Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài ở trung quốc và mộ số bài học đối với việt nam...

Tài liệu đầu tư trực tiếp nước ngoài ở trung quốc và mộ số bài học đối với việt nam

.PDF
123
67
80

Mô tả:

MỤC LỤC Trang Phần m ở đầu 1 Chương 1: Thu hút và sử dụng FDI ở trung quốcm ột sô vân để lý luận và ỉhực tiễn 7 1.1. Tình hình kinh tế xã hội Trung Quốc thời kỳ trước cải cách 7 1.2. Những thay đổi trong lý luận kinh tẻ của Trung Quốc 12 1.2.1. Lý luận về mục tiêu cải cách kinh tế 12 1.2.2. Lý luận về cải cách chế độ sở hữu 14 1.2.3. Lý luận về hệ thống thị trường 15 1.2.4. Lý luận về cải cách thể chế quản lý vĩ m ô 17 1.2.5. Lý luận về phân phối thu nhập 18 1.2.6. Lỷ luận cải cách nông thôn 20 1.2.7. Lý luận về cải cách ch ế độ xí nghiệp 21 1.2.8. Lý luận về mở cửa đối ngoại 22 1.3. Một số chính sách nhằm khuyến khích thu hút FDI vào Trung Quốc 26 1.3.1. Tạo dựng m ôi trường pháp luật cho đầu tư nước ngoài 26 1.3.2. cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng 30 1.3.3. Chính sách ưu đãi thuế 31 Chương 2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại trung quốc 2.1. Đầu tư trực tiếp của nướcngoài vào Trung Quốc qua các theft kỳ 36 37 2.1.1. Giai đoạn từ năm 1979 đến n ă m l9 8 4 38 2.1.2. Giai đoạn tò năm 1984 đến năm 1991 43 2.1.3. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 1993 47 2.2.4. Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 1997 52 2 .1.5. Giai đoạn từ năm 1997 đến nay 54 22. Nhũng đặc điểm chủ yái của đầu iư trục tiépnưóc ngoài ởTrung Quốc 57 Le Van L h itn ____________________________________ Đáu lư trưc tiép nước ngoài... 2.2.1. Về lượng đầu tư 57 2.2.2. V ề Nguồn đầu tư 59 2.2.3. Về hình thức đầu ^ 62 2.2.4. Về quy mô dự án đầu tư 64 2.2.5. Về lĩnh vực đầu tư 66 2.2.6. Về khu vực đầu tư 67 2.3. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Trung Quốc 69 2.3.1 Những tác động tích cực 69 2.3.2 M ột số tổn tại 77 Chương 3: Kinh nghiệm thu hút FDI của Trung Quốc và 80 một số bài học đối với Việt Nam n • » 3.1. Thực trạng thu hút FDI ở Việt Nam những năm qua 80 3.1.1 Tình hình chung 80 3.1.2. FDI phân theo nguồn đầu tư 81 3.1.3. FDI phân theo địa bàn đầu tư 82 3.1.4. FDI theo ngành kinh tế 83 3.1.5. V ề hình thức đầu tư 84 3.1.6. Một số vẩn đề còn tồn tại trong thu hút FDI lại Việt Nam 3.2. Vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc vào Việt Nain 85 92 3.2.1. Sự cần thiết và khả năng vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc 92 3.2.2. M ột số bài học đối với Việt nam từ kinh nghiệm thu hút FDI của Trung Quốc 96 Kết luận 114 Lê Văn Chiến Đ ầu tư tr ư c tiếp nước ngoài.. PHẦN MỞ ĐẦU I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI. Trong vài thập kỷ trở lại đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng trở thành một nhân tố tối quan trọng cho sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thường mang lại cho họ luồng sinh khí mới cho sự tăng trưởng nhờ vào những ưu thế về vốn, khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Đối với Việt Nam, để thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nưóc, nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp phát triển vào năm 2020 thì nhu cầu về các nguồn lực trong đó có vốn đầu tư đang trở nên cấp bách. Theo ý kiến của đồng chí Trần Xuân Giá - Bộ trưởng Bộ kế hoạch và đầu tư - trong bài trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 6 - Quốc hội khoá X thì trong tổng số vốn đầu tư cho phát triển kinh tế giai đoạn 1990-2000, vốn trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 51%, phần còn lại (49%) phải nhờ vào nguồn vốn bên ngoài. Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, chắc chắn nhu cầu về vốn còn tăng hơn nữa, trong khi nguồn vốn trong nước còn rất hạn hẹp thì việc tăng cường thu hút FDI là một vấn đề sống còn cho sự thành công của quá trình CNH. Trung Quốc là một trong những quốc gia đang phát triển có nhiều thành công trong việc thu hút nguồn FDI. Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài năm 1979 đến nay, qua 20 năm thực hiện, Trung Quốc được Liên Hợp Quốc đánh giá là nước đứng đầu trong các nước đang phát triển và đứng thứ hai trên thế giới (chỉ sau Mỹ) về thu hút FDI. Theo thống kê tới cuối năm 1999, tổng số vốn đầu tư thực tế của nước ngoài vào Trung Quốc đạt 319,38 tỷ USD. Riêng năm 1999, Trung Quốc thu hút 49 tỷ USD, chiếm 16% đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của 1 Lê Văn Chiến Đ ầu tư tr ư c tiếp nước ngoài.. toàn thế giới và 41% lượng FDI vào các nước đang phát triển. Điều này làm cả thế giới kinh ngạc. Nó chưa từng xảy ra trong lịch sử kinh tế thế giới và đã thu hút sự chú ý của nhiều nước trên thế giới trong đó có nước ta. Nguồn FDI chảy vào Trung Quốc là một trong những nhân tố góp phẩn vào sự tăng trưởng kinh tế ngoạn mục của nước này trong những năm qua. Theo giáo sư Trần Khôn Diệu, chủ nhiệm trung tâm nghiên cứu Châu Á, Trường đại học Hồng Kông thì: Trong tỷ lệ tăng trưởng mười mấy phần trăm hàng năm của Trung Quốc có khoảng 4-5% thuộc tiền vốn nước ngoài. Điều đó đã khẳng định vai trò của FDI đối với sự tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng. Sự thành cổng của Trung Quốc phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Song, có thể nói, điều quan trọng nhất là Trung Quốc đã xây đựng được một chiến lược thu hút FDI hợp lý, phù hợp vói yêu cầu của một nền kinh tế thị trường. Nó có mục tiêu là thúc đẩy thị trường hoá, quốc tế hoá nền kinh tế Trung Quốc nhằm phục vụ tốt cho công cuộc hiện đại hoá Trung Quốc, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng gần gũi, có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hoá, xã hội... Đặc biệt là cả hai nước cùng đang tiến hành cồng cuộc đổi mới của mình từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trưòng định hướng XHCN. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề thu hút FDI của Trung Quốc, rút ra những bài học thành công cũng như thất bại của Bạn là một việc làm cần thiết nhằm hoàn thiện chính sách thu hút FDI ở Việt Nam. Với mục đích và ý nghĩa như trên, Tác giả lựa chọn đề tài "Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc và một số bài học đối với Việt Nam ” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Hy vọng những kết quả của luận văn sẽ được sử dụng trong thực tiễn ở Việt Nam. 2 Lè Văn Chiến Đ ầu tư trưc tiếp nước ngoài.. II. TÌNH HÌNH NGHIÊN cúư Sự thành công rực rỡ trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc đã thu hút sự chú ý theo dõi của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới. Ngày càng xuất hiện nhiều tác phẩm của các tác giả nghiên cứu ở Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và các nước khác được xuất bản. ở Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về thu hút FDI của Trung Quốc đã được xuất bản như: Cuốn "Trung Quốc từ Mao đến Đặng" do giáo sư Văn Trong chủ biên, xuất bản năm 1994; cuốn "Trung Quốc trên đường cải cách" do giáo sư Nguyễn Đức Sự chủ biên, xuất bản năm 1994; cuốn "Nghiên cứu Trung Quốc hiện đại" do giáo sư Hoàng Việt chủ biên, xuất bản năm 1995; cuốn Trung Quốc thành tựu và triển vọng" xuất bản năm 1994; cuốn "Cải cách kinh tế ở Cộng hoà nhân dân Trung Hoa" do PTS Nguyễn Minh Hằng chủ biên, xuất bản năm 1995; cuốn "Quá trình cải cách kinh tế-xã hội của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa từ năm 1978 đến nay" do PTS. Đinh Công Tuấn chủ biên, xuất bản năm 1998; cuốn "Kinh tế Trung Quốc bước vào thế kỷ 21" của Lý Kinh Văn do Lê Quang Lâm dịch, xuất bản năm 1998... và một số bài như "Kinh tế Trung Quốc 1995-1996 của Từ Thanh Thuỷ (Viện kinh tế Thương Mại) đăng trên Tạp chí "Những vấn đề kinh tế thế giới số 3 (6/1997); bài "Giai đoạn mới của vốn đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc" của tác giả TaKaShi Muroga, Phương Thảo lược dịch đăng trên tạp chí "Thông tin tư liệu" của Học viên CTQG Hồ Chí Minh 12/1997; bài Trung Quốc thu hút vốn nước ngoài cho công nghiệp hoá" của tác giả Phạm Thái Quốc đăng trên tạp chí "Những vấn đề kinh tế thế giới" số 4 (8/1998)... và rất nhiều bài khác. Những tài liệu nêu trên có nhiều cứ liệu, nhiều luận điểm phong phú về nhiều vấn đề trong thu hút FDI của Trung Quốc. Đó là những tài liệu vô cùng quý giá mà Tác siả luận văn đã chọn lọc và kế thừa. 3 Đ áu tư trư c tiếp nước ngoài. Lê Văn Chiến Tuy nhiên, hầu hết các công trình trên mới chỉ tiếp cận vấn đề thu hút FDI ở Trung Quốc theo những khía cạnh riêng lẻ khác nhau hoặc trong một giai đoạn nhất định mà chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề này một cách có hệ thống, toàn diện và rút ra những bài học cho Việt Nam. III. MỤC ĐÍCH, N H Ẹ M vụ, GIỚI HẠN NGHIÊN CÚD CỦA LUẬN VĂN 1. Mục đích nghiên cứu. Kế thừa một cách có chọn lọc những tư liệu ở một số công trình của các tác giả đi trưóc, phân tích những kinh nghiệm thành cồng và chưa thành công trong việc thu hút FDI của Trung Quốc. Từ đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam nhằm thu hút hiệu quả FDI trong thời gian tới. 2. N hiệm vụ nhgiên cứu. a. Làm rõ vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế Trung Quốc trong những năm qua. b. Từ thực tiễn của quá trình mở cửa thu hút FDI của Trung Quốc luận văn phải làm rõ những giải pháp quan trọng mà Trung Quốc thực hiện để khuyến khích FDI cũng như những thành công và hạn chế của quá trình đó. c. Từ thực tế của Trung Quốc, luận văn phải tổng kết được những bài học kinh nghiệm có thể ứng dụng vào thực tiễn Việt Nam nhằm thu hút FDI có hiệu quả hơn. 3. Giới hạn nghiên cứu. - Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Trung Quốc mà không nghiên cứu các hình thức đầu tư khác. - Trung Quốc ở đây chỉ bao gồm phần lãnh thổ Trung Quốc đại lục mà không kể đến phần đất Hồng Kông, Ma Cao mới thu hồi về Trung Quốc. Các phần vốn đầu tư từ Hổng Kông, Ma Cao cũng được coi như vốn nước ngoài. 4 L ê Văn C hiến Đ âu tư tr ư c tiếp nước ngoài... - Luận văn hạn chế việc nghiên cứu vấn đề thu hút FDI của Trung Quốc trong thời gian từ năm 1979 đến nay là thời gian Trung Quốc ban hành và thực hiện luật đầu tư nước ngoài. Những vấn đề của thời gian trước đó không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này. Nếu có được nêu ra chỉ là để so sánh hoặc làm rõ những vấn đề Tác giả nghiên cứu. - Luận văn chủ yếu xem xét đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc dưới góc độ kinh tế chính trị IV. PH Ư Ơ N G PHÁP N G H IÊN CÚƯ. Phương pháp luận được sử dụng để nghiên cứu trong luận văn là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Những phương pháp cụ thể được sử dụng để nghiên cứu là: Phương pháp lô gích và lịch sử, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và xử lý số liệu, các phương pháp biểu đồ, biểu bảng, phương pháp so sánh, đối chiếu kết hợp lý luận với thực tiễn nhằm rút ra những vấn đề có tính khái quát, phổ biến, gợi mở cho việc đề ra những định hướng, giải pháp mói trong tình hình của nước ta hiện nay. V. NHŨNG ĐÓNG GÓP CHỦ YẾU CỦA LUẬN VẢN. - Hệ thống hoá thực tế tình hình thu hút FDI của Trung Quốc từ năm 1979 đến nay. - Đánh giá những mặt thành công cũng như chưa thành cống của hoạt động này nhằm tìm ra những bài học kinh nhgiệm mà Việt Nam có thể học tập, vận dụng nhằm lựa chọn những bước đi phù hợp, nâng cao hiệu quả thu hút FDI ở Việt Nam. - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu kinh tế Trung Quốc, cho việc hoạch định chiến lược thu hút FDI của Việt Nam, cho việc nghiên cứu, giảng dạy kinh tế chính trị và kinh tế phát triển. 5 L ê Văn Chiến Đ ầu tư tr ư c tiếp nước ngoài.. BỔ CỤC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm ba chương Chương 1. Thu hút và sử dụng FD I ở T rung Q uốc - M ột sô vấn đề lý luận và thực tiễn. Chương 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại T rung Q uốc. Chương 3. K inh nghiệm thu hút FDI của T rung Q uốc và m ột sô bài hoc đối với Viêt Nam . Lè Văn Chiến Đ ẩu tư trưc tiếp nước ngoài.. CHƯƠNG 1 THƯ H ÚT VÀ SỬ DỤNG FDI Ở T R U N G QUỐC M ỘT SỐ VẤN ĐỂ LÝ LU Ậ N VÀ THỰC TIEN 1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI KỲ TRƯỚC CẢI CÁCH Trước năm 1979 do áp dụng cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã dẫn đến nền kinh tế Trung Quốc kém hiệu quả và mức tăng trưởng thấp trong suốt 30 năm dòng. Các vấn đề mà nền kinh tế Trung Quốc gặp phải cũng tương tự như các vấn đề mà các nước khác có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung gặp phải. Căn bệnh chính của thể chế kinh tế đó là Nhà nước tập trung quá nhiều, quản lý quá chặt. Nó biểu hiện rất rõ trên một số mặt: về quản lý kế hoạch, tỷ trọng kế hoạch trực tiếp tăng nhanh, sản phẩm Nhà nước thống nhất phân phối quá nhiều. Chẳng hạn, năm 1952 chỉ có 55 loại vật tư do Nhà nước thống nhất phân phối đến năm 1957 đã có tới 231 loại, về quản lý công nghiệp, các xí nghiệp công nghiệp đều do các cơ quan hành chính quản lý trực tiếp. Do quản lý quá nhiều, quản lý quá chặt nên xí nghiệp đã trở thành vật phụ thuộc cơ quan hành chính, thiếu quyền tự chủ kinh doanh, v ề phân phối, Nhà nước chủ yếu phân phối theo chế độ bình quân, hình thức sử dụng theo hướng đơn nhất hoá, hình thành nên chế độ: "bát cơm sắt"... Do thể chế sơ cứng nên hiệu quả kinh tế thấp. Sau 30 năm sản xuất nông nghiệp vẫn không tiến triển được bao nhiêu, hàng năm vẫn phải nhập hàng triệu tấn lương thực. Trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất đạt chưa