Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần xi măng ...

Tài liệu Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần xi măng vinaconex lương sơn

.PDF
150
327
65

Mô tả:

Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần xi măng Vinaconex Lương Sơn
Khoá luận tốt nghiệp Khoa Kinh Tế & QTKD LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, bối cảnh kinh tế nước ta đã có sự biến chuyển sâu sắc, toàn diện và ngày càng theo xu thế hội nhập. Cùng với sự mở cửa của nền kinh tế là sự tham gia của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với những lợi thế về vốn, chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất, quy mô doanh nghiệp, kinh nghiệm quản lý đã làm cho sự cạnh tranh trên thị trường nội địa trở nên rất quyết liệt. Các doanh nghiệp trong nước đang đứng trước những thách thức vô cùng lớn. Để tồn tại và phát triển bền vững, doanh nghiệp phải phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ thấp giá thành sản phẩm. Đó là một trong những điều kiện quan trọng tạo cho doanh nghiệp một ưu thế trong cạnh tranh. Hơn thế nữa, giá thành sản phẩm còn là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh và đo lường kết quả kinh doanh. Đồng thời chỉ tiêu giá thành còn giữ chức năng thông tin và kiểm tra về chi phí giúp cho người quản lý có cơ sở để ra các quyết định đúng đắn, kịp thời. Muốn tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm phải nâng cao chất lượng công tác quản lý. Phân tích giá thành sản phẩm là cách tốt nhất để hiểu biết nguyên nhân và nhân tố làm cho chi phí biến động ảnh hưởng tới giá thành, từ đó người quản lý sẽ có quyết định tối ưu hơn. Trong quá trình xây dựng và phát triển, ban lãnh đạo Công ty Cổ phần Xi măng Vinaconex Lương Sơn – Hoà Bình luôn chú trọng đến công tác phối hợp các nguồn lực của doanh nghiệp, sử dụng hợp lý chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Đây là một trong những yếu tố giúp Công ty Cổ phần xi măng Vinaconex Lương Sơn – Hoà Bình đứng vững và không ngừng lớn mạnh trước những thách thức của thị trường. Với hy vọng có được những đóng góp cho công tác phấn đấu hạ giá thành sản phẩm, trong thời gian thực tập em đã có những nghiên cứu về tình hình thực tế và năng lực thực tại của công ty, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: Lê Thị Thanh Xuân 1 KT13042 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & “Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Cổ phần xi măng Vinaconex Lương Sơn – Hoà Bình”. Nội dung chính trong luận văn của em gồm có 3 phần: Phần I. Một số lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Phần II. Thực trạng về công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại CTCP Xi măng Vinaconex Lương Sơn –Hoà Bình. Phần III. Một số nhận xét và ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại CTCP Xi măng Vinaconex Lương Sơn- Hoà Bình. Để hoàn thành được khoá luận tốt nghiệp này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Phan Thanh Đức và sự chỉ bảo giúp đỡ, tạo điều kiện của ban lãnh đạo, các cô chú, anh chị đang công tác tại Công ty Cổ phần Xi măng Vinaconex Lương Sơn – Hoà Bình. Tuy nhiên, do thời gian và trình độ còn nhiều hạn chế nên khoá luận của em cũng không thể tránh khỏi sai sót, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô để khoá luận của em được hoàn thiện hơn. Lê Thị Thanh Xuân KT13042 2 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & PHẦN 1 MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM 1.1. Khái niệm, phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm 1.1.1. Chi phí sản xuất a. Khái niệm, bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, biểu hiện bằng tiền và tính cho một thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm). Quá trình sản xuất của một doanh nghiệp sản xuất công nghiệp là quá trình kết hợp sự tiêu hao của 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Khi có đủ 3 yếu tố này thì hoạt động sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành, tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất. Sự hình thành nên chi phí sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của doanh nghiệp. Bản chất của chi phí trong hoạt động của doanh nghiệp được xác định là những hao phí về tài nguyên, vật chất, về lao động và phải gắn liền