1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi ra đời, báo chí cách mạng nước ta đã có những đóng góp to
lớn và hiệu quả vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập
dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng bảo vệ và phát triển đất nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trong công cuộc đổi mới do Đảng
ta khởi xướng và lãnh đạo, báo chí nước ta đã đóng góp to lớn vào những
thành tựu chung của đất nước, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, trở thành nước đang phát triển với mức thu nhập trung bình (ở mức
thấp); giữ vững ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống
nhân dân, phát triển văn hoá - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh và mở
rộng quan hệ đối ngoại; đưa đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,HĐH) và hội nhập quốc tế.
Trong thời kỳ đổi mới, báo chí nước ta phát triển ngày càng mạnh mẽ
cả về số lượng và chất lượng; chức năng, nhiệm vụ của báo chí ngày càng
được mở rộng và nâng cao; báo chí không chỉ là cơ quan ngôn luận của
Đảng và Nhà nước, mà còn là diễn đàn, là tiếng nói của nhân dân; không
chỉ đưa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với nhân dân, mà
còn phản ánh tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân đến với Đảng
và Nhà nước. So với trước thời kỳ đổi mới, chức năng và nhiệm vụ của
báo chí nước ta đã có sự đổi mới đáng kể. Trước đổi mới báo chí nước ta
chỉ thực hiện chức năng là công cụ, phương tiện tuyên truyền, giáo dục, cổ
động; báo chí tuyên truyền một chiều, đường lối chính sách từ trên đưa
xuống để nhân dân tiếp thu, thực hiện mà không cần và ít có ý kiến góp ý,
phản hồi; nhận thức chung của xã hội cho rằng, báo chí phải phản ánh
đúng quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, những gì
trái với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều không thể chấp
nhận, thậm chí còn bị quy kết về lập trường, quan điểm.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN và hội nhập quốc tế, nhu cầu
về tự do, dân chủ và thông tin trong xã hội ngày càng lớn; các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, những quyết định liên quan đến đời
sống của nhân dân, quyền và nghĩa vụ của công dân, chức năng và nhiệm
vụ các tổ chức trong hệ thống chính trị (HTCT) nước ta, các quan hệ đối
nội và đối ngoại liên quan đến lợi ích quốc gia, dân tộc ngày càng cần
được công khai, minh bạch và có sự tham gia đóng góp ý kiến của nhân
2
dân. Nhu cầu đóng góp ý kiến cho Đảng và Nhà nước ngày càng lớn, làm
xuất hiện nhu cầu chính đáng của nhân dân về phản biện xã hội (PBXH).
Và nhu cầu báo chí phản ánh ý kiến đóng góp cho Đảng và Nhà nước ngày
càng lớn của nhân dân, của xã hội làm xuất hiện chức năng và nhiệm vụ
PBXH của báo chí. Từ đây báo chí nước ta một cách khách quan bắt đầu
có chức năng và nhiệm vụ mới mẻ, khó khăn và phức tạp là PBXH.
Thời gian qua, ở nước ta đã xuất hiện nhiều tổ chức có các chức năng
PBXH, như của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, v.v.. Với PBXH, báo chí
nước ta đã và đang có những đóng góp to lớn trong việc chuyển tải kết lối
góp ý và kiến nghị của nhân dân với Đảng và Nhà nước trong việc khắc
phục những hạn chế, bất cập trong chủ trương, chính sách, pháp luật. Chức
năng, nhiệm vụ PBXH của báo chí ngày càng được xác định và thừa nhận.
Nội dung và hình thức, phương pháp và kỹ năng PBXH của báo chí nước
ta ngày càng được hình thành và phát triển. Tuy nhiên, PBXH của báo chí
còn thấp so với yêu cầu, chưa kịp thời và hiệu quả còn hạn chế.
Thực tiễn công cuộc đổi mới ngày càng định hình và làm rõ những
chức năng của báo chí, trong đó có chức năng PBXH. Đến nay chức năng
này được các cá nhân, tổ chức, cơ quan chức năng thường xuyên đề cập,
sử dụng đến thuật ngữ “chức năng phản biện của báo chí”. Đã có nhiều
cuộc hội thảo, diễn đàn trao đổi về nội dung này và các ý kiến tập trung
cho rằng cần phải có và tăng cường chức năng này trong hoạt động báo
chí. PBXH của báo chí không chỉ còn là vấn đề chính trị, pháp lý mà còn
là vấn đề văn hóa (văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật,
văn hóa đổi mới, v.v..); là vấn đề dám nghĩ và dám làm, dám tranh luận và
phản biện, dám tiếp thu và sửa chữa trước yêu cầu khách quan của thực
tiễn đổi mới đất nước.
Ở nước ta, trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo xã
hội và trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì
PBXH, trong đó có PBXH của báo chí càng trở nên cần thiết. PBXH nói
chung và của báo chí nói riêng giúp cho các cấp ủy Đảng, chính quyền hạn
chế được những bất cập và thậm chí, những thiếu sót, sai lầm trong quá trình
xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội;
ngăn chặn và hạn chế sự độc đoán, chuyên quyền, lộng quyền, nạn quan liêu,
tham nhũng; phát huy quyền làm chủ của nhân dân xây dựng Đảng, chính
quyền trong sạch, vững mạnh.
3
Nghiên cứu chức năng PBXH của báo chí, ở đây, cũng có nghĩa là
nghiên cứu một phương thức kiểm soát quyền lực - quyền lực chính trị
(QLCT), quyền lực nhà nước (QLNN). Với chức năng PBXH, báo chí tạo
diễn đàn dân chủ, rộng rãi để nhân dân tham gia ngày càng đầy đủ vào
công việc chính trị, công việc nhà nước; vào việc kiểm soát quyền lực
công; khắc phục các nguy cơ mất dân chủ, lạm quyền dẫn đến suy thoái
quyền lực, đe dọa đến sự tồn vong quốc gia dân tộc.
Nghiên cứu chức năng PBXH của báo chí chính là giải quyết những cơ
sở lý luận và thực tiễn. Những vấn đề về quan niệm, khái niệm, bản chất của
PBXH của báo chí, báo chí trong HTCT nước ta, những tiêu chí trong hoạt
động phản biện. Thực tiễn hiện nay nhiều chính sách, pháp luật còn gặp
nhiều khó khăn, từ dự thảo, đến ban hành và thực thi trong cuộc sống, do đó
là đòi hỏi khách quan, cấp thiết hiện nay phải có phản biện của báo chí. Nhân
dân luôn quan tâm, mong chờ và cùng với báo chí nhằm thể hiện tiếng nói,
quan điểm của mình trước chính sách của cơ quan công quyền, liên quan đến
lợi ích của nhân dân. Bản thân cơ quan công quyền - chủ thể tiếp nhận phản
biện cũng mong muốn được phản biện để làm cho chính sách, pháp luật đúng
đắn hơn giúp hiệu lực quản lý, chỉ đạo của nhà nước có hiệu quả.