đầy 4% sản phẩm công nghiệp thế giới. Trong đó, điện năng chỉ đạt 1,4%; dầu hoả 1%, ô tô 0,18%. Khoa học kỹ thuật lạc hậu hàng chục năm so vói các nước tiên tiến. Thêm vào đó, phong trào "ba ngọn cờ hồng", "Đại cách mạng văn hoá" đã dẫn đến hỗn loạn về kinh tế xã hội, càng trầm trọng thêm những căn bệnh của thể chế kinh tế vốn có. Phong trào "toàn dân làm 7 Lê Văn Chiến Đ ầu tư tr ư c tiếp nước ngoài.. gang thép", hàng trăm triệu người từ nông thôn, thành thị, các cơ quan trường học phải di chuyển chỗ để khai thác nguyên liệu và nấu gang thép. Trong vòng một năm, Trung Quốc xây dựng 7,5 triệu lò nấu gang thủ công, trong đó cống xã nhân dân đóng góp 6 triệu lò. Theo ước tính chi phí hết chừng 10 tỷ NDT (trong khi toàn bộ vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản trong công nghiệp năm 1957 chỉ có 7,2 tỷ N D T). Hơn 3 triệu tấn thép và 4 triệu tấn gang sản xuất ra, do không có kỹ thuật, nguyên vật liệu thiếu, nấu bằng lò nhỏ và thủ công nên chất lượng thấp kém đến nỗi không thể dùng vào việc gì được, gây lãng phí rất lớn về tiền, của, tài nguyên, sức lao động. Việc xây dựng công nghiệp ồ ạt dẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng giữa hai ngành kinh tế quan trọng của Trung Quốc là nồng nghiệp và công nghiệp. Mặt khác, do nhu cầu nhân lực và xây dựng cơ bản tăng nhanh nên trong 3 năm "nhảy vọt", số công nhân tăng thêm 25 triệu người, làm cho vấn đề lao động ở nông thồn căng thẳng, nhu cầu về nông sản hàng hoá tăng lên dẫn đến mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, sự phát triển bột phát mù quáng này còn làm cho các nguồn nguyên liệu, tài chính của Trung Quốc bị kiệt quệ. Cùng với "đại nhảy vọt", phong trào "công xã hoá" cũng làm đảo lộn đòi sống kinh tế xã hội ở nông thôn. Chỉ trong có 45 ngày, từ 47 vạn HTX nông nghiệp cải tổ thành 26.000 công xã vói số hộ trung binh gấp 30 lần trước đó. Một năm sau nó được mở rộng hơn, với quy mô trung bình là 5000 hộ. Thậm chí, nhiều nơi đã thành lập công xã nhân dân trên quy mổ toàn huyẹn. Trên 99% nông dân bao gồm 120 triệu hộ và 500 triệu nông dân đã vào công xã. Với tư tưởng cho rằng chế độ sở hữu tập thể sẽ "không tồn tại lâu dài" mà "có thể chuyển lên chế độ sở hữu toàn dân trong vòng mấy năm" do vậy Trung Quốc đã xoá bỏ thô bạo đất phần trăm để lại, xoá bỏ kinh tế phụ gia đình, thậm chí công hữu hoá cả nhà cửa, gia súc, gia 8 Lê Vãn Chiến Đ ầu tư tr ư c tiếp nước nsoài. cầm của xã viên (họ giải thích rằng đó là "cắt cái đuôi" của tư hữu). Trong công xã thực hiện chế độ sở hữu toàn dân và phân phối theo nhu cầu và coi đó như là một cơ cấu xã hội XHCN, đồng thời lại là một đơn vị cơ sở của tổ chức chính quyền của chủ nghĩa cộng sản. Chủ tịch Mao coi đó là một mô hình CNCS ở nông thôn và tự hào là Trung Quốc đi lên CNCS trước Liên Xô. Phong trào này đã gây sự hỗn loạn ở nông thôn Trung Quốc. Với quy mô lớn, những công cụ thô sơ, thủ công, cán bộ chưa đủ năng lực quản lý lại không được đông đảo quần chúng nông dân đồng tình nó đã cản trở nghiêm trọng tới việc lãnh đạo sản xuất và tổ chức lao động. Việc quản lý sản xuất bị rối tung, tư liệu sản xuất bị phá huỷ (vì sợ công hữu hoá), nạn lười biếng tràn lan vì không làm cũng được ăn trong bếp công cộng (ăn, ở, mặc... đều do công xã chi phí hết theo kiểu hưởng thụ và phân phối CSCN). Vì vậy, chỉ trong vòng mấy tháng các kho dự trữ lương thực, thực phẩm bị cạn kiệt ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống kinh tế - xã hội của Trung Quốc... Các phong trào "đại nhẩy vọt" và "công xã nhân dân" đã làm cho nền kinh tế Trung Quốc bị kéo lùi hàng chục năm. Thêm vào đó, thiên tai liên tiếp trong 3 năm liền từ năm 1959 - 1961 làm cho đời sống nhân dân bị hạ thấp đến nỗi cơm không đủ no, vải chỉ đủ vá, và có tới 31 triệu người bị chết đói. Trong thcd kỳ "cách mạng văn hoá", sự phá phách của các "tiểu tướng hồng vệ binh", các "Tôn Ngộ Không đỏ" đã đẩy sản xuất vào tình trạng vô chính phủ triền miên, nền kinh tế suy sụp nặng. Với khẩu hiệu "chính trị là thống soái", "nắm khâu cách mạng để thúc đẩy sản xuất" người ta đã coi đất phần trăm của nông dân, nghề phụ gia đình, buôn bán là phục hồi chủ nghĩa tư bản; coi nguyên tắc "lợi ích vật chất" là cội nguồn đẻ ra sự khác biệt giàu nghèo và sự phân hoá giai cấp; coi sản xuất hàng hoá, trao đổi hàng hoá và nguyên tắc phân phối theo lao động là cơ sở kinh tế quan trọng đẻ ra tầng lớp tư sản mới... Những tư tưởng này đã làm ảnh hưởng rất xấu đối với sự phát triển 9 