với mục đích kinh doanh. - Chi phí của doanh nghiệp phải được đo lường và tính toán bằng tiền trong một khoảng thời gian nhất định. - Độ lớn của chi phí phụ thuộc vào hai nhân tố chủ yếu: khối lượng các yếu tố sản xuất đã tiêu hao trong kỳ và giá cả của một đơn vị yếu tố sản xuất đã hao phí. Vì lẽ đó, cần phải phân biệt giữa chi phí với chi tiêu. - Chi phí khác với chi tiêu. Chỉ được tính vào chi phí của kỳ kế toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất Lê Thị Thanh Xuân KT13042 3 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & ra trong kỳ chứ không phải mọi khoản chi ra trong kỳ kế toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích nào bao gồm: chi cho quá trình mua sắm vật tư, hàng hoá, chi cho sản xuất chế tạo sản phẩm, chi cho quản lý, chi vận chuyển, bốc dỡ… Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, đồng thời có sự khác nhau về lượng và về thời điểm phát sinh. Chi phí phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, còn chi tiêu không gắn liền với mục đích sản xuất kinh doanh. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. b. Phân loại chi phí sản xuất Chi phí sản xuất có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích và yêu cầu của công tác quản lý. Tuy nhiên, về mặt hạch toán, chi phí sản xuất thường được phân theo các tiêu thức sau:  Phân theo yếu tố chi phí Việc phân loại này nhằm phục vụ cho việc tập hợp, quản lý chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu đồng nhất của nó mà không xét đến công dụng cụ thể, địa điểm phát sinh. Cách phân loại này tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và phân tích định mức vốn lưu động cũng như việc lập, kiểm tra và phân tích dự đoán chi phí. Theo quy định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia làm 5 yếu tố: - Yếu tố chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ, nhiên liệu, động lực… - Yếu tố chi phí nhân công: gồm tổng số tiền lương, phụ cấp lương phải trả cho người lao động, trích BHYT, BHXH, KPCĐ theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương. Lê Thị Thanh Xuân KT13042 4 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & - Yếu tố khấu hao TSCĐ: phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho SXKD. - Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh. - Yếu tố chi phí khác bằng tiền: gồm các chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh ở trên dùng vào hoạt động SXKD trong kỳ  Phân theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc tính giá thành sản phẩm, chi phí được phân theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo quy định hiện hành, giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. - Chi phí nhân công trực tiếp: gồm toàn bộ tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương trả cho người lao động trực tiếp sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện các dịch vụ cùng với các khoản trích theo lương theo tỷ lệ quy định cho các quỹ KPCĐ, BHXH, BHYT. - Chi phí sản xuất chung: bao gồm toàn bộ các chi phí còn lại phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất sau khi loại trừ chi phí nguyên vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp kể trên. - Chi phí bán hàng: gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trong kỳ. - Chi phí quản lý doanh nghiệp: bao gồm toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến quản trị kinh doanh và quản lý hành chính trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà không tách được cho bất kỳ hoạt động hay phân xưởng nào. Lê Thị Thanh Xuân KT13042 5 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & Ngoài hai cách phân loại phổ biến trên, các doanh nghiệp còn có thể phân loại chi phí sản xuất theo các cách dưới đây:  Phân theo cách thức kết chuyển chi phí Theo cách thức kết chuyển, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. - Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua - Chi phí thời kỳ là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất ra hay được mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu trừ ra từ lợi nhuận của thời kỳ mà chúng phát sinh.  