Tình hình trên, làm cho việc nghiên cứu vấn đề “Chức năng phản
biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay”, với tính cách một luận án
tiến sĩ chính trị học, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận về chức năng PBXH của báo chí, luận án làm rõ
thực trạng về thành tựu, hạn chế và vấn đề đặt ra, của việc thực hiện chức
năng PBXH của báo chí ở Việt Nam hiện nay, nêu ra những quan điểm và
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng
PBXH của báo chí ở Việt Nam hiện nay và những năm tới.
2.2. Nhiệm vụ
Một là, tổng quan tính hình nghiên cứu có liên quan đế đề tài để làm
rõ những vấn đề đã được nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước,
làm tiền đề cho việc nghiên cứu tiếp theo của luận án này. Hai là, làm rõ
những vấn đề lý luận; khái niệm và chức năng của báo chí, của PBXH và
PBXH của báo chí. Ba là, làm rõ thực trạng theo những tiêu chí xác định,
thực hiện chức năng PBXH của báo chí ở Việt Nam. Bốn là, nêu ra những
quan điểm và giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng PBXH của
báo chí ở Việt Nam hiện nay và những năm tới.
4
Bốn nhiệm vụ này sẽ được thực hiện tương ứng với 4 chương của
luận án.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề chức năng PBXH của
báo chí ở Việt Nam hiện nay.
3.1. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là việc xác định và thực hiện chức
năng PBXH của báo chí trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay, từ
góc độ của Chính trị học - môn khoa học về quyền lực - QLCT và QLNN.
Là công trình đầu tiên nghiên cứu về chức năng và thực hiện chức năng
của báo chí ở Việt Nam, nên luận án tập trung hơn vào những vấn đề có
tính khái quát - khái quát lý luận và thực tiễn, những chứng minh mới
được khai thác ở mức độ cần thiết.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
báo chí và chức năng, nhiệm vụ (trong đó có chức năng, nhiệm vụ PBXH)
của báo chí cách mạng, về quyền lực và thực thi QLCT, QLNN và những
vấn đề có liên quan.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: kết hợp lịch sử
và lô gích, phân tích và tổng hợp, so sánh, tổng kết thực tiễn, v.v..
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Những đóng góp mới về khoa học của luận án là: Từ góc độ của
chính trị học PBXH của báo chí được xem xét với tính cách một phương
thức thực thi (nhất là phương thức kiểm tra, kiểm soát) QLCT, QLNN,
luận án đã làm rõ những vấn đề sau đây: i) khái niệm và bản chất của
PBXH của báo chí; ii) những căn cứ khoa học của PBXH của báo chí và
chức năng PBXH của báo chí ở Việt Nam hiện nay; iii) những tiêu chí
đánh giá chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng PBXH của báo chí ở
Việt Nam hiện nay; iv) thực trạng (những yếu tố tác động, thành tựu, hạn
chế và vấn đề đặt ra) của việc xác định và thực hiện chức năng PBXH của
báo chí ở Việt Nam hiện nay; v) những quan điểm và giải pháp nhằm nâng
5
cao chất lượng và hiệu quả thực hiện chức năng PBXH của báo chí ở Việt
Nam hiện nay và những năm tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án làm sáng tỏ khái niệm và những cơ sở khoa học về tính tất
yếu và cơ chế thực hiện chức năng PBXH của báo chí ở Việt nam. Kết quả
của luận án có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ nghiên cứu và giảng dạy
Chính trị học, Báo chí học và những bộ môn khoa học có liên quan.
6.2. Ý nghĩa thực thực tiễn
Luận án góp phần vào việc xây dựng và thực hiện chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Thông qua việc thực hiện chức năng PBXH
của báo chí, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được phát huy,
QLCT, QLNN của nhân dân ngày càng được kiểm tra, kiểm soát thực chất
hơn. Luận án góp phần cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc
xây dựng và hoàn thiện chủ trương, chính sách và pháp luật về chức năng
PBXH của báo chí.
7. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án gồm 4 chương, 11 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến chức năng
phản biện xã hội của báo chí
Những công trình trên đây đều thể hiện quan điểm, phản biện xã
hội là yêu cầu khách quan của bất kỳ hệ thống QLNN nhà nước nào; nếu
quyền lực không được kiểm soát thì dẫn đến lạm quyền, quyền lực sẽ bị
tha hóa. Tuy nhiên, vấn đề PBXH, chức năng PBXH của báo chí chưa
được các nhà tư tưởng nêu lên trên cả hai phương diện: một là, đặt vấn
đề nghiên cứu khoa học về phản biện; hai là, các hoạt động thực tiễn của
phản biện nói chung và chức năng PBXH của báo chí nói riêng. Do vậy,
đây còn là một trong những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung làm
sáng tỏ.
6
Với cách tiếp cận khác nhau về chức năng phản biện xã hội của báo
chí, ở nước ngoài nhiều tác giả đã đề cao vai trò của báo chí, coi báo chí là
quyền lực thứ tư trong các quyền lập pháp, tư pháp và hành pháp, đề cao
tự do báo chí trong sự phát triển của xã hội. Nhưng thực chất, báo chí
không phải là tất cả, mà báo chí luôn bị chi phối, kiểm soát bởi chính phủ,
nhà nước, chính điều này đã làm hạn chế chức năng phản biện của báo chí.
Những cơ sở chính trị, pháp luật và xã hội đã tạo điều kiện cho báo chí
thực hiện phản biện chính sách một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, chính
phủ, nhà nước cũng lắng nghe, tiếp thu những ý kiến phản biện của báo chí
để điều chỉnh chính sách, pháp luật cho phù hợp với thực tiễn lợi ích của
các giai cấp trong xã hội.
Khái niệm PBXH của báo chí được các nhà nghiên cứu, các nhà báo
đưa ra với các lý thuyết khác nhau không đề cập trực tiếp vào chức năng
PBXH của báo chí, mà ở đó mỗi quan điểm có cách tiếp cận và lý giải
khác nhau dựa trên các quan niệm khác nhau về dân chủ và tự do báo chí
trong đời sống xã hội nói chung và PBXH của báo chí nói riêng. Thực tế
cho thấy một vấn đề có tính quy luật là, báo chí phát triển nhờ tích cực
tham gia vào quá trình PBXH, nhất là phản biện đường lối và chính sách
quốc gia.
Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về PBXH của báo chí với
những tiếp cận khác nhau, nhưng vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu
chuyên biệt về chức năng PBXH của báo chí dưới góc độ Chính trị học.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến chức năng
phản biện xã hội của báo chí
Thứ nhất, nghiên cứu liên quan đến phản biện xã hội
Báo chí nước ta là một bộ phận trong HTCT, một tổ chức thành
viên trong tổ chức MTTQ, do đó báo chí cũng thực hiện chức năng
PBXH. Tuy nhiên, sự quy định đối với báo chí có chức năng phản biện
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chưa cụ thể
và rõ ràng; có chăng chỉ là sự vận dụng, liên hệ cho hoạt động PBXH
của báo chí, cho nên trong quá trình PBXH báo chí hiện còn gặp rất
nhiều khó khăn. Nhận thức và thực tiễn PBXH của MTTQ và các đoàn
thể chính trị - xã hội là những cơ sở lý luận và thực tiễn cần thiết, có thể
tham khảo cho việc, nghiên cứu về chức năng PBXH của báo chí ở nước
ta hiện nay.
7
Thứ hai, nghiên cứu liên quan đến phản biện xã hội của báo chí
Có thể thấy trong lĩnh vực khoa học về báo chí đã có nhiều công
trình nghiên cứu về vai trò, chức năng của báo chí trên các lĩnh vực kinh
tế, thông tin giải trí, tư tưởng, giám sát xã hội, khai sáng, giải trí, v.v.. Tuy
nhiên, ở đó chỉ tập trung nghiên cứu chuyên ngành, hướng tiếp cận chỉ là
giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội, văn hoá, lối sống, v.v.. Cũng có
một số bài viết, bài giảng có đề cập đến PBXH của báo chí, song phần
nhiều được thể hiện dưới dạng nêu vấn đề chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu
cụ thể, một cách có hệ thống. Vị trí, vai trò phản biện của báo chí trong
đời sống xã hội, trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên với những khảo sát như trên, có thể thấy rằng, vấn đề PBXH
của báo chí ở nước ta chưa được quan tâm đúng mức; việc nghiên cứu
nó là quá hạn chế, nếu không nói là trống vắng. Do vậy, cần phải có
những công trình nghiên cứu sâu về vấn đề này để góp phần phát triển báo
chí Việt Nam.
Thứ ba, nghiên cứu liên quan đến chức năng phản biện xã hội của
báo chí
Các công trình nghiên cứu trên khi bàn đến PBXH của báo chí mới
chỉ tập trung đến khía cạnh góp ý kiến, phản ánh những vấn đề do cuộc
sống đặt ra có liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Có những nghiên cứu, đưa ra được một số vấn đề liên quan đến
PBXH của báo chí, song chưa phân tích sâu sắc và làm nổi bật cơ sở
chính trị và pháp lý, cũng như lý luận và thực tiễn của PBXH của báo
chí do chưa đưa ra được chức năng PBXH của báo chí, những nội dung
về PBXH của báo chí, về lý luận và thực tiễn PBXH của báo chí ở nước
ta hiện nay.
1.3. Đánh giá chung tình hình nghiên cứu về chức năng phản
biện xã hội của báo chí và những vấn đề đặt ra cho luận án
Thứ nhất, các công trình trên đây đã đạt được một số kết quả khi
nghiên cứu về PBXH và PBXH của báo chí:
Ở các nước, những công trình nghiên cứu trên cho thấy, báo chí có
tính độc lập tương đối, có khả năng và chức năng PBXH - phản biện chính
sách của nhà cầm quyền như một thực tế khách quan. Vai trò kiểm soát và
thực thi QLCT, QLNN của báo chí ngày càng được tôn trọng và sử dụng
có hiệu quả. Báo chí dù ở đâu đều là công cụ của giai cấp thống trị, chịu sự
kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp của chính quyền, phục vụ lợi ích của giai
8
cấp thống trị. Tự do báo chí, báo chí nhà nước hay báo chí tư nhân đều
phải tuân thủ pháp luật.
Ở Việt Nam, một số công trình nghiên cứu về PBXH và PBXH của
báo chí từ ở một ngành, một lĩnh vực nhất định với những cách tiếp cận
khác nhau đã bắt đầu xuất hiện. Nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội được
báo chí phản biện một cách tích cực, hiệu ứng xã hội nhanh và mạnh mẽ
hơn và các nhà lãnh đạo đã chú ý lắng nghe hơn.
Thứ hai, các công trình trên đây chưa làm rõ vấn đề PBXH của báo
chí với tính cách là một chức năng của báo chí nói chung và ở Việt Nam
nói riêng:
Các công trình nghiên cứu nêu trên về báo chí ở nước ta chủ yếu phản
ánh tình hình hoạt động của báo chí; khẳng định sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước đối với báo chí; khẳng định là tiếng nói, là diễn
đàn của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Những công trình nghiên cứu về
PBXH mới tập trung vào PBXH của MTTQ Việt Nam và các thành viên
của Mặt trận. Quan niệm về chức năng PBXH của báo chí, PBXH của
bản thân báo chí hay PBXH thông qua báo chí, những yêu cầu và nội
dung thực hiện chức năng PBXH, v.v. của báo chí còn rất khác nhau.
Chưa có công trình nào đánh giá được thực trạng và đề xuất được quan
điểm, giải pháp cho việc thực hiện chức năng PBXH của báo chí nước ta
hiện nay.
Chương 2
LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG PHẢN BIỆN XÃ HỘI
CỦA BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM
2.1. PHẢN BIỆN XÃ HỘI VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ
2.1.1. Phản biện và phản biện xã hội
- Phản biện
Theo đó, phản biện là một hoạt động khoa học, là quá trình diễn ra
các hoạt động được đảm bảo bởi những nguyên tắc chặt chẽ, gồm các khâu
đánh giá, phân tích, lập luận, thẩm định chất lượng, nhằm chứng minh,
khẳng định hoặc bổ sung, bác bỏ một phần hay toàn bộ công trình nghiên
cứu của cá nhân hoặc một nhóm người. Phản biện là sự tranh luận, đưa ra
lập luận khác nhau để làm rõ đúng - sai một vấn đề nhất định. Phản biện
hoàn toàn không đồng nghĩa với phản bác, lại càng trái ngược với bài bác,
v.v.. Các quan niệm trên chỉ trong phạm vi hẹp, trên một mặt của đời sống
9
xã hội. Phản biện có những cấp độ, phương diện khác nhau, mà đỉnh cao là
phản biện lý luận, phản biện khoa học
- Phản biện xã hội
PBXH một hiện tượng chính trị - xã hội mới, một hoạt động mang
tính khoa học. Hơn nữa, PBXH là một khái niệm chính trị, biểu hiện đặc
trưng, chuyên nghiệp nhất của đời sống chính trị và xã hội dân chủ.
PBXH là sự phản biện nói chung, nhưng có quy mô và lực lượng
rộng rãi hơn của xã hội, của nhân dân và các nhà khoa học về nội dung,
phương hướng, chủ trương, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã
hội, khoa học - công nghệ, giáo dục y tế, môi trường, trật tự an ninh toàn
xã hội của Đảng, Nhà nước và các tổ chức liên quan. PBXH là phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc
tham gia quản lý nhà nước, v.v.. Nhân dân không chỉ có quyền mà còn có
trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước. PBXH là nhu cầu cần thiết và đòi
hỏi bắt buộc của quá trình lãnh đạo và điều hành đất nước, khắc phục tệ
quan liêu.