Lé Văn Chiến Đ áu tư true tiếp nước ngoài.. kinh tế. Nó đã không kích thích được sản xuất, mà còn dẫn đến tình trạng mất cân đối giữa nông nghiệp và công nghiệp thêm nghiêm trọng. Nông nghiệp do bị thiệt hại nặng nề nên không vực được công nghiệp nhẹ. Nhiều xí nghiệp công nghiệp làm ăn thua lỗ. Hiện tượng hỗn loạn trong quản lý và lỏng lẻo trong phân phối gây nên "tiêu hao lớn, lãng phí nhiều, hiệu quả thấp". Nền kinh tế quốc dân bị ngừng trệ trong một thời gian dài, thậm chí thụt lùi, sa sút. Năm 1976, thu nhập quốc dân, sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp có mức tăng trưởng âm:-2,7%; -2,4%; - 0,4%. Cách mạng văn hoá đã đẩy nền kinh tế Trung Quốc tới bờ vực thẳm, ước tính thu nhập quốc dân của Trung Quốc bị thiệt hại nặng tới 500 tỷ NDT. Những chính sách kinh tế sai lầm trên đây đã gây ảnh hưởng tiêu cực đối với đời sống kinh tế xã hội của nhân dân Trung Quốc. Sau 30 năm mức sống vật chất của người dân hầu như không thay đổi. Đời sống tinh thần hết sức nặng nề, căng thẳng. Thu nhập bình quân hàng tháng của một người lao động ở nông thôn không quá 1 3- 1 5 NDT, thấp hơn mức thu nhập của công nhân viên chức khoảng 4 lần. Việc phân phối lương thực chia như sau: Khoảng 70-80% chia theo nhân khẩu trong gia đình, 20 - 30% chia theo "trình độ giác ngộ chính trị" cũng như chất lượng và số lượng công việc của người lao động. Mức tiêu dùng lương thực của một người lớn trung bình là 175 kg/năm (thấp hơn mức của năm 1955). ở thành phố việc phân phối lương thực vẫn theo định lượng ngặt nghèo như mấy chục năm về trước. Mỗi người được phân từ 9 đến 12 kg lương thực, 125 - 250g dầu thực vật một tháng... Việc nâng cao sức khoẻ cho nhân dân chủ yếu dựa vào các "thầy thuốc chân đất" do các đội sản xuất, các công xã tự đào tạo. Đặc biệt công tác giáo dục ngày càng bị coi thường. Chi phí cho ngành này chỉ khoảng 5% ngân sách. Theo quan điểm của một số nhà lãnh đạo Trung 10 Lê Vãn C hiến Đ ầ u tư tr ư c tiếp nước ngoải.. Quốc lúc đó thì "càng nhiều trí thức càng phản động" nên trong cách mạng văn hoá người ta đã đóng cửa dần các trường đại học và trung học chuyên nghiệp. Số thanh niên bỏ học và đi lang thang, đi "tạo phản" trong cả nước lên tới 40 triệu. Số người mù chữ lên tới trên 40% (năm 1962). Thêm vào đó các cuộc chỉnh phong, chỉnh huấn liên miên và cuộc "đại cách mạng văn hoá" đã trà đạp lên cả thể xác lẫn tinh thần của hàng trăm triệu người; công nhân không thể làm việc, nông dân không thể cấy trổng, học sinh không thể đi học... bởi các cuộc đấu tố liên tiếp xảy ra, trật tự xã hội bị rối loạn. Trong một thời gian dài ngưòi ta gây cho nhân không khí hoài nghi tất cả, phủ định tất cả, đả đảo tất cả... Tàn nhẫn hơn, người dân Trung Quốc còn bị thanh trừng, bị vùi dập không chỉ có một thế hệ. Vì quan niệm của những người theo quan điểm tả khuynh cho rằng "bố anh hùng, con hảo hán, bố phản động con khốn nạn"... Cho tới cuối năm 1976, trước khi "bè lũ 4 tên” bị đổ, xã hội Trung Quốc rơi vào tình trạng gần như vô tổ chức. Công nhân lãn cồng "đi muộn về sớm", thậm chí nhiều nơi người ta tổ chức phá hoại đường sắt, gây ra tình trạng không cung cấp đủ dầu, lúa mì và nguyên liệu, làm ảnh hưởng nghiêm trong đến sản xuất công nghiệp, nồng nghiệp và đcả sống nhân dân. Sau cách mạng văn hoá, trước tình hình chính trị - kinh tế - xã hội đầy biến động và vô cùng bi đát, Đảng công sản và nhân dân Trung Quốc đã tìm mọi cách để thoát ra khỏi cảnh ngộ này. Nhu cầu có một cuộc cải cách làm thay đổi và chuyển biến cãn bản tình hình Trung Quốc, đưa Trung Quốc vào quỹ đạo phát triển của thế giới trở nên cấp thiết. Nó đòi hổi phải cải cách tất cả những gì cản trở sự phát triển của Trung Quốc trên mọi mặt. Vì vậy, cải cách thể chế XHCN, trước hết là cải cách thể chế kinh tế và cải cách thể chế chính trị đã trở thành một yêu cầu bức thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Trung Quốc. Nó là một xu thế tất yếu, không có một sức mạnh nào có thể ngíìn cản được nó. 11 Lê Văn Chiến Đ âu ỉư tr ư c tiéĩ) nước ngoài... 1.2. NHỮNG THAY Đổl TRONG LÝ LUẬN KINH TẾ CỦA TRUNG QUỐC Để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn đặt ra, từ năm 1978 đến nay Trung Quốc đã tiến hành công cuộc cải cách kinh tế xã hội một cách triệt để, trước hết là những thay đổi trong lý luận về thể chế kinh tế, có thể tóm tắt một số nét cơ bản những thay đổi này như sau: 1.2.1. Lý luận về mục tiêu cải cách kinh tế. Lý luận cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc biểu hiện trước tiên ở sự đột phá về lý luận kinh tế kế hoạch truyền thống. Trong lý luận kinh tế XHCN truyền thống, kinh tế kế hoạch được coi là một đặc trưng cơ bản của chế độ kinh tế XHCN, do vậy đã hình thành nên thể chế kinh tế kế hoạch tập trung cao độ. Trong điều kiện lịch sử xã hội đặc thù của thời kỳ đầu mới dựng nước, thể chế này đã đạt được những thành tựu rõ rệt, nhưng do bài xích vai trò của quy luật giá trị và cơ chế thị trường, nên trong quá trình phát triển sau này đã trở nên cứng nhắc, giáo điều, trói buộc nghiêm trọng sự phát triển của sức sản xuất xã hội. Sau hội nghị Trung ương 3 khoá XI của Đảng cộng sản Trung Quốc, đầu tiên ở nông thôn thực hiện chế độ trách nhiệm khoán sản lượng đến hộ gia đình, làm cho nông dân trở thành chủ thể kinh tế kinh doanh tự chủ; ở thành thị, tiến hành thí điểm cải cách mở rộng quyền tự chủ kinh doanh xí nghiệp, giảm bớt kế hoạch pháp lệnh đối với sản xuất và tiêu thụ.... Những cải cách này tuy mói chỉ là bước đầu, nhưng nó đã phá vỡ thể chế kinh tế kế hoạch, làm cho cuộc cải cách của Trung Quốc từ đây bước vào quỹ đạo đi theo hướng thị trường. Do những thành tựu đã đạt được trong những năm đầu cải cách, đồng thời để thích ứng với giai đoạn phát triển mới, Hội nghị Trung ương 3 khoá XII ĐCS Trung Quốc năm 1984 đã thông qua "Nghị quvết của ĐCS Trung Quốc về cải cách thể chế kinh tế", nêu rõ kinh tế XHCN là kinh tế hàng hoá có kế hoạch trên cơ sở chế độ công hữu. 12 L ẻ Văn Chiến Đ âu tư trư c tiếp nước ngoài.. Phát triển đầy đủ kinh tế hàng hoá là giai đoạn không thể bỏ qua của sự phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện tất yếu để thực hiện hiện đại hoá kinh tế Trung Quốc. Chỉ có phát triển đầy đủ kinh tế hàng hoá, mới có thể làm cho nền kinh tế có sức sống chân chính. Những điều trình bày trên là một bước nhảy vọt về nhận thức đối với kinh tế XHCN, đồng thời cũng là một sự phát triển quan trọng của kinh tế học chính trị Mác-xít, lần đầu tiên khẳng định rõ ràng kinh tế XHCN là kinh tế hàng hoá, từ đó đưa lý luận chỉ đạo cải cách thể chế kinh tế lên một bước phát triển mới. Kiên trì không thay đổi cải cách theo hướng thị trường hoá là tư tưởng nhất quán của Đặng Tiểu Bình. Ngay từ năm 1979 ông đã chỉ rõ: "Nói rằng kinh tế thị trường chỉ tổn tại trong xã hội TBCN, chỉ có kinh tế thị trường TBCN, đây là điều không đúng đắn. Vì sao CNXH không thể thực hiện kinh tế thị trường, không thể nói đó là CNTB được '. Đầu năm 1992, trong bài phát biểu khi đi khảo sát phương Nam, Đặng Tiểu Bình chỉ rõ: Kế hoạch nhiều hơn một chút hay thị trường nhiều hơn một chút, không phải là sự phân biệt bản chất của CNXH và CNTB. Kinh tế kế hoạch không đồng nghĩa với CNXH, CNTB cũng có kế hoạch; kinh tế thị trường không đồng nghĩa với CNTB, CNXH cũng có thị trường, kế hoạch và thị trường đều là những biện pháp kinh tế. Luận điểm này về cơ bản đã xoá bỏ được sự trói buộc tư tưởng coi kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường là thuộc về phạm trù chế độ cơ bản của xã hội, đưa ra câu trả lời chung rõ ràng, thấu triệt, tinh tuý đối vói vấn đề từng gây tranh luận lâu dài và cản trở con đường tiến lên của Trung Quốc, từ đó đưa đến sự đột phá quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn. Dựa vào luận điểm quan trọng của Đặng Tiểu Bình, trong báo cáo chính trị Đại hội XIV, đồng chí Giang Trạch Dân đã nêu rõ: Mục tiêu chung của cải cách thể chế kinh tế của Trung Quốc là xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN. Điều này đã giải quyết vấn đề quan trọng mang tính toàn cục, tính phương hướng có liên quan đến công cuộc cải 13 Lé Văn Chiến _______________________________________________________________________________________ Đ âu tư tr ư c tiếp nước ngoài... cách và mở cửa. Bản nghị quyết được thông qua tại Hội nghị Trung ương 3 khoá XIV ĐCS Trung Quốc, đã làm rõ thêm cái khung chung của thể chế mới, nêu lên một loạt lý luận, quan điểm mới và nhiệm vụ xây dựng thể chế mới. Do xác lập được mục tiêu chung của cải cách, nên từ Đại hội XIV của ĐCS Trung Quốc đến nay, công cuộc cải cách thể chế kinh tế trên các lĩnh vực, các phương diện đều đạt được những tiến triển quan trọng và thành tựu huy hoàng. 1.2.2. Lý luận về cải cách chế độ sỏ hữu Sự đột phá về vấn đề lý luân sở hữu của Trung Quốc được biểu hiện tập trung ở hai mặt: Một là, từ lý luận về chế độ công hữu đơn nhất chuyển sang lý luận coi công hữu là chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển, hình thành nên lý luận về kết cấu sở hữu; Hai là, tách rời chế độ sở hữu, hình thành nên lý luận về kết cấu sở hữu, hình thức thực hiện của chế độ công hữu. Về vấn đề sở hữu, trước đây Trung Quốc cho rằng: Sở hữu càng lớn, càng công hữu, càng tốt. Thực hiện "nhất đại, nhị công" ( một là lớn, hai là công hữu) và "quá độ nghèo", nhanh chóng cải biến chế độ sở hữu tập thể thành chế độ sở hữu toàn dân đơn nhất, hạn chế sự phát triển của kinh tế phi công hữu, kết quả đã làm tổn thương nghiêm trọng tính tích cực của các phương diện, trói buộc sự phát triển của sức sản xuất. Trong quá trrình cải cách thể chế, các quan niệm cũ đã dần bị phá bỏ và thay vào đó là những quan niệm hoàn toàn mới, như: - Phá bỏ quan niệm truyền thống sợ "tư nhân", sợ "tư bản chủ nghĩa", hạn chế sự phát triển của kinh tế phi công hữu, xây dựng lên lý luận có thể lợi dụng mọi hình thức sở hữu miễn là phù hợp với "ba điều lợi"; mọi hình thức kinh doanh và hình thức tổ chức phản ánh quy luật của nền sản xuất xã hội hoá đều được khuyến khích phát triển. 14 Lê Văn C hiến Đ ắu tư tru e tiếp nước ngoài.. “ Trước đây Trung Quốc quan niệm rằng kinh tế quốc hữu càng lớn, càng công hữu càng tốt và là đặc trưng của nền kinh tế XHCN. Nay quan niệm này đã được xó bỏ. Lý luận mới cho rằng kinh tế quốc hữu giữ vai trò chủ đạo, các hình thức kinh tế khác cùng phát triển. Vai trò chủ đạo của kinh tế quốc hữu chủ yếu biểu hiện ở sức khống chế và sức ảnh hưởng của nó đối với nền kinh tế, tiến hành điều chỉnh đối với bố cục và kết cấu sở hữu của kinh tế quốc hữu. - Trước đây Trung Quốc quan niệm rằng kinh tế phi công hữu là thuộc tính xã hội của kinh tế TBCN, nay quan niệm này đã bị xoá bỏ và hình thành lý luận coi kinh tế phi công hữu là một bộ phận tổ thành quan trọng của nền kinh tế thị trường XHCN. Lấy công hữu làm chủ thể, nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển là chế độ kinh tế cơ bản của CNXH. 1.2.3. Lý luận về hệ thông thị trường. Xây dựng hệ thống thị trường thống nhất mở cửa, cạnh tranh có trật tự là bộ phận tổ thành quan trọng của nền kinh tế thị trường XHCN. Những đột phá lý luận về phương diện này, chủ yếu biểu hiện ở chỗ: Một là, thừa nhận tư liệu sản xuất, các yếu tố sản xuất đều là hàng hoá, đều có giá cả; Hai là, cải cách giá cả là điểm mấu chốt để hình thành cơ chế thị trường, phải xây dựng cơ chế giá chủ yếu do thị trường hình thành; Ba là, đột phá vào quan niệm truyền thống, nêu lên phải xây dựng hệ thống thị trường hoàn thiện gồm: thị trường vốn, thị trường sức lao động... Thị trường là khâu trung tâm nối liền sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu thụ. Lý luận kinh tế học chính trị XHCN truyền thống cho rằng, trong điều kiện XHCN không tồn tại sản xuất và trao đổi hàng hoá một cách chân chính, chỉ có "vỏ bề ngoài" mà không có "hạt bên trong" của hàng hoá. Tư liệu sản xuất và các yếu tố sản xuất khác đều không phải là hàng hoá. Trong hoạt động kinh tế, tách rời sản xuất với 15 Lê Văn Chiến Đâu tư tr ư c tiếp nước ngoài.. lưu thông, thương nghiệp với vật tư, nội thương với ngoại thương. Thời kỳ đầu cải các Trung Quốc trước hết từ thực tiễn đột phá vào vấn đề tư liệu sản xuất không phải là hàng hoá, mở rộng quyền tự tiêu thụ cho xí nghiệp, từng bước thu hẹp tỷ lệ phân phối vậi tư theo kế hoạch, thành lập thị trường giao dịch tư liệu sản xuất, đã thu được những kết quả tích cực. Đại hội XIII của ĐCS Trung Quốc chỉ rõ, hệ thống thị trường XHCN không chỉ bao gồm thị trường hàng tiêu dùng và thị trường tư liệu sản xuất..., mà còn phải bao gồm cả thị trường các yếu tố sản xuất như vốn, dịch vụ lao động, kỹ thuật, thông tin và bất động sản..., thị trường hàng hoá đơn nhất không thể phát huy tốt vai trò của cơ chế thị trường. Như vậy, về mặt lý luận không chỉ thừa nhận tư liệu sản xuất là ỹ i' hàng hoá, mà còn thừa nhận yếu tố sản xuất cũng là hàng hoá, điều đó đã phát huy vai trò tích cực trong việc thúc đẩy hình thành các loại thị trường. Trong thể chế kinh tế kế hoạch truyền thống, giá cả chỉ là công cụ hạch toán tiện lợi, chủ yếu do Nhà nước định giá, quản lý tập trung, vì vậy giá cả thoát ly khỏi sản xuất và thị trường, quay lưng lại quy luật giá trị và tình trạng cung cầu, thậm chí như đất đai, tài nguyên khoáng sản đều không có giá cả. Những năm 80 Trung Quốc luôn luôn coi cải cách giá cả đầy mạo hiểm là vấn đề quan trọng có quan hệ đến thành bại của cải cách thể chế kinh tế, đổng thời trong thực tiễn dần dần hình thành lý luận cải cách giá cả phù hợp vói thời kỳ chuyển đổi thể chế của Trung Quốc. Từ khi cải cách đến nay, căn cứ vào phương châm "kết hợp điều tiết với thả nổi", Trung Quốc đã lần lượt điều chỉnh giá cả sản phẩm thô nông nghiệp và hàng công nghiệp, thả nổi giá hàng hoá nhỏ, thực hiện "chế độ 2 giá" đối với tư liệu sản xuất, sau đó từng bước chuyển "chế độ hai giá" thành "chế độ một giá". 16 Lê Vãn Ch ièn Đ ầu tư trư c tiếp nước ngoài.. 1.2.4. Lý luận về cải cách thể chế quản lý v ĩ mô. Trong thể chế kinh tế kế hoạch truyền thống, nền kinh tế quốc dân Trung Quốc là một thể hành chính tập trung thống nhất, không chia ra kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô, cũng không hình thành lý luận điều tiết ' vĩ mô. Những đột phá quan trọng của lý luận kinh tế vĩ mô 20 năm qua, chủ yếu biểu hiện ở chỗ: Một là, Chính phủ cần chuyển từ quản lý trực tiếp mang tính hành chính sang quản lý gián tiếp coi biện pháp kinh tế là chính; Hai là, xây dựng và kiện toàn hệ thống điều tiết vĩ mô hài hoà, thống nhất; Ba là, giải quyết một cách biện chứng mối quan hệ giữa điều tiết vĩ mô với sự khống chế thị trường. Từ khi cải cách mở cửa đến nay, về mặt lý luận, Trung Quốc đã nêu ra nguyên tắc chính quyền và xí nghiệp tách rời nhau, tách rời chức năng quản lý kinh tế - xã hội của Chính phủ với chức năng người sở hữu vốn quốc hữu, cùng với nguyên tắc tinh giản, thống nhất, hiệu quả, thúc đẩy cải cách bộ máy Chính phủ, chuyển biến chức năng của Chính phủ, giao chức năng quản lý kinh doanh của xí nghiệp cho các xí nghiệp; chuyển dịch chức năng bố trí nguồn lực cho thị trường, từ đó làm cho chức năng quản lý kinh tế của Chính phủ thiết thực chuyển sang việc chế định và chấp hành các chính sách kinh tế vĩ mô, tạo ra môi trường phát triển kinh tế tốt đẹp. Chính phủ chủ yếu vận dụng biện pháp kinh tế, pháp luật và những biện pháp hành chính cần thiết, điều tiết hiệu quả các hoạt động kinh tế. Mặc dù trong thực tiễn cải cách bộ máy, chuyển biến chức năng của Chính phủ đòi hỏi còn phải tốn nhiều công sức, nhưng những ý tưởng về phương diện này đã tương đối rõ ràng. Điều cần chỉ rõ ở đây là: Từ chỗ khống chế kế hoạch mang tính hành chính trực tiếp là chính, chuyển sang hoạt động kinh tế điều tiết coi biện pháp kinh tế gián tiếp là chính, đây chính là một sáng tạo mới về lý luận quản lý vĩ mô trong thòi kỳ chuyển đổi thể chế kinh tế của Trung Quốc. Điều này không những làm rõ mục tiê|U-aảaxiiủc_càLcáđi__ ĐAI HOC C ’*Ó c (- IA HÀ MÒ# ] TR UNG T M TM M P T ị ,\ . ỴF Ư y íp í í 17 ỉ_ T ỉẽ ' 1 J Lẻ Văn Chiến Đ áu tư trưc tiếp nước ngoài.. thể chế kinh tế vĩ mô của Trung Quốc, mà vể vi mô, nó cũng chứng tỏ kinh tế công hữu có thể kết hợp hữu hiệu với kinh tế thị trường. Tại Hội nghị Trung ương 5 khoá XIV ĐCS Trung Quốc, Tổng bí thư Giang Trạch Dân đã luận giải một cách sâu sắc về mối quan hệ giữa cơ chế thị trường với điều tiết vĩ mô và chỉ rõ: phát huy đầy đủ vai trò của cơ chế thị trường và tăng cường điều tiết vĩ mò đều là yêu cầu cơ bản của nền kinh tế thị trường XHCN, không được thiên về mặt nào. Cũng chính là nói rằng “không chỉ thấy tay này mà phải thấy tay kia”, phải dùng cả hai tay. Muốn làm cho nền kinh tế quốc dân Trung Quốc có sức sống và hiệu quả, phải tích cực bồi dưỡng và phát triển hệ thống thị trường, để phát huy đầy đủ vài trò của cơ chế thị trường. Nhưng do thị trường tồn tại tính tự phát, tính trì trệ, Nhà nước phải tăng cường chỉ đạo và điều tiết đúng đắn đối với hoạt động của thị trường. Mấy năm gần đây, đồng thời với việc nhanh chóng cải cách thúc đẩy phát triển, Trung Quốc rất coi trọng tăng cường và cải thiện điều tiết vĩ mô, từ đó làm cho nền kinh tế quốc dân thoát khỏi tình trạng lúc lên lúc '.uống; bắt đầu bước vào quỹ đạo phát triển liên tục, nhanh chóng và lành mạnh. 1.2.5. Lý luận về phân phối thu nhập. Lý luận về phân phối thu nhập có liên quan đến vấn đề cơ chế khuyến khích và động lực, đồng thời cũng có quan hệ với vấn đề công bằng xã hội. Từ khi cải cách mỏ cửa đến nay, những đột phá về lý luận phân phối thu nhập của Trung Quốc, chủ yếu có 4 phương diện: Một là, cho phép một số vùng, một số người giàu trước, khuyến khích người giàu trước giúp đỡ người giàu sau, cuối cùng thực hiện cùng giàu có; Hai là, thực hiện chính sách ưu tiên hiệu suất, chiếu cố công bằng; Ba là, kiên trì phân phối theo lao động là chính, cho phép yếu tố sản xuất tham gia vào phân phối; Bốn là, kiên trì xây dựng hệ thống bảo hiểm 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan