ký cổ xưa
để xây dựng một nhân vật lịch sử thành một nhân vật văn học hoang
đường mà vẫn giữ nguyên được màu sắc, tính cách được truyền tụng qua
bao đời về con người đó: thật vẫn thật, hoang đường vẫn hoang đường,
bởi chính người Rumani ngày nay vẫn không thể khẳng định bá tước
Dracula ngày xưa có giao du với ma quỷ, hút máu người hay không? Đối
với người Rumanl, tất cả bây giờ chỉ là một dĩ vãng xa xôi từng nuôi
sống một tm ngưỡng qua
bao đời.
Dĩ vãng ấy nói rằng Dracula là một xác chết rời khỏi mộ vào ban đêm để
kiếm ăn: nguồn sống giúp nó tồn tại chính là sức sống của những người
còn sống, chính nguồn sống ấy đã giúp nó giữ nguyên được thể xác qua
nhiều thế kỷ! Do đã sống một cuộc sống đầy tội ác và đặc biệt là đã phó
thác cuộc sống ấy cho tà đạo và ma thuật nên bá tước Dracula lịch sử đã
phải biến thành quỷ. Sự hoán đổi giữa người chết và người sống trong
các câu chuyện hoang đường phương Tây thường được hỗ trợ bởi các
thông ước của ma quỷ với các thế lực của thần. Tội Lỗi hoặc của một cái
gì đó tương tự nơi địa ngục. Bởi vậy, chỉ cần hút máu người sống là ma
cà rồng không thể chết, và tất cả những người bị ma cà rồng hút máu lại
trở thành ma cà rồng. Trong tiểu thuyết của Bram Stoker, giáo sư Van
Helsing có nói rằng:
“Nosferatu (con ma) không thể chết như loài ong mà ngược lại, mỗi khi
cắn vào con mồi, nó lại tìm được một sức sống mới.” Ma cà rồng không
thể chết định mệnh, mà chỉ có thể chết phi mệnh. Mặc dù luôn được coi
là thần hộ mệnh của các nước Thiên Chúa giáo, nhưng cây thánh giá vẫn
không phải là một vũ khí có hiệu quả chống lại ma quỷ trong các câu
chuyện kinh dị phương Tây. Người ta chỉ có thể giết chết con ma bằng
cách đâm một cây cọc hoặc một vật nhọn khác vào giữa trái tim nó.
Những lớp bụi mờ tứ tán chính là cách thể hiện cái chết của ma cà rồng.
Chúng ta có thể thấy chi tiết này qua hình ảnh của các nhân vật phản
diện trong Bá tước Dracula.
Tuy nhiên, Bram Stoker không chỉ dừng lại ở những đặc điểm mang tính
truyền thống đúc kết từ văn học dân gian Rumani, mà ông còn thêm một
số chi tiết vào tác phẩm của mình cho sinh động hơn. Ví dụ, trong tác
phẩm của ông, không ít lần chúng thấy có sự xuất hiện của loài dơi một
con vật không có trong các câu chuyện của người Rumalli. Việc nhân vật
anh hùng Van Helsing dùng hoa tỏi để xua đuổi tà ma ở phòng bệnh nhân
Lucky cũng là một nét mới, thậm
chí còn trở thành một chủ đề cho điện ảnh rùng rợn khai thác trong suốt
một thời gian dài. Cũng như vậy, chúng ta có thể bắt gặp những chi tiết
như mà cà rồng không có bóng và cũng không hề được phản chiếu trong
gương... Đây là những chi tiết không có trong dân gian và văn học kỳ ảo
phương Tây trước đó; và chúng ta cũng nên biết rằng chỉ sau tiểu thuyết
Bá tước Dracula, các tác phẩm văn học, sân khấu và sau này điện ảnh kỳ
ảo của phương Tây mới có sự đổi mới đáng kể về nội dung và hình thức.
Nếu xét về truyền thống thì kịch bản của tiểu thuyết Bá tước Dracula
cũng giống như phần lớn các chuyện kể dân gian phương Tây: nhân vật
Jonathan rời quê hương đến một địa chỉ xa xôi để rồi phải đương đầu với
vô vàn khó khăn, nguy hiểm trong suốt cuộc hành trình và khi sắp đến
đích, anh khiếp đảm vì một bóng ma bất ngờ xuất hiện ngay trước mặt.
Nhưng anh không biết sẽ phải làm gì, bởi không phải bản năng thích
phiêu lưu mà là công việc kinh doanh bắt buộc anh phải tới
Transylvanie.
Anh không tìm thấy một kho báu hay bất cứ một khám phá nào khác để
có thể làm rạng danh cho đời. Cuộc hành trình kết thúc trong sự sợ hãi,
nỗi thất vọng và cả sự ám ảnh của những hình hài ma quái, mặc dù anh
luôn được cảnh báo trước những sự việc nguy hiểm đang chờ đợi mình.
Con đường dẫn tới Transylvanie - với một đoạn văn tả cảnh dẹp nhất có
thể có trong văn học kỳ ảo của mọi thời đại luôn không thiếu những
điểm gở, chẳng hạn như bóng dáng một nghĩa địa lạnh lẽo hoặc những
tiếng tru thê thảm của loài lang sói trong đêm đen.
Tuy nhiên, đoạn văn tả cảnh bậc thầy này chỉ được đưa vào tác phẩm
vào năm 1914 với tựa đề cách mời của Dracula, các lần trước đó đều
không thấy có. Đoạn văn thực ra là một lời cảnh báo nghiêm túc đối với
Jonathan: nó muốn anh hãy từ bỏ cuộc viễn du, quên đi mục đích của
cuộc hành trình, không được liều lĩnh dấn thân vào nguy hiểm trên
đường tới Valachie.
Trong một đoạn văn khác, chúng ta còn thấy Jonathan thoát khỏi cái chết
trong gang tấc, bởi trong lúc bất cẩn, anh đã vô tình để mình trở thành
một con mồi quyến rũ của ba ả đàn bà tuyệt đẹp nhưng dâm đãng cũng
chính là ba bóng ma cà rồng đáng ngờ được sinh ra nhờ ánh trăng lọt
qua cửa sổ một căn phòng địa phủ... Cảnh này khiến chúng ta có cảm
tưởng rằng Jonathan cũng giống như các tín đồ tôn giáo chờ được thụ
pháp trong các nền văn minh cổ xưa: anh phải chịu một thử thách được
hiện thân trong thân thể một người đàn bà thật quyến rũ, và kết quả anh
có biết chống lại cám dỗ hay không sẽ là điều kiện để anh được bất tử
hay phải chết.
Trong khi đó, bá tước Dracula lại chọn một hành trình ngược lại, nhưng
đó không phải là một con đường cuối cùng để có thể quay trở lại điểm
xuất phát. Lão là kẻ bị trừng phạt bởi những tội ác đã gây ra. Lão hoàn
toàn bị cô lập trước những người đang ra sức chống lại lão, của sự thèm
khát
được an toàn, của chủ nghĩa anh hùng cổ điển phương Tây. Chúng ta
cũng có thể nhận thấy rằng một số nhân vật trong tiểu thuyết của Bram
Stoker không có tính cách thực sự; họ phụ thuộc vào quyền sở hữu của
bá tước mặc dù không hề được một lần trông
thấy lão, chẳng hạn trường hợp của nhân vật Renueld.
Tất cả chỉ tồn tại bởi hắn, qua hắn và người ta chỉ biết tới hắn qua những
thư trao đổi hoặc những dòng nhật ký riêng tư của nhân vật khác. Không
có nhân vật nào trong tác phẩm thể hiện sự kính phục hoặc lòng tôn
trọng đối với siêu nhiên: chỉ sự quái gở của sự việc mới làm nổi bật
từng nhân vật trong kịch bản. Cái đáng sợ ở nhân vật Dracula không chỉ
thể hiện ở chỗ lão có thể sai khiến cả đàn thú hoang dã hoặc làm thay
đổi sự việc theo ý muốn, mà còn ở chỗ lão có thể mò tới thành Luân Đôn
để biến các mạng sống khác thành những thây ma như hắn sau nhiều thế
kỷ chuẩn bị! Sức mạnh của hắn được nhân dần lên và mở rộng dần ra, từ
một điểm rất nhỏ
có thể trải rộng ra toàn thế gian.
Khi Jonathan và những người bạn của anh biết được ngọn nguồn của mối
nguy hiểm để tìm ra một phương án đối phó thì đã quá muộn. Tuy nhiên,
vòng vây của những kẻ không đội trời chung vẫn cứ siết nhỏ dần, nhỏ
dần xung quanh Dracula. Chúng ta có thể cảm nhận được cao trào của
câu chuyện trong một đoạn văn mô tả các nhân vật chính cưỡi ngựa phi
nước đại về phía trung tâm điểm của mọi mối nguy hiểm - nơi đặt quan
tài của thầy ma Dracula, dưới sự bảo vệ của những người Bôhêm trong
khi mối nguy hiểm cứ lớn dần trong một thời gian ngắn ngủi.
Xét trên phương diện kỹ thuật, tác giả đã rất khéo léo trong bút pháp khi
chủ ý để các nhân vật tỏ thái độ không khâm phục bá tước Dracula, bởi
nếu làm ngược lại, cái kỳ ảo trong câu chuyện sẽ bị lộ liễu thô thiển
trước khi phai nhạt dần rồi chìm nghỉm vào cái thần bí mông lung.
Stoker thích một khoảng không gian cách biệt để có thể hạn định cội
nguồn gây nên nỗi kinh ngạc và sự lo sợ, để rồi lại phá tan những cảm
giác mơ hồ này theo cách tất nhất. Ông cũng tỏ ra thật hoàn hảo trong
việc sử dụng nhiều chất liệu tản mạn có trong kho tàng chuyện kỳ ảo
truyền thống của phương Tây để lồng vào lời kể của mình một cách tự
nhiên nhất. Kỹ thuật ấy càng đắt hơn khi ông biết cách tạo nên một
khoảng không khí, không gian có sức thôi thúc gợi cảm theo cấp độ tăng
dần.
Cuộc hành trình đầy gian nguy của Jonathan từ Luân Đôn đến Transylvanie
thực ra chỉ có chung một vai trò gợi mở như chính con người Renueld,
cho dù hắn chưa một lần rời khỏi trại tâm thần. Sừ xuất hiện của người
Bôhêm đầy màu sắc dân gian địa phương ở một số cảnh đẹp như tranh
vẽ đâu cũng chung một tác dụng là mạng lại một hiệu quả văn học như
các cuộc tìm kiếm của giáo sư Van Helsing trong các thư viện ở châu u.
Bá tước Dracula không lập tức đưa người đọc lạc ngay vào một thế giới
kỳ ảo, mà cái bí ẩn chỉ thực sự hé mở khi có sự xuất hiện ngày một rõ
của lực lượng siêu nhiên.
Chi tiết những bóng ma cà rồng bị đâm cọc và biến thành cát bụi chỉ là
một sự hư không hóa những gì được gọi là siêu nhiên; tuy nhiên, độc giả
không vì thế mà thất vọng, bởi việc hành quyết của một thế giới đối với
một thế giới khác cũng chỉ xảy ra khi độc giả bắt đầu khám phá ra thiện
ác. Và sau khám phá này, thế giới xung quanh chúng ta không còn được
đảm bảo nữa; bóng ma đã bị ngắn
chặn ở một nơi xứng đáng với nó, nhưng ai dám đảm bảo rằng ngày mai
sẽ không còn một bóng ma nào chui ra từ một chiếc quan tài khác? Cuối
tiểu thuyết là cảnh Jonathan cùng gia đình trở lại thăm mảnh đất mà ngày
trước anh đã từng bị bá tước Dracula ám. Tất cả dường như đã kết thúc
một cách tất đẹp nhất trên một thế giới tốt đẹp nhất... Song cũng dường
như vẫn còn một cái gì đó không ổn định, một cái gì đó hiển hiện, như
muốn chứng tỏ rằng ma cà rồng vẫn còn tồn tại trên cõi đời này!
Vâng, dường như điều trái khoáy thường hay xuất hiện đúng vào lúc ta
thanh thản nhất hoặc lúc ta ít ngờ tới nhất!
N.T.T
Chương 1
Bistriz, ngày 3 tháng
5:
Tôi rời Munich vào ngày lúc 8:35 ngày 1 tháng 5, và đến Vienna vào một
buổi sáng sớm. Đáng lẽ tôi đã đến nơi vào lúc 6:46, nhưng xe lửa đã đến
trễ một giờ. Với tất cả những gì mà tôi nhìn thấy được qua xe lửa cộng
với quang cảnh trên những con đường mà tôi có dịp ghé qua, Buda Pesh
xem ra
là một thành phố tuyệt vời.
Tôi sợ không dám đi quá xa nhà ga, vì rằng chúng nếu tôi trễ thì xe lửa
sẽ vẩn cứ khởi hành đúng giờ như thường.
Việc di chuyển từ phía Tây sang phía Đông, đi ngang qua cây cầu nằm xa
nhất về miền Tây trong số những cây cầu tráng lệ bắt qua sông Danube,
đã để lại một ấn tượng rõ rệt với tôi. Chuyến đi đang mang tôi đến một
vùng đất đầy quý phái với những phong tục truyền thống của người Thổ
Nhĩ Kỳ.
Chúng tôi đã giã biệt vùng đất này một cách vui vẻ, và khi màn đêm
buông xuống, chúng tôi đến Klausenburgh. Tôi qua đêm tại khách sạn
Hòang Gia. Tôi ăn chiều, đúng hơn là ăn tối, với một món thịt gà nấu
cùng ớt. Nó khá ngon nhưng làm cho tôi khát cháy cổ. (Phải ghi nhớ
công thức của nó cho Mina mới được.) Tôi hỏi người chạy bàn, và anh
ta bảo món ăn này có tên là "paprika hendl", và đó là một món ăn địa
phương. Tôi có thể thưởng thức nó ở bất cứ nơi đâu trên miền
Carpathians này.
May mắn thay, tôi biết một chút tiếng Đức, và điều đó giúp đỡ tôi rất
nhiều, nếu không thì tôi cũng chẳng biết làm cách nào để có được những
thông tin quý giá như vậy.
Để chuẩn bị cho chuyến đi của mình ở Luân Đôn, tôi đã ghé Viện Bảo
Tàng Anh, lục tung các cuốn sách và bản đồ trong thư viện về
Transylvania; đổi lại tôi có được một số hiểu biết quan trọng về cách
thức giao tiếp với những nhà quý tộc của vùng đất này.
Cái vùng đất mà tôi muốn tìm nằm ở rất xa phía Đông của đất nước này,
nằm giữa biên giới ba nước Transylnavia, Moldavia và Bukoniva, nằm ở
giữa dãy Carpathian, nó là một trong những vùng đất hoang dã và ít
được biết đến nhất ở châu u.
Chẳng có một bản đồ nào giúp tôi xác định được vị trí của lâu đài
Dracula cả. Xem ra thì những bản đồ của đất nước này tại đây chẳng thể
nào so sánh được với những bản đồ giao thông hành chánh của chúng ta.
- Xem thêm -