2.1.2. Phản biện xã hội của báo chí
2.1.2.1. Báo chí
a) Sự hình thành của báo chí
Lịch sử văn hóa của nhân loại cho thấy, báo chí ra đời từ những
thông tin, thông báo của chính quyền qua tiếng mõ làng hay các yết thị dán
ở nơi công cộng đã xuất hiện tờ Acta Diuna của người La Mã cổ xưa. Báo
in ở phương Tây ra đời, gắn liền với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản
(CNTB), nhằm phổ biến tư tưởng dân chủ tư sản, chống lại sự thống trị hà
khắc của chế độ phong kiến, thúc đẩy phát triển khoa học - kỹ thuật, xây
dựng xã hội dân chủ, xã hội công dân. Năm 1836, tờ báo chính trị - văn
học La Presse của Pháp ra đời, mở đầu kỷ nguyên của báo ngày. Sự xuất
hiện báo Sông Ranh mới (1848 - 1849), do C.Mác sáng lập và Ph.Ăngghen
cộng tác, đã khai sinh ra nền báo chí cách mạng của giai cấp vô sản, tập
hợp và cổ vũ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên toàn thế giới chống CNTB, vì CNXH và chủ nghĩa cộng sản.
Ở Việt Nam, báo chí xuất hiện hình thức sơ khai, như các “mõ làng”
hay yết thị của các triều đại phong kiến vào các ngày mồng một, ngày rằm
tại các “Quảng Vân Đình”, v.v. (báo chí trong quan niệm dân gian), song
mãi đến thế kỷ thứ XIX, khi chữ quốc ngữ ra đời thì báo chí mới chính
thức xuất hiện. Những năm 20 thế kỷ XX, báo chí ở Việt Nam đã có sự
10
phát triển triển về số lượng và chất lượng, với hơn 70 tờ báo, tạp chí xuất
bản bằng chữ quốc ngữ, chữ Pháp và chữ Hán. Từ những năm 20 của thế
kỷ XX, nền báo chí cách mạng Việt Nam hình thành, với vai trò to lớn của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sau đó là Đảng Cộng sản Việt Nam.
b) Quan niệm về báo chí
Nghiên cứu các quan niệm báo chí cho thấy, quá trình hình thành và
phát triển của báo chí hiện đại không tách rời sự tác động ảnh hưởng của
tư tưởng chính trị và chế độ chính trị xã hội. Sự phát triển của báo chí hiện
đại phụ thuộc vào thái độ, quan điểm và yêu cầu của giai cấp cầm quyền,
chế độ chính trị xã hội. Bất cứ một lực lượng chính trị nào nắm chính
quyền đều phải quan tâm đến việc sử dụng báo chí. Báo chí chịu sự chi
phối bởi giai cấp, do đó xuất hiện các quan niệm khác nhau về báo chí.
Giai cấp tư sản và giai cấp vô sản quan niệm về báo chí không giống nhau,
nếu có giống thì ở chỗ cả hai đều dùng nó để giành, giữ QLCT và kinh tế.
c) Khái niệm báo chí
Từ các nghiên cứu trên tiếp cận từ chính trị học, tác giả cho rằng:
Báo chí ở Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với
đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, tổ chức xã
hội; là diễn đàn của nhân dân; tuyên truyền đường lối của Đảng, chính
sách, luật pháp của Nhà nước đến với nhân dân; nơi nhân dân và các tổ
chức của mình trao đổi bày tỏ các nhu cầu, lợi ích và nguyện vọng chính
đáng, thực hiện quyền làm chủ (trong đó có quyền kiểm tra, phản biện,
giám sát và kiểm soát) của nhân dân.
2.1.2.2. Phản biện xã hội của báo chí
- Khái niệm PBXH của báo chí:
PBXH của báo chí là hoạt động thông tin - giao tiếp, phản ánh chính
kiến của xã hội đối với các chủ trương, chính sách, pháp luật do hệ thống
lãnh đạo, quản lý đề ra, thể hiện qua những nhận xét, đánh giá, phân tích
có căn cứ và có sức thuyết phục, được thực hiện qua báo chí; có chức
năng chuyển tải nhu cầu, nguyện vọng của xã hội đến hệ thống lãnh đạo
và quản lý; có tác dụng thúc đẩy nền dân chủ xã hội và củng cố, xây dựng
thể chế xã hội.
- Chủ thể PBXH của báo chí được thể hiện như sau:
PBXH của nhà báo và tòa soạn báo: Khi nói phản biện xã hội của
báo chí Việt Nam, có nghĩa là nói đến quan điểm, chính kiến của Tòa soạn
11
báo và nhà báo thông qua tác phẩm báo chí của mình mà thực hiện PBXH,
trước một vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, luật pháp nào đó đang diễn ra
trong đời sống xã hội ở nước ta. Như vậy, chủ thể của sự phản biện ở đây
thuộc về các cơ quan báo chí và nhà báo, với tính cách là một bộ phận của
HTCT trong hệ thống quyền lực ở Việt Nam.
PBXH của báo chí qua tổ chức xã hội và cá nhân: PBXH của báo chí
bằng việc tổ chức huy động các chuyên gia, nhà khoa học, độc giả, v.v.
thông qua báo chí làm công cụ, phương tiện để thể hiện quan điểm, chính
kiến và ý kiến của mình đối với các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội và luật
pháp của xã hội, đặc biệt là trước những dự thảo chính sách và thực thi
chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Đối tượng PBXH của báo chí: Là đường lối, chủ trương, chính
sách, của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hệ thống pháp luật gồm các luật
và các văn bản dưới luật có phạm vi tác động, điều chỉnh khác nhau trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, v.v..
- Chủ thể tiếp nhận PBXH của báo chí: Là Đảng và Nhà nước, bằng
tổ chức bộ máy và cán bộ của mình tiếp nhận các PBXH của báo chí.
- Nội dung phản biện xã hội của báo chí
Thứ nhất, PBXH của báo chí trong quá trình soạn thảo ban hành
chính sách, pháp luật: Ở giai đoạn này, phản biện đối cơ sở lý luận và thực
tiễn, tính cấp thiết của chính sách, pháp luật; cách thức quy trình thực hiện;
xác định nội dung chính sách, pháp luật là trọng tâm của phản biện. Phản
biện của báo chí tham gia vào tất cả quá trình đó và có sự chuẩn bị tốt về
tài liệu, chứng cứ khoa học, con người, tổ chức phát huy sức mạnh báo chí
đưa ra những lập luận, chứng cứ để khẳng định hay bác bỏ, đồng tình hay
không đồng tình.
Từ những yêu cầu cao của chính sách, pháp luật đòi hỏi phản biện
của báo chí cần có bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn và sự am hiểu
sâu về những vấn đề trong nội dung chính sách, pháp luật; nắm vững cơ sở
khoa học và thực tiễn của vấn đề để đưa ra những luận chứng, luận cứ có
thể thuyết phục được cơ quan soạn thảo và ban hành chính sách, pháp luật.
Đồng thời phải có đạo đức nghề nghiệp, có tâm trong sáng của nhà báo
trong hoạt động phản biện, đặt lợi ích của nhân dân, đất nước trên lợi ích
cá nhân.
Thứ hai, PBXH của báo chí trong quá trình thực thi chính sách, pháp
luật. Báo chí chí tham gia phản biện ở quá trình, kết thúc quá trình dự thảo,
chính sách, pháp luật được ban hành có hiệu lực và được thực thi trong đời
12
sống xã hội. Đây là quá trình tác động ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích,
quyền lợi của các thành phần trong xã hội. Sự tác động trực tiếp thường
xuyên của chính sách, pháp luật vào đời sống dần bộc lộ những ưu điểm khuyết điểm, hạn chế bất cập; mặt tốt - mặt chưa tốt, phù hợp - chưa phù
hợp, thậm chí bộc lộ cả những thiếu sót sai lầm của chính sách, pháp luật,
đây là vấn đề mà cơ quan soạn thảo và ban hành chính sách, pháp luật khó
có thể lường trước được. Phản biện của báo chí chính là đưa ra những bình
luận, phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những ưu điểm và những thiếu sót,
hạn chế sai lầm.
Thứ ba, PBXH của báo chí đối với tổ chức bộ máy và công tác cán
bộ và cán bộ trong bộ máy nhà nước. Tổ chức bộ máy nhà nước và cán bộ
là sự vận hành nhà nước nhằm thực thi, QLCT, QLNN; quyền lực này là
do nhân dân ủy quyền cán bộ là người thực thi, do đó quyền lực cần phải
có sự kiểm soát. Sự thiếu vắng các cơ chế kiểm soát, phản hồi và điều
chỉnh trong thực thi quyền lực luôn tạo ra những cơ hội cho người cầm
quyền quan liêu, tham nhũng, làm suy thoái quyền lực. Trong bộ máy
QLNN cán bộ là người được nhà nước giao cho nhiệm vụ xây dựng và ban
hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật.
Nhà nước ta là cơ quan quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân
ban hành Hiến pháp pháp, pháp luật, nhưng bản thân Nhà nước lại phải
được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Do vậy,
phải có PBXH của báo chí.
Công tác cán bộ bao gồm xây dựng luật, văn bản dưới luật; các qui
định, qui chế, tiêu chí cán bộ, v.v. tuyển dụng cán bộ, qui hoạch nguồn cán
bộ, đào tạo bồi dưỡng, đánh giá, bố trí, đề bạt, luân chuyển, sử dụng, khen
thưởng, kỷ luật và chính sách đãi ngộ đối với cán bộ. Đây là mối quan tâm
chung của xã hội và là nội dung rất quan trọng trong việc kiểm soát quyền
lực, làm tốt PBXH của báo chí sẽ góp phần khắc phục những lúng túng
trong kiểm soát quyền lực - từ chất vấn đến điều trần, giải trình, từ tín
nhiệm đến miễn nhiệm và bãi nhiệm những chức danh trong Đảng, Nhà
nước và tổ chức chính trị - xã hội khi cần thiết.
Quá trình thực hiện nội dung chức năng PBXH của báo chí cho thấy
nó có mức độ khác nhau: mức thấp, mức trung bình, mức cao.
2.2. Chức năng phản biện của báo chí và các tiêu chí đánh giá
việc thực hiện chức năng phản biện của báo chí
2.2.1. Chức năng của báo chí và chức năng phản biện xã hội của
báo chí
13
2.2.1.1. Chức năng của báo chí
Chức năng của báo chí là sứ mệnh và bổn phận hay nghĩa vụ và
trách nhiệm vốn có của báo chí, là cái mà báo chí sinh ra để làm, thông
qua đó hiểu được vị trí, vai trò và tác dụng của báo chí trong đời sống xã
hội. Tổng hợp vai trò, vị trí và tác dụng của báo chí cũng chính là chức
năng của báo chí.
Chức năng của báo chí tồn tại một cách khách quan trên cơ sở
những qui luật nội tại của báo chí. PBXH của báo chí là một trong những
chức năng có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong sự tồn tại của báo chí đối
với xã hội, đặc biệt là đối với nước ta, trong điều kiện thể chế nhất nguyên
chính trị và duy nhất một đảng lãnh đạo, cầm quyền. Hơn nữa, vấn đề đặt
ra ở đây là báo chí có chức năng, trách nhiệm, nghĩa vụ hay vai trò tác
dụng như thế nào đối với việc thực thi (trong đó có kiểm soát) QLCT,
QLNN của nhân dân ở nước ta. Nhận thức các chức năng này và thực hiện
nó như thế nào, để khai thác và phát huy có hiệu quả sức mạnh của báo chí
cho sự nghiệp đổi mới phát triển đất nước.
Trên cơ sở đó chúng ta có thể khái quát một số chức năng cơ bản
của báo chí, trong đó có báo chí ở Việt Nam hiện nay như sau: chức năng
thông tin; chức năng tư tưởng giáo dục; chức năng quản lý, giám sát xã
hội; chức năng kinh tế - dịch vụ, chức năng phát triển văn hoá, giải trí;
chức năng phản biện xã hội; Với tính cách là nội dung chủ yếu của luận
án, vấn đề chức năng PBXH sẽ được trình bày riêng, cụ thể sau đây.
2.2.1.1. Chức năng phản biện xã hội của báo chí
a) Khái niệm chức năng phản biện xã hội của báo chí
PBXH xã hội của báo chí là việc nêu ra ý kiến, bình luận hay tranh
luận của xã hội, của cơ quan báo chí hoặc nhà báo, thể hiện sự đồng tình,
không đồng tình hoặc bác bỏ một vấn đề còn chưa rõ ràng, chưa đúng đắn,
chưa tạo được sự đồng thuận xã hội trong chủ trương, đường lối của đảng
(nhất là đảng cầm quyền), chính sách, pháp luật của nhà nước nhằm góp
phần xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật
ấy đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Theo đó, chức năng PBXH xã hội của báo chí là một chức năng của
báo chí1, thể hiện sứ mệnh và bổn phận hay nghĩa vụ và trách nhiệm vốn
có của báo chí trong việc nêu ra ý kiến, bình luận hay tranh luận của xã
Chức năng của báo chí, như đã nêu ở phần trên, là sứ mệnh và bổn phận hay nghĩa vụ và trách nhiệm vốn có của báo
chí, là cái báo chí sinh ra để làm, thông qua đó hiểu được vị trí, vai trò, tác dụng của báo chí trong đời sống xã hội.
Tổng hợp vai trò, vị trí và tác dụng của báo chí cũng chính là chức năng của báo chí.
1
14
hội, của cơ quan báo chí hoặc nhà báo, thể hiện sự đồng tình, không đồng
tình hoặc bác bỏ một vấn đề còn chưa rõ ràng, chưa đúng đắn, chưa tạo
được sự đồng thuận xã hội trong đường lối của đảng (nhất là đảng cầm
quyền), chính sách, pháp luật của nhà nước nhằm góp phần xây dựng và
hoàn thiện đường lối, chính sách, pháp luật ấy đáp ứng yêu cầu của xã
hội.(Quá trình thực thi kiểm soát QLCT,QLNN).
Từ góc độ chính trị học cho thấy, nếu báo chí - nhất là trong điều
kiện ở nước ta hiện nay - là một bộ phận, một yếu tố cấu thành của HTCT
- hệ thống tổ chức và thực thi QLCT, QLNN, thì chức năng của báo chí
nói chung và chức năng PBXH của báo chí nói riêng cũng là chức năng
của HTCT. Đồng thời, việc thực hiện chức năng PBXH của báo chí cũng
chính là một phương thức thực thi QLCT, QLNN. Ở nước ta, báo chí là
tiếng nói, là diễn đàn, là công cụ - phương tiện lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước, phương tiện làm chủ của nhân dân, nên báo chí là phương
thức thực thi QLCT, QLNN của Đảng, Nhà nước và suy cho cùng là quyền
lực của nhân dân. Với chức năng PBXH báo chí còn tham gia sâu vào các
quá trình chính trị, quá trình ra đời chính sách và thực hiện chính sách.
Hơn nữa, với chức năng PBXH báo chí còn tham gia vào quá trình kiểm
soát quyền lực. Kiểm soát quyền lực của báo chí ở đây có thể hiểu với cả 2
nghĩa - vừa kiểm soát quyền lực từ bên trong HTCT (vì báo chí nước ta là
một bộ phận của HTCT, các cơ quan báo chí đều của Đảng, Nhà nước và
các tổ chức chính trị - xã hội); vừa kiểm soát quyền lực từ bên ngoài thông
qua việc phản ánh dư luận hay sức ép từ ngoài xã hội đối với HTCT, trong
đó có Đảng và Nhà nước.
Thực tiễn công cuộc đổi mới nói chung và đổi mới báo chí nói riêng
đã làm xuất hiện chức năng PBXH của báo chí. Chức năng PBXH của báo
chí là sự tồn tại khách quan, là yêu cầu tất yếu của một xã hội hiện đại là
cần phải có phản biện. QLCT, QLNN, nhất là trong điều kiện xã hội hiện
đại, không thể không cần đến báo chí như là một thực thể, một phương
thức, một phương tiện trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực.
PBXH của báo chí trở thành một mắt khâu của quá trình, quy trình ra quyết
định, ra quyết sách của các cơ quan quyền lực như đảng chính trị (nhất là
đảng cầm quyền) và nhà nước.
b) Đặc điểm của chức năng phản biện xã hội của báo chí
- Tính chính trị trong chức năng phản biện xã hội của báo chí:
Tiếp cận từ PBXH đến PBXH của báo chí đến chức năng PBXH cho
thấy, hoạt động báo chí nói chung và PBXH của báo chí là hoạt động
15
chính trị, báo chí luôn mang bản chất giai cấp sâu sắc, “nền chính trị nào
thì sinh ra nền báo chí ấy”. Giai cấp nào cầm quyền lãnh đạo nhà nước, xã
hội cũng luôn áp đặt và chi phối hệ tư tưởng, quan điểm của giai cấp mình
lên báo chí. Sự tự do của báo chí, tùy thuộc vào sự tự do tuyên truyền
nhiều hay ít hệ tư tưởng, quan điểm của giai cấp cầm quyền. Sự kiểm
duyệt và kiểm soát báo chí là điều tất nhiên của nhà nước và giai cấp cầm
quyền. Sự phát triển của báo chí tùy thuộc vào bản chất tiến bộ hay phản
động của giai cấp cầm quyền.
Hơn nữa, nghiên cứu chức năng PBXH của báo chí từ góc độ chính
trị học, thấy rằng, nếu báo chí là một thứ quyền lực trong xã hội thì PBXH
là một phương thức thể hiện quyền lực của báo chí, là một chức năng của
báo chí - cái quy định của bản chất của báo chí. QLCT và QLNN, nhất là
trong điều kiện xã hội hiện đại, không thể không cần đến báo chí như là
một thực thể, một phương thức, một phương tiện trong quá trình tổ chức
và thực thi quyền lực. Bởi quyền lực là phạm trù xã hội - lịch sử, phản ánh
mối quan hệ chi phối - phục tùng giữa con người với con người trong xã
hội. Ở đó, quyền và lực trong xã hội là 2 phạm trù có mối quan hệ tác động
qua lại với nhau. Trong xã hội QLCT là quyền quyết định, định đoạt
những vấn đề, công việc quan trọng về chính trị, tổ chức và hoạt động để
đảm bảo sức mạnh thực hiện quyền lực ấy của một giai cấp một chính
đảng, tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền lãnh đạo; định đoạt
điều khiển bộ máy nhà nước,v.v..
Ở nước ta hiện nay, báo chí dưới sự lãnh đạo của Đảng, mang bản
chất giai cấp công nhân của Đảng, là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà
nước, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật Việt Nam; đồng thời là
tiếng nói, là diễn đàn của nhân dân. Báo chí có chức năng, nhiệm vụ tuyên
truyền đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với
nhân dân, đồng thời có nhiệm vụ phản ánh ý kiến nguyện vọng của nhân
dân đến với Đảng và Nhà nước. Đây chính là sự thể hiện cơ sở chính trị,
pháp lý quan trọng trong việc qui định chức năng PBXH của báo chí.
- Tính khách quan, khoa học của chức năng phản biện xã hội của báo chí:
Trong thực tiễn mỗi một chủ trương, chính sách ra đời đều chứa
đựng tồn tại, hạn chế nhất định không tránh khỏi do nhiều nguyên nhân
khác nhau, đây là vấn đề khách quan, không ai mong muốn. Cho nên để
đảm bảo tính khách quan, khoa học, công khai, minh bạch và công bằng
cần có chức năng PBXH của báo chí. PBXH của báo chí chính là thực hiện
chức năng PBXH của báo chí thực chất là đưa ra một cách nhìn khách
16
quan của nhân dân và xã hội với chất lượng, hiệu quả và triển vọng của
chính sách vừa được ban hành - một cách nhìn mang tính khách quan so
với cách nhìn chủ quan của người trong cuộc.
Trong ý nghĩa tích cực của nó, chức năng PBXH của báo chí giúp cơ
quan xây dựng chính sách, pháp luật nhận ra những, tồn tại khiếm khuyết
hay lỗ hổng của bản thân chính sách, kể cả việc đề xuất phương hướng hay
giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, thiếu sót ấy. Rõ ràng, việc bổ
sung cách nhìn khách quan, khoa học và có thể đưa đến một tác động kép,
một mặt, nó trực tiếp nâng cao tính hiệu quả của quá trình xây dựng chính
sách, pháp luật; mặt khác, từng bước thay đổi tư duy xây dựng chính sách,
pháp luật, kể cả tư duy quản lý lãnh đạo, quản lý theo hướng bám sát thực
tiễn hơn.
Tính khách quan, khoa học của chức năng PBXH của báo chí còn thể
hiện: Qua phản biện của báo chí tiếng nói của nhân dân và xã hội nếu được
chủ thể tiếp nhận phản biện lắng nghe, tiếp thu có sửa chữa sẽ tạo một
vòng phản hồi rất hiệu quả, đó là; chất lượng chính sách, pháp luật được
nâng cao, nhân dân tích cực tham gia vào công việc nhà nước, uy tín của
nhà lãnh đạo, quản lý được nâng cao và quá trình này làm cho các chính
sách, pháp luật tiếp theo có chất lượng và hiệu quả hơn. Còn ở chiều
ngược lại, nếu tiếng nói phản biện của họ không được lắng nghe tiếp thu,
không được phản hồi, thì họ mất niềm tin vào vai trò làm chủ, lòng tin vào
nhà nước, chế độ bị xói mòn và ý kiến của họ có thể không còn mang tính
xây dựng. Và như vậy vòng phản hồi này chỉ làm yếu chứ không làm
mạnh thêm các chính sách, quyết định.
2.2.3. Những tiêu chí đánh giá chất lượng và hiệu quả thực hiện
chức năng phản biện xã hội của báo chí
- Trách nhiệm chính trị và pháp lý của PBXH: Báo chí vừa là công
cụ thực hiện QLCT nhưng đồng thời cũng là chủ thể giám sát, kiểm soát
quyền lực. Trong tiêu chí này báo chí tham gia PBXH, phải đúng đường
lối của Đảng và đúng quy định của pháp luật, đúng định hướng chỉ đạo của
cơ quan quản lý báo chí.
- Sự khách quan và khoa học PBXH của báo chí: Phản biện về chính
sách, pháp luật đòi hỏi phải tôn trọng sự thật khách quan, không có ý chủ
quan, duy ý trí, động cơ cá nhân khi xem xét đánh giá tình hình. Khách
quan, khoa học là tiêu chí hàng đầu của phản biện.
- Sự kịp thời và nhạy bén PBXH của báo chí: Tác phẩm phản biện
của báo chí phải xuất hiện đúng lúc, kịp thời đáp ứng được nhu cầu của
17
công chúng và sự quan tâm của xã hội trong thời điểm nhất định, thì phản
biện đó mới có giá trị và đạt hiệu quả cao.
- Sự chuẩn mực về văn hóa và đạo đức PBXH của báo chí: Phản
biện của báo chí vừa phải tôn trọng các qui định của pháp luật, vừa phải
bảo đảm những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức, lối sống; lợi ích
cộng đồng, giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc, nhất là trong quá
trình hội nhập hiện nay.
- Năng lực và trình độ tổ chức PBXH của báo chí: Trước hết đặt ra
yêu cầu là chủ thể phản biện phải có năng lực trình độ (thông qua đánh giá
tác phẩm báo chí), bản lĩnh phản biện, vì chính báo chí là chuyển tải sức
mạnh kết lối quyền lực của nhân dân. Kiểm soát QLCT, QLNN cần phải tổ
chức tốt để nhà báo, nhà khoa học, các chuyên gia (giới tinh hoa) làm đại
diện, hạt nhân trung tâm, họ có trình độ kiến thức, nhận thức sâu về những
nội dung mà chính sách và pháp luật đề cập.
- Hiệu ứng và hiệu quả PBXH của báo chí: Muốn phản biện của
báo chí có hiệu quả trước hết, các tác phẩm báo chí cần tạo được hiệu ứng
xã hội ban đầu, gây sự quan tâm, chú ý về vấn đề cần phản biện. Hiệu ứng
về những vấn đề phản biện tạo ra phải đủ lớn có sức lan toả, lan truyền
rộng rãi tạo DLXH mạnh về vấn đề đó, gây áp lực lớn làm cho chủ thể tiếp
nhận phản biện không quan tâm không được. Do đó báo chí muốn thực
hiện tốt được tiêu chí này ngoài việc đảm bảo đầy đủ tiêu chí của tác phẩm
báo chí thông thường đồng thời còn bảo đảm tính PBXH cao.
Chương 3
THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG
PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Những yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng phản biện
xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Tác động của các yếu tố kinh tế, văn hóa và xã hội đến việc
thực hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí
- Tác động của nền kinh tế thị trường, CNH, HĐH và hội nhập kinh
tế quốc tế đến việc thực hiện chức năng PBXH của báo chí:
Trong điều phát triển nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh CNH, HĐH
và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay, ở nước ta
xuất hiện ngày càng nhiều và cao nhu cầu PBXH nói chung và PBXH của
báo chí nói riêng. Những vấn đề quan trọng và phức tạp trong kinh tế - từ
phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản hay vấn đề
18
đất đai, tài nguyên, môi trường, thu hút đầu tư, thuế, lao động, tiền lương,
v.v. đều cần đến PBXH của báo chí.
- Tác động của của yếu tố xã hội đến việc thực hiện chức năng
PBXH của báo chí:
Xã hội là một tập hợp của nhiều nhóm lợi ích. Mỗi nhóm lợi ích luôn
ý thức được rằng khi làm chính sách, khi ban hành các quyết định, đạo luật
mình phải có lợi ích nhiều hơn. Sự mất cân bằng đó đồng nghĩa với cần
đến PBXH nói chung và PBXH của báo chí nói riêng.
- Tác động của của yếu tố văn hóa đến việc thực hiện chức năng PBXH
của báo chí:
Sự phát triển của văn hóa, trong đó có văn hóa chính trị (văn hóa
lãnh đạo, văn hóa quản lý và văn hóa tham chính - tham gia chính trị), văn
hóa dân chủ, văn hóa pháp lý, văn hóa giao tiếp chính trị, văn hóa ứng xử
trong chính trị, v.v. cũng cần đến chức năng PBXH của báo chí như một
tất yếu khách quan.
3.1.2. Tác động của các yếu tố chính trị và pháp lý đến việc thực
hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí
- Tác động của những yếu tố chính trị đến việc thực hiện chức năng
PBXH của báo chí
Đảng và Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý bằng nghị quyết, chỉ
thị, pháp luật và chính sách đối với hoạt động của báo chí nói chung, phản
biện của báo chí nói riêng. Phản biện của báo chí chính là “phê và tự phê”
trong nội bộ Đảng và Nhà nước những vấn đề còn hạn chế, thiếu sót trong
chính sách, pháp luật.
- Tác động của những yếu tố pháp lý đến việc thực hiện chức năng
PBXH của báo chí
Vấn đề là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phản biện,
làm cơ sở pháp lý, để báo chí tham gia kiểm soát quyền lực đang là yêu cầu
đặt ra có tính cấp bách. Chức năng PBXH của báo chí chưa có văn bản
pháp lý nào điều chỉnh, nhưng trong thực tế thì hoạt động phản biện của
báo chí đã và đang diễn ra, và nó mang lại những hiệu quả nhất định trong
việc kiểm soát QLNN.
3.1.3. Tác động của toàn cầu hóa truyền thông việc thực hiện chức
năng phản biện xã hội của báo chí
Quá trình này đặt ra cho báo chí thách thức, yêu cầu cao là phải đổi
mới công nghệ làm báo, đặt ra yêu cầu làm báo cao hơn, nhất là báo mạng
19
với tính ưu việt của nó nhanh chóng, kịp thời và khả năng tương tác với
độc giả cao. Bạn đọc có thể cùng làm báo với tòa soạn đòi hỏi quá trình
phản biện của báo chí cũng phải hòa nhập đáp ứng yêu cầu này.
3.1.4. Tác động của sự phát triển báo chí nước ta đến việc thực
hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí
Sau gần 30 năm đổi mới, báo chí nước ta không ngừng đổi mới, phát
triển mạnh mẽ cả về loại hình, phương thức tổ chức hoạt động và quy mô
tác động xã hội; hoạt động báo chí phát triển về số lượng, chất lượng, hình
thức, nội dung và đội ngũ người làm báo. Thể loại báo chí ngày càng
phong phú, đặc biệt là các thể loại tin tức, phóng sự điều tra, bút ký, ghi
nhanh, phỏng vấn, ảnh phóng sự, v.v.. Đây là những vấn đề tác động mạnh
mẽ đến việc thực hiện chức năng PBXH của báo chí ở nước ta.
3.2. Những thành tựu, hạn chế và vấn đề đặt ra trong việc thực
hiện chức năng phản biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay đánh giá theo các tiêu chí của phản biện xã hội của báo chí
3.2.1. Những thành tựu trong việc thực hiện chức năng phản biện
xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay
Đóng góp tính cực vào sự hình thành, hoàn thiện và phát triển đường
lối đổi mới của Đảng; xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật phát
triển kinh tế - xã hội; dân chủ tự do báo chí được tăng cường; người dân
tham gia tích cực vào quá trình kiểm soát QLCT, QLNN.
Nhận thức của Đảng và Nhà nước về chức năng PBXH của báo chí có
chuyển biến tích cực, thông qua việc ban hành các Nghị quyết, văn bản pháp
luật nhằm tăng cường tính chiến đấu, phản biện của báo chí. Kết quả hoạt
động của báo chí nói chung và phản biện xã hội nói riêng ngày càng được
Đảng và Nhà nước đánh giá cao, xã hội nghi nhận đây là một chức năng của
báo chí. Sự thừa nhận xã hội về chức năng PBXH của báo chí ngày càng rộng
rãi. Theo đó, nhận thức của xã hội và người dân về báo chí có nhiều thay đổi,
quan tâm đến phản biện của báo chí nhiều hơn, gửi gắm niềm tin vào báo chí
lớn hơn, chức năng là diễn đàn của nhân dân được đề cao. Nhận thức của các
cơ quan báo chí và nhà báo về chức năng PBXH của báo chí được nâng lên,
các tác phẩm báo chí đã phản biện nhiều chiều về những vấn đề bức xúc, nhạy
cảm có tác dụng tích cực và đạt hiệu quả cao. Thông qua các kết quả đó, cơ
quan báo chí và nhà báo đã ý thức sâu sắc chức năng PBXH của báo chí.
3.2.2. Những hạn chế trong việc thực hiện chức năng phản biện xã
hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, nhận thức của các cơ quan chức năng về PBXH của báo
chí chưa đúng đắn và đầy đủ, thiếu quan tâm đến phản biện của báo chí,
20
trong chỉ đạo báo chí thường bằng mệnh lệnh. Quan niệm báo chí chỉ là cơ
quan truyền đạt đường lối, chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
một chiều từ trên xuống dưới, không thông tin trái chiều, không có phản
biện. Lãnh đạo và quản lý báo chí còn hạn chế; chỉ đạo sâu, quá cụ thể về
hoạt động báo chí, như đưa tin sự kiện này nhiều sự kiện kia ít, hình thức
mức độ các sự kiện có giới hạn nhất định, việc này đưa tin đậm, việc kia
dừng vì rất nhiều lý do khách nhau. Tình trạng nói nhiều làm ít và ngược
lại, hay không nói gì, làm cho báo chí khó khăn trong hoạt động phản biện.
Thứ hai, một số nhà báo trình độ, năng lực hạn chế, thiếu bản lĩnh
chính trị. Nhiều tác phẩm chất lượng văn hóa thấp, chất lượng khoa học
trên báo chí chưa cao, thể hiện ở một số bài viết thể hiện phản biện chuyên
ngành. Một số vấn đề, sự kiện điều tra, thiếu khách quan, khoa học, thiếu
trung thực, không có khả năng phản biện và dẫn đến sai lầm.
Thứ ba, khả năng phối hợp tổ chức PBXH của báo chí giữa cơ quan
báo chí và cơ quan quyền lực trong việc soạn thảo, ban hành chính sách
chưa tốt, còn nhiều hạn chế. Hiệu ứng, hiệu quả PBXH của báo chí còn
hạn chế, chưa thuyết phục được các cơ quan làm chính sách, pháp luật để
tham gia phối hợp tổ chức phản biện.
Những hạn chế trên là những vấn đề bức xúc không những của báo
chí mà cả xã hội đều quan tâm. Việc khắc phục những hạn chế đó chính là
tạo điều kiện tốt nhất cho báo chí thực hiện chức năng PBXH.
3.2.3. Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện chức năng phản
biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay
- Nâng cao năng lực phản biện xã hội của báo chí hiện nay
Yêu cầu và nhiệm vụ của công cuộc đổi mới đất nước ngày càng khó
khăn, phức tạp đặt ra yêu cầu và nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện chủ
trương và đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ngày
lớn; sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế; đổi mới và hoàn thiện
HTCT, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, v.v. đang ngày càng đặt ra những yêu cầu,
nội dung và chất lượng mới cho PBXH của báo chí nước ta. Từ tình hình
thực tiễn hiện nay, nâng cao trình độ, năng lực PBXH của báo chí là nhiệm
vụ quan trọng và cấp thiết.
- Tính kịp thời và nhạy bén của phản biện xã hội của báo chi hiện nay
Trong hoàn cảnh toàn cầu hóa hiện nay, báo chí cũng bị tác động bởi
xã hội thông tin bùng nổ đa dạng, nhiều chiều. Cạnh tranh thông tin hiện
- Xem thêm -