Phân theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh là được phân theo mối quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Theo cách này, chi phí được chia thành: - Biến phí: là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn: chi phí về nguyên liệu, nhân công… Tuy nhiên, biến phí nếu được tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại có tính cố định - Định phí là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công việc hoàn thành, như: các chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí thuê mặt bằng… Các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi. 1.1.2. Giá thành sản phẩm a. Khái niệm, bản chất và nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm Lê Thị Thanh Xuân KT13042 6 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan đến việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu mang tính giới hạn và xác định, vừa mang tính chất khách quan, vừa mang tính chất chủ quan. Trong hệ thống các chỉ tiêu quản lý của doanh nghiệp, giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như tính đúng đắn của những giải pháp quản lý mà doanh nghiệp đã thực hiện để nhằm mục đích hạ thấp chi phí, tăng cao lợi nhuận. b. Phân loại giá thành sản phẩm  Phân theo thời điểm và nguồn số liệu để tính giá thành Theo cách phân loại này, chỉ tiêu giá thành được chia thành: - Giá thành kế hoạch: giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế của kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch. - Giá thành định mức: cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức lại được xác Lê Thị Thanh Xuân KT13042 7 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & định trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng). Do đó, giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành. - Giá thành thực tế: giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm. Cách phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt hay hụt định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó, điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp.  - Phân theo phạm vi phát sinh chi phí Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng): là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất. - Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ): là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kết quả lãi (lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý cho từng mặt hàng, từng loại dịch vụ nên cách phân loại này chi còn mang ý nghĩa học thuật, nghiên cứu. Có thể nói, quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình mà doanh nghiệp pahỉ thường xuyên đầu tư các loại chi phí khác nhau nhằm đạt được mục tiêu: tạo ra khối lượng sản phẩm, lao vụ hoặc khối lượng công việc phù hợp với nhiệm vụ sản xuất đã đề ra. Doanh nghiệp luôn muốn biết để sản xuất ra một sản phẩm thì doanh nghiệp phải tốn kém hết bao nhiêu chi phí, các loại chi phí và tỷ trọng của Lê Thị Thanh Xuân KT13042 8 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & từng loại chi phí, khả năng để hạ thấp các loại chi phí này. Do đó, chỉ tiêu để thoả mãn những thông tin trên chính là giá thành sản phẩm. 1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều là các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá. Tuy nhiên, chi phí và giá thành là hai mặt khác nhau của quá trình sản xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất, còn giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất. Nói đến chi phí sản xuất là nói đến toàn bộ các khoản hao phí vật chất được tính bằng tiền mà doanh nghiệp đã bỏ ra để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, có đặc điểm là luôn vận động mang tính đa đạng và phức tạp gắn liền với tính đa dạng, phức tạp của ngành nghề sản xuất, quy trình sản xuất. Ngược lại, khi nói tới giá thành sản phẩm là nói tới toàn bộ những chi phí tính bằng tiền để sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm hoặc dịch vụ nhất định. Chi phí sản xuất trong kỳ là cơ sở, tiền đề để tính giá thành sản phẩm, dịch vụ đã hoàn thành và giá thành sản phẩm là mục đích cuối cùng của kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Sự tiết kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm bởi chi phí sản xuất là đầu vào, là nguyên nhân dẫn tới kết quả đầu ra là giá thành sản phẩm. Chi phí bỏ ra cao hay thấp cũng kéo theo giá thành sản phẩm cao hay thấp tương ứng. Lê Thị Thanh Xuân KT13042 9 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & Sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Chi phí sản xuất dở dang Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đầu kỳ A B Tổng giá thành sản phẩm C D Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ Qua sơ đồ cho thấy: AC = AB + BD – CD, hay: Tổng giá thành sản phẩm hoàn Chi phí sản xuất PS Chi phí sản = xuất dở dang Chi phí sản trong kỳ (đã trừ các + khoản thu hồi ghi - xuất dở dang đầu kỳ cuối kỳ thành giảm chi phí) (Công thức tính giá thành sản phẩm này được tính cho giá thành sản xuất, chi phí bao gồm chi phí liên quan đến quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm) Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, tuy chi phí và giá thành là hai khái niệm có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau. Sự khác biệt đó là: - Chi phí sản xuất luôn gắn liền với từng thời kỳ đã phát sinh ra chúng, còn giá thành sản phẩm lại gắn liền với một khối lượng sản phẩm, dịch vụ đã hoàn thành. - Chi phí phát sinh trong doanh nghiệp được phân thành các yếu tố chi phí, có cùng một nội dung kinh tế, chúng không nói rõ địa điểm và mục đích bỏ ra chi phí. Còn những chi phí nào phát sinh nói rõ địa điểm và mục đích bỏ ra chi phí đó thì chúng được tập hợp lại thành các khoản mục để tính toán giá thành sản phẩm, dịch vụ. Lê Thị Thanh Xuân KT13042 10 Khóa luận tốt nghiệp QTKD - Khoa Kinh tế & Chi phí sản xuất trong kỳ không chỉ liên quan đến những sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến cả sản phẩm còn đang dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Còn giá thành sản phẩm không liên quan đến chí phí sản xuất sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng, nhưng lại liên quan đến chi phí sản xuất của sản phẩm dở dang kỳ trước chuyển sang. - Khác nhau về phạm vi: chi phí sản xuất tính cho 1 kỳ còn giá thành sản phẩm tính cho 1 sản phẩm hoàn thành. 1.1.4. Sự cần thiết phải tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền các chi phí tính cho một khối lượng sản phẩm nhất định hoàn thành. Mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tạo nên những giá trị sử dụng nhất định để đáp ứng yêu cầu tiêu dùng xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp luôn quan tâm đến hiệu quả của các chi phí bỏ ra và với chi phí bỏ ra ít nhất doanh nghiệp sẽ thu được giá trị sử dụng lớn nhất. Do đó, doanh nghiệp luôn tìm mọi biện pháp để hạ thấp chi phí nhằm mục đích thu lợi nhuận tối đa. Bên cạnh đó, một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp sản xuất chính là chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Chi phí sản xuất luôn gắn liền với việc sử dụng vật tư, tài sản của doanh nghiệp. Thực chất, chi phí sản xuất là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ). Do đó, chi phí sản xuất chính là cơ sở hình thành nên giá thành sản phẩm, tiết kiệm chi phí là điều kiện quyết định cho việc hạ giá thành sản phẩm. Trong cơ chế thị trường và xu hướng hội nhập toàn cầu, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra rất quyết liệt. Các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp sản xuất nói riêng muốn tồn tại và phát triển thì trước hết doanh nghiệp đó phải tạo ra sản phẩm đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của Lê Thị Thanh Xuân KT13042 11 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & khách hàng, giá cả phải chăng…Để làm được điều này, công cụ đầu tiên và quan trọng phải kể đến đó là công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. 1.1.5. Nguyên tắc kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Để đảm bảo kế toán đầy đủ, chính xác chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, cung cấp thông tin kịp thời cho quản trị doanh nghiệp, kế toán cần quán triệt các nguyên tắc sau: - Phải nắm vững nội dung, bản chất kinh tế của chi phí - Phải phân loại chi phí sản xuất và phân loại giá thành sản phẩm một cách hợp lý theo yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán. - Phải phân định chi phí với giá thành sản phẩm và nắm rõ mối quan hệ giữa chúng - Xác định đối tượng, phương pháp kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm phù hợp. - Xác định trình tự kế toán và tổng hợp chi phí sản xuất thích ứng. 1.2. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 1.2.1. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất a. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất Chi phí sản xuất của doanh nghiệp có thể phát sinh ở nhiều địa điểm khác nhau, liên quan đến việc sản xuất chế tạo các loại sản phẩm, lao vụ khác nhau. Vì vậy, chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ phải được kế toán tập hợp theo một phạm vi, giới hạn nhất định. Đó chính là đối tượng kế toán chi phí sản xuất. Xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất là công việc đầu tiên và quan trọng của tổ chức kế toán quá trình sản xuất. Tổ chức kế toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn kế toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh theo từng sản phẩm, Lê Thị Thanh Xuân KT13042 12 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ, phân xưởng…. và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định. Như vậy, việc phân chia kế toán quá trình sản xuất thành hai giai đoạn là do sự khác nhau cơ bản về giới hạn tập hợp chi phí trong kế toán chi phí sản xuất (tức là đối tượng kế toán chi phí sản xuất) và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành một đơn vị (tức là đối tượng tính giá thành sản phẩm). Xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất chính là việc xác định giới hạn việc tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và chịu chi phí. Trên cơ sở đối tượng kế toán chi phí, kế toán lựa chọn phương pháp kế toán chi phí thích hợp. Việc xác định đối tượng kế toán chi phí sản xuất phụ thuộc vào các yếu tố: - Tính chất, đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ sản xuất. - Trình độ và yêu cầu của quản lý. - Yêu cầu thông tin cho việc tính giá thành. - Trình độ và khả năng của bộ máy kế toán. b. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất. Theo quyết định số 15/2006/QĐ –BTC ban hành ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, doanh nghiệp được lựa chọn một trong hai phương pháp hạch toán hàng tồn kho: - Phương pháp kê khai thường xuyên: là phương pháp theo dõi và phản ánh một cách thường xuyên liên tục tình hình nhập, xuất, tồn các loại vật tư trên sổ sách kế toán. Phương pháp này được áp dụng ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các mặt hàng có giá trị lớn, phức tạp. - Phương pháp kiểm kê định kỳ: là phương pháp hạch toán căn cứ vào kết quả kiểm kê thực tế để phản ánh giá trị hàng tồn kho cuối kỳ trên sổ kế toán tổng hợp, từ đó tính ra giá trị vật liệu xuất trong kỳ theo phương pháp sau: Lê Thị Thanh Xuân KT13042 13 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Trị giá vật liệu, hàng hoá xuất trong kỳ Khoa Kinh tế & Trị giá vật = liệu, hàng hoá tồn đầu kỳ Trị giá vật + liệu, hàng hoá Trị giá vật _ liệu, hàng hoá nhập trong kỳ tồn cuối kỳ Phương pháp này được áp dụng ở các doanh nghiêp có quy mô nhỏ, kinh doanh nhiều mặt hàng, chủng loại. Tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho mà doanh nghiệp áp dụng và căn cứ vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình, doanh nghiệp sẽ lựa chọn trình tự hạch toán chi phí sản xuất khác nhau (theo phương pháp kê khai thường xuyên hay phương pháp kiểm kê định kỳ). 1.2.2. Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm a. Đối tượng tính giá thành sản phẩm Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc lao vụ do doanh nghiệp sản xuất, chế tạo và đã hoàn thành cần được tính tổng giá thành và giá thành đơn vị. Việc xác định đối tượng tính giá thành là công việc cần thiết, đầu tiên trong toàn bộ công việc tính giá thành sản phẩm của kế toán. Bộ phận kế toán giá thành phải căn cứ vào đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp, các loại sản phẩm và lao vụ mà doanh nghiệp sản xuất và tính chất sản xuất của chúng để xác định đối tượng tính giá thành cho thích hợp. Để xác định chính xác đối tượng tính giá thành cần dựa vào các căn cứ sau: - Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: + Với quy trình công nghệ sản xuất giản đơn: đối tượng tính giá thành chỉ có thể là sản phẩm đã hoàn thành ở cuối quá trình sản xuất. + Với quy trình sản xuất phức tạp kiểu liên tục: đối tượng tính giá thành có thể là thành phẩm ở giai đoạn chế biến cuối cùng, cũng có thể là các loại bán thành phẩm hoàn thành ở từng giai đoạn sản xuất. Lê Thị Thanh Xuân KT13042 14 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & + Với quy trình sản xuất phức tạp kiểu song song (lắp ráp): đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm được lắp ráp hoàn chỉnh, cũng có thể là từng bộ phận, chi tiết sản phẩm. - Loại hình sản xuất: + Với loại hình sản xuất đơn chiếc và sản xuất những loạt nhỏ: đối tượng tính giá thành là từng sản phẩm hay từng loại sản phẩm. + Với loại hình sản xuất hàng loạt khối lượng lớn: đối tượng tính giá thành là nhóm bán thành phẩm hay nhóm sản phẩm cuối cùng. - Yêu cầu và trình độ quản lý: + Với trình độ quản lý cao có thể chi tiết đối tượng tính giá thành ở các góc độ khác nhau. + Với trình độ quản lý thấp: đối tượng tính giá thành có thể là các nhóm sản phẩm cùng loại có kích cỡ khác nhau hoặc có thể quy định về sản phẩm gốc. Việc xác định đối tượng tính giá thành là căn cứ để kế toán giá thành tổ chức các bảng tính giá thành sản phẩm, lựa chọn phương pháp tính giá thành phù hợp, tổ chức công việc tính giá thành hợp lý, phục vụ cho việc quản lý và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và tính toán hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. b. Phương pháp tính giá thành sản phẩm Giá thành là mục đích của tập hợp chi phí, là chỉ tiêu quan trọng trong việc xác định tiết kiệm hay lãng phí chi phí đầu vào. Đây cũng là điều kiện giúp các doanh nghiệp thực hiện cạnh tranh. Hiện nay, các doanh nghiệp sử dụng nhiều phương pháp tính giá thành khác nhau như: - Phương pháp tính giá thành giản đơn (trực tiếp) - Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng. - Phương pháp tính giá thành theo quy trình công nghệ sản xuất (tính giá thành phân bước) Lê Thị Thanh Xuân KT13042 15 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & - Phương pháp tính giá thành theo hệ số. - Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ. - Phương pháp tổng cộng chi phí. ..……… Nhưng trong luận văn này, em chỉ đề cập tới những phương pháp tính giá thành được áp dụng phổ biến tại các doanh nghiệp hiện nay. * Phương pháp tính giá thành giản đơn Phương pháp này được áp dụng ở những doanh nghiệp chỉ sản xuất một số ít mặt hàng với khối lượng lớn, chu kỳ sản xuất ngắn, sản phẩm dở dang không có hoặc có không đáng kể: các doanh nghiệp khai thác than, quặng, hải sản, xi măng, các doanh nghiệp sản xuất động lực… Theo phương pháp này, chi phí sản xuất phát sinh được phản ánh ở một sổ (hoặc thẻ) hạch toán chi phí sản xuất. Công việc tính giá thành thường được tiến hành vào cuối tháng. Tổng giá thành sản xuất của sản phẩm hoàn thành Giá trị sản = Giá thành sản xuất đơn vị sản phẩm * Chi phí sản phẩm dở + xuất phát sinh dang đầu kỳ Giá trị sản - phẩm dở dang trong kỳ cuối kỳ Tổng giá thành sản xuất của sản phẩm hoàn thành = Số lượng thành phẩm Phương pháp tính giá thành theo hệ số. Phương pháp hệ số được áp dụng trong những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí sản Lê Thị Thanh Xuân KT13042 16 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & xuất không được hạch toán riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất. - Theo phương pháp này, trước hết kế toán căn cứ chi phí sản xuất đã tập hợp được và giá trị sản phẩm dở đầu kỳ, cuối kỳ để tính giá thành cho toàn bộ sản phẩm sản xuất hoàn thành: Z = D đk + C tk – D ck - Căn cứ vào hệ số tính giá thành của từng loại sản phẩm, kế toán tiến hành quy đổi sản lượng thực tế của các loại sản phẩm về sản lượng sản phẩm tiêu chuẩn và phân bổ giá thành cho từng loại sản phẩm trên cơ sở số lượng sản phẩm tiêu chuẩn này: n Quy đổi ra sản phẩm tiêu chuẩn: Q = ∑ Qi x Hi i =1 Tính giá thành thực tế sản phẩm: Zi = Z x (QiHi) Q Trong đó: Z: tổng giá thành của toàn bộ sản phẩm sản xuất hoàn thành Dđk: giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ Ctk: chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ Dck: giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ Q: tổng sản lượng tiêu chuẩn Qi: sản lượng thực tế của sản phẩm i Hi: hệ số tính giá thành của sản phẩm i n: số loại sản phẩm chính * Phương pháp tính giá thành theo tỷ lệ Đối với các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau như: may mặc, dệt kim, đóng giầy, cơ khí chế tạo (dụng Lê Thị Thanh Xuân KT13042 17 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & cụ, phụ tùng)…, để giảm bớt khối lượng hạch toán, kế toán thường tiến hành tập hợp chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. - Kế toán căn cứ vào chi phí sản xuất đã tập hợp được và giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ, giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ để xác định tổng giá thành cho toàn bộ sản phẩm sản xuất ra. + Xác định tiêu chuẩn phân bổ: Tiêu chuẩn phân bổ = Sản lượng thực tế X Giá thành đơn vị kế hoạch + Tính tỷ lệ giá thành: Tổng chi phí thực tế Tổng chi phí kế hoạch (hoạch định mức) Tính giá thành đơn vị thực tế của từng loại sản phẩm: Tỷ lệ giá thành + Giá thành thực tế đơn vị sản phẩm từng loại = = Tiêu chuẩn phân bổ của đối tượng i X Tỷ lệ giá thành 1.3. H ạch toán tổng hợp chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên 1.3.1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu… được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm. Đối với những nguyên vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, loại sản phẩm, lao vụ,…) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng phương pháp phân bổ gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao nguyên vật liệu chính, theo khối lượng sản phẩm sản xuất…. Lê Thị Thanh Xuân KT13042 18 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & Chi phí vật liệu phụ, nhiên liệu có thể chọn tiêu chuẩn phân bổ như: chi phí định mức, chi phí kế hoạch, chi phí nguyên vật liệu chính, khối lượng sản phẩm sản xuất. Chi phí vật liệu phân bổ cho từng đối tượng = Tổng tiêu thức phân bổ cho từng đối tượng X Tỷ lệ (hay hệ số) phân bổ Trong đó: Tỷ lệ (hay hệ số phân bổ) = Tổng chi phí vật liệu cần phân bổ Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng a. Tài khoản sử dụng. TK 621 “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp” Tài khoản này dùng để theo dõi các khoản chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp và được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất, sản phẩm, nhóm sản phẩm…) Tài khoản này có kết cấu gồm: + Bên Nợ: Tập hợp chi phí nguyên, vật liệu sử dụng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm hay thực hiện dịch vụ. + Bên Có: • Giá trị vật liệu xuất dùng không hết nhập lại kho hay chuyển kỳ sau • Kết chuyển chi phí vật liệu trực tiếp theo từng đối tượng. Tài khoản 621 “Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp” cuối kỳ không có số dư. b. Trình tự hạch toán Xuất kho nguyên, vật liệu sử dụng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện dịch vụ: Nợ TK 621 (chi tiết theo từng đối tượng): tập hợp CPNVLTT Có TK 152 (chi tiết vật liệu): giá thực tế vật liệu xuất dùng. Lê Thị Thanh Xuân KT13042 19 Khóa luận tốt nghiệp QTKD Khoa Kinh tế & Trường hợp nhận vật liệu về không nhập kho mà xuất dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ, căn cứ giá thực tế xuất dùng: Nợ TK 621 (chi tiết theo đối tượng): tập hợp CPNVLTT Nợ TK 133 (1331): thuế GTGT được khấu trừ (nếu có) Có TK 331, 111, 112: Giá trị vật liệu mua ngoài Có TK 411: giá trị vật liệu nhận góp vốn Có TK 154: giá trị vật liệu tự sản xuất hay thuê ngoài gia công. Có các TK khác (311, 336, 338….): giá trị vật liệu vay, mượn… Để tính toán và tập hợp chính xác chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp, kế toán cần chú ý kiểm tra, xác định số nguyên vật liệu đã lĩnh nhưng cuối kỳ chưa sử dụng hết và giá trị của phế liệu thu hồi nếu có để loại ra khỏi chi phí nguyên vật liệu trong kỳ: - Phản ánh giá trị vật liệu xuất dùng không hết nhập lại kho hay chuyển kỳ sau: Nợ TK 152 (chi tiết vật liệu): tăng giá trị vật liệu ở kho Có TK 621 (chi tiết đối tượng): ghi giảm CPNVLTT - Kết chuyển chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp theo từng đối tượng để tính giá thành vào cuối kỳ: Nợ TK 154 (chi tiết theo đối tượng): tổng hợp chi phí NVLTT theo từng đối tượng tính giá Có TK 621 (chi tiết theo đối tượng): kết chuyển CPNVLTT. Trong quá trình sử dụng, nếu nguyên vật liệu đem sử dụng vượt định mức, không tiết kiệm thì số nguyên vật liệu này sẽ không được hạch toán vào tài khoản 154 mà hạch toán vào tài khoản 632 để ghi tăng giá vốn hàng bán. Nợ TK 632: giá trị nguyên vật liệu sử dụng vượt định mức Có TK 621 (chi tiết theo đối tượng): kết chuyển CPNVLTT sử dụng vượt định mức. Lê Thị Thanh Xuân KT13